QUAN ĐIỂM VỀ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG NGÂN HÀNG TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẠ LONG, TỈNH QUẢNG NINH
QUAN ĐIỂM VỀ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG NGÂN HÀNG TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẠ LONG, TỈNH QUẢNG NINH
3.1. Quan điểm về hoàn thiện pháp luật giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng ngân hàng tại Tòa án
3.1.1. Quán triệt sâu sắc quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng về áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án nói chung và giải quyết các vụ án tranh chấp hợp đồng tín dụng ngân hàng nói riêng
Trong những năm qua, Đảng ta đã có nhiều nghị quyết đề cập tới vấn đề cải cách tư pháp và trong đó đặc biệt là Nghị quyết số 49–NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị “Về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” và Nghị quyết số 81/2014/QH13 ngày 24/11/2014 của Quốc hội “Về việc thi hành Luật Tổ chức Tòa án nhân dân”. Vấn đề này tiếp tục được đề cập đến tại Báo cáo Chính trị của các kỳ Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng ta.
Là cơ quan thực hiện chức năng xét xử sơ thẩm các vụ án tranh chấp trong đó có các vụ án về tranh chấp HĐTD ngân hàng, nên hoạt động áp dụng pháp luật về thủ tục xét xử tranh chấp HĐTD ngân hàng tại Tòa án trong giai đoạn hiện nay cũng phải được thực hiện trên cơ sở quán triệt các quan điểm của Đảng về lĩnh vực này. Đó là các quan điểm mang tính chỉ đạo của Đảng trong các văn kiện, Nghị quyết các kỳ Đại hội đại biểu toàn quốc (lần thứ IX, X, XI, XII).
Thực hiện đúng đắn và đầy đủ các quy định về thủ tục trong quá trình xét xử các vụ án kinh doanh thương mại về tranh chấp HĐTD ngân hàng là cơ sở để góp phần đẩy mạnh cải cách tư pháp, nhằm “Xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”. Do đó, cần quán triệt sâu sắc quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng về cải cách tư pháp trong giai đoạn hiện nay:
Thứ nhất: Cải cách tư pháp phải đặt dưới sự lãnh đạo chặt chẽ của Đảng, bảo
đảm sự ổn định chính trị, bản chất Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
Thứ hai: Cải cách tư pháp phải xuất phát từ yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng xã hội dân chủ, công bằng, văn minh; góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ vững chắc Tổ quốc; gắn với đổi mới công tác lập pháp, cải cách hành chính. Đồng thời phải kế thừa truyền thống pháp lý dân tộc, những thành tựu đã đạt được của nền tư pháp XHCN Việt Nam: tiếp thu có chọn lọc những kinh nghiệm của nước ngoài phù hợp với hoàn cảnh nước ta và yêu cầu chủ động hội nhập quốc tế, đáp ứng được xu thế phát triển của xã hội trong tương lai.
Thứ ba: Cải cách tư pháp được tiến hành khẩn tưởng, đồng bộ, có trọng tâm, trọng điểm với những bước đi vững chắc. Ngày 02/06/2005 Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 49/NQ – TW về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, trong đó có đề ra nhiệm vụ xây dựng, hoàn thiện tổ chức và hoạt động Tòa án nhân dân theo hướng: Tổ chức hệ thống Tòa án theo thẩm quyền xét xử độc lập, không phụ thuộc vào đơn vị hành chính, gồm Tòa án sơ thẩm khu vực được tổ chức ở một hoặc một số đơn vị hành chính cấp huyện; Tòa án phúc thẩm có nhiệm vụ chủ yếu là xét xử phúc thẩm và xét xử sơ thẩm một số vụ án; Tòa thượng thẩm được tổ chức theo khu vực có nhiệm vụ xét xử phúc thẩm, TAND Tối cao có nhiệm vụ tổng kết kinh nghiệm xét xử, hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật, phát triển án lệ và xét xử giám đốc,tái thẩm.Việc thành lậpTòa chuyên trách phải căn cứ vào thực tế xét xử của từng cấp của Tòa án, từng khu vực. Đổi mới tổ chức TAND theo hướng tinh gọn với đội ngũ Thẩm phán là những chuyên gia đầu ngành về pháp luật có kinh nghiệm trong ngành.
Thứ tư: Phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội trong quá trình cải cách tư pháp. Các cơ quan tư pháp, cơ quan bổ trợ tư pháp phải đặt dưới sự giám sát của các cơ quan dân cử và nhân dân.
Những quan điểm trên của Đảng cộng sản Việt Nam chính là cơ sở lý luận, là định hướng cho hoạt động áp dụng pháp luật giải quyết tranh chấp HĐTD ngân hàng của Tòa án nhân dân nói chung và hoạt động áp dụng pháp luật trong giải quyết tranh chấp hợp đồng của Tòa án nhân dân thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh nói riêng.
3.1.2. Quan điểm cụ thể về áp dụng pháp luật trong giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng ngân hàng của ngành Tòa án nhân dân nói chung và Tòa án nhân dân thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh nói riêng
Trên cơ sở quán triệt những quan điểm cơ bản của Đảng ta đã nêu ở mục 3.1.1 của Luận văn, có thể thấy rằng các quan điểm cơ bản đảm bảo việc áp dụng pháp luật có hiệu quả trong việc giải quyết các vụ án nói chung và các vụ án tranh chấp HĐTD ngân hàng nói riêng của Tòa án nhân dân thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh là:
Thứ nhất: Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động áp dụng pháp luật trong giải quyết án tranh chấp HĐTD ngân hàng tại TAND thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh, Đảng lãnh đạo trên ba phương diện: Tư tưởng, tổ chức và cán bộ. Thường xuyên giám sát hoạt động của Tòa án, đánh giá đạo đức phẩm chất, vai trò gương mẫu của cán bộ, đảng viên trong ngành Tòa án, sự lãnh đạo của Đảng được thể hiện ở phương diện chỉ đạo Tòa án theo đường lối xét xử nghiêm minh, công bằng, đúng pháp luật, tạo được lòng tin của quần chúng nhân dân đối với cơ quan Tòa án nói riêng và sự lãnh đạo của Đảng nói chung.
Thứ hai: Áp dụng pháp luật trong giải quyết các tranh chấp HĐTD ngân hàng phải quan tâm chú trọng hơn nữa đến vấn đề hòa giải, xuất phát từ các quan hệ trong xã hội, các tranh chấp HĐTD ngân hàng thường xảy ra khi các bên tham gia hợp đồng không thống nhất được vấn đề mà các bên cần giải quyết. Vì vậy khi các bên cần đến sự can thiệp của Tòa án, thì Tòa án chính là cơ quan phân định quyền và nghĩa vụ của các bên nhằm đảm bảo được quyền và lợi ích hợp pháp cũng như việc thực hiện nghĩa vụ của các đương sự. Việc giải quyết được mẫu thuẫn giữa các bên tham gia bằng công tác hòa giải sẽ giúp giảm được thời gian và chi phí cho Tòa án cũng như các bên tham gia tranh chấp. Vì vậy công tác hòa giải trong giải quyết tranh chấp HĐTD ngân hàng cần phải được chú trọng và ưu tiên hàng đầu.
Việc áp dụng pháp luật trong giải quyết tranh chấp HĐTD ngân hàng khi ra quyết định xét xử phải quan tâm đến tính khả thi, khả năng thực hiện trong thực tiễn để đảm bảo được quyền và lợi lích của các bên tham gia hợp đồng.
Thứ ba: Tăng cường tranh tụng tại phiên tòa là một trong những nội dung quan trọng trong công cuộc cải các tư pháp hiện nay. Việc mở rộng tranh tụng tại Tòa án sẽ giúp cho các bên tham gia bảo vệ được quyền và lợi ích của minh và giúp cho việc xét xử của Tòa án các cấp nâng cao chất lượng khi ra ban hành bản án và quyết định tranh gây sai sót trong hoạt động tố tụng.
Xuất phát từ nguyên tắc cơ bản của giải quyết tranh chấp dân sự nói chung và giải quyết tranh chấp HĐTD ngân hàng nói riêng là quyền tự quyết và tự định đoạt thuộc về các đương sự. Việc áp dụng pháp luật trong việc giải quyết tranh chấp HĐTD ngân hàng không chỉ Tòa có quyền chỉ định áp dụng các quy phạm pháp luật để giải quyết các tranh chấp mà ở đây còn thể hiện sự bình đẳng của các bên tham gia quan hệ pháp luật.
Thứ tư: Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng xây dựng và phát triển đội ngũ Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân đáp ứng được nghiệp vụ, chuyên môn về pháp luật để xử lý các vụ án về tranh chấp HĐTD ngân hàng đủ về số lượng và chất lượng.
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng ngân hàng tại Tòa án
3.2.1. Giải pháp về pháp luật nhằm hạn chế tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng ngân hàng
Thứ nhất: Cần hoàn thiện quy định của pháp luật về cách tính lãi suất chậm trả trong hợp đồng tín dụng ngân hàng
- Khoản 5, Điều 466, BLDS năm 2015 quy định:
“a) Lãi trên nợ gốc theo lãi suất thỏa thuận trong hợp đồng tương ứng với
thời hạn vay mà đến hạn chưa trả; trường hợp chậm trả thì còn phải trả lãi theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật này;
b) Lãi trên nợ gốc quá hạn chưa trả bằng 150% lãi suất vay theo hợp đồng
tương ứng với thời gian chậm trả, trừ trường hợp có thỏa thuận khác”.
- Điều 468, BLDS năm 2015 quy định:
“1. Lãi suất vay do các bên thỏa thuận. Trường hợp các bên có thỏa thuận về lãi suất thì lãi suất theo thỏa thuận không được vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay, trừ trường hợp luật khác có liên quan quy định khác. Căn cứ tình hình thực tế và theo đề xuất của Chính phủ, Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định điều chỉnh mức lãi suất nói trên và báo cáo Quốc hội tại kỳ họp gần nhất. Trường hợp lãi suất theo thỏa thuận vượt quá lãi suất giới hạn được quy định tại khoản này thì mức lãi suất vượt quá không có hiệu lực.
2. Trường hợp các bên có thỏa thuận về việc trả lãi, nhưng không xác định rõ lãi suất và có tranh chấp về lãi suất thì lãi suất được xác định bằng 50% mức lãi suất giới hạn quy định tại khoản 1 Điều này tại thời điểm trả nợ”.
Theo quy định Luật các TCTD năm 2010 thì: “Tổ chức tín dụng và khách hàng có quyền thỏa thuận về lãi suất, phí cấp tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng theo quy định của pháp luật” ( Điều 91, Khoản 2). Luật các tổ chức tín dụng năm 2010, không đề cập đến lãi suất đối với khoản nợ quá hạn. Mặt khác, theo Thông tư số 39/2016/TT-NHNN ngày 30/12/2016 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định: “Trường hợp khoản vay bị chuyển nợ quá hạn thì khách hàng phải trả lãi trên dư nợ gốc bị quá hạn tương ứng với thời gian chậm trả, lãi suất áp dụng không vượt quá 150% lãi suất cho vay trong hạn tại thời điểm chuyển nợ quá hạn”.
Như vậy có nhiều căn cứ áp dụng lãi suất nợ quá hạn đối với khoản nợ gốc quá hạn này, lại đặt ra mối quan hệ giữa luật chung và luật chuyên ngành và giá trị pháp lý của các văn bản pháp luật. Nên quy định rõ lãi suất đối với khoản nợ quá hạn không vượt quá 150% lãi suất trong hạn trong HĐTD, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác. Như vậy, các TCTD sẽ không bị thiệt thòi khi có tranh chấp, vì Tòa án sẽ có cơ sở để không áp dụng lãi suất cơ bản trong tính lãi suất nợ quá hạn. Sở dĩ cần như vậy vì đây là quan hệ dân sự đặc thù có luật chuyên ngành điều chỉnh sẽ sâu sát hơn với thực tế BLDS. Mặt khác trên thực tế áp dụng thông tư 39/2016/TT-NHNN để tính lãi suất quá hạn, và chỉ có những hợp đồng bị tranh chấp mới phát sinh lãi suất nợ quá hạn còn những hợp đồng khác với khách hàng vẫn áp dụng cách tính lãi suất nợ quá hạn bằng 150% lãi suất cho vay trong hạn. Nghĩa là quy định BLDS chỉ có thể điều chỉnh một bộ phận trong số lượng lớn các hợp đồng tín dụng giữa TCTD và khách hàng, chưa thực sự có sức ảnh hưởng và hiệu quả trong lĩnh vực tài chính ngân hàng. Mặt khác, BLDS năm 2015 và Luật thương mại 2005 quy định cách tính tiền phạt chậm trả không giống nhau. Theo Khoản 2, Điều 357, BLDS năm 2015 quy định: “Lãi suất phát sinh do chậm trả tiền được xác định theo thỏa thuận của các bên nhưng không vượt quá mức lãi suất được quy định tại Khoản 1 Điều 468; nếu không có thỏa thuận thì thực hiện theo quy định tại Khoản 2 Điều 468 bộ luật này”. Trong đó, Điều 306 Luật thương mại năm 2005 lại quy định: “Trường hợp bên vi phạm hợp đồng chậm thanh toán tiền hàng hay chậm thanh toán thù lao dịch vụ và các chi phí hợp lý khác thì bên vi phạm hợp đồng có quyền yêu cầu trả tiền lãi trên số tiền chậm trả, trừ trường hợp có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định khác”. Theo quy định BLDS, Luật thương mại năm 2005 thì có hai cách tính tiền lãi phạt chậm trả, theo đó các bên tự do thỏa thuận nhưng không vượt quá trần 20%/năm, bởi lẽ nếu căn cứ vào lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường như quy định Luật thương mại năm 2005 thì các bên lại phải trải qua giai đoạn xác định lãi suất nợ quá hạn trung bình, sẽ tốn thời gian, cơ quan tài phán cũng gặp khó khăn hơn khi giải quyết vụ việc nếu có tranh chấp xảy ra.
Ý nghĩa của việc phạt trả chậm nhằm hạn chế chủ thể có nghĩa vụ của mình.
mặt khác, đó là hình thức chế tài buộc người vi phạm nghĩa vụ chịu trách nhiệm về hành vi vi phạm pháp luật của mình. Việc quy định chỉ có một cách thức tính tiền phạt sẽ hạn chế quyền của bên bị vi phạm hơn so với dựa trên cơ sở lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường. Thực tế đã có vụ tranh chấp bị tuyên hủy do ngân hàng yêu cầu phần phạt vi phạm vì lý do không có quy định nào cho phép phạt lãi nhiều lần về cùng một vi phạm trong HĐTD. Vì thế, pháp luật vẫn quy định nhiều cách thức phạt trả chậm, nhưng khi áp dụng các bên chỉ được lựa chọn một cách thức phạt đối với các khoản nợ chậm trả để đảm bảo lợi ích của bên vi phạm nghĩa vụ và hiện tại vẫn chưa quy định về khái niệm các loại lãi suất, cách tính lãi suất để tránh các TCTD lách luật nghĩ ra các khỏan phí, phụ phí khác để thu từ khách hàng khi thực hiện nghĩa vụ HĐTD quá hạn.
Ngoài ra, việc xử lý hậu quả của HĐTD vi phạm quy định về lãi suất, đối với một số hợp đồng vay tiền đã có hiệu lực và việc thỏa thuận lãi suất vượt quá quy định cho phép của nhà nước của bên cho vay thì không nên tuyên bố hợp đồng vô hiệu. Trong trường hợp này, để bảo về quyền lợi cho các bên Tòa án nên áp dụng và quy định lại lãi suất chuẩn và hợp lí tại thời điểm bây giờ trong hợp đồng vay tiền và hợp đồng cho vay tiền này tiếp tục có hiệu lực.
Thứ hai: Các quy định pháp luật về xử lý tài sản đảm bảo cần phải chặt chẽ và có tính thống nhất
Khi cho vay, TCTD dựa vào giá trị của tài sản bảo đảm thanh toán để xác định hạn mức cho vay. Các quy định về định giá tài sản thế chấp luôn được sửa đổi để bảo vệ quyền lợi chính đáng của các TCTD và khách hàng vay nhưng vẫn khó thực hiện trên thực tế. Cái khó trong việc xác định tài sản thế chấp là phải xác định tài sản thế chấp sao cho vừa đáp ứng được nhu cầu của khách hàng vừa đảm bảo thu hồi đủ nợ cho tổ chức tín dụng một khi tài sản thế chấp được đem ra xử lý. Vì vậy, quy định về tài sản bảo đảm là rất quan trọng đối với HĐTD, nó có ý nghĩa bảo đảm an toàn cho TCTD một khi khách hàng không thể trả thì TCTD sẽ tiến hành xử lý khối tài sản bảo đảm đó để thu hồi nợ. Tuy nhiên, thực tiễn quy định về bảo đảm tài sản và xử lý tài sản bảo đảm vẫn còn nhiều điểm bất cập làm ảnh hưởng đến quyền lợi của các chủ thể tham gia vào HĐTD từ đó dẫn đến mâu thuẫn và tranh chấp lại xảy ra.
Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm đã được sửa đổi, bổ sung bằng Nghị định số 11/2012/NĐ-CP ngày 22/02/2012 của Chính phủ, quy định về nội dung cách thức, thời gian xử lý tài sản bảo đảm nhưng chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể và cũng không có cơ sở để yêu cầu cơ quan thi hành án tham gia cưỡng chế thu hồi tài sản bảo đảm trong trường hợp bên thế chấp không tự nguyện giao tài sản cho ngân hàng để xử lý. Cụ thể tại mục 19 Nghị định 11/2012/NĐ-CP bổ sung Khoản 3 và Khoản 4, Điều 68, Nghị định 163/2006/NĐ-CP như sau: “3. Trong trường hợp chỉ thế chấp quyền sử dụng đất mà không thế chấp tài sản gắn liền với đất và người sử dụng đất đồng thời là chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất thì tài sản gắn liền với đất được xử lý đồng thời với quyền sử dụng đất, trừ trường hợp có thỏa thuận khác…”. Tuy nhiên, hiện nay vẫn chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể vấn đề này khi xử lý quyền sử dụng đất của chủ sở hữu thì xử lý như thế nào nếu bên vay vốn ngân hàng chỉ thế chấp quyền sử dụng đất mà không thế chấp tài sản gắn liền với đất; tài sản gắn liền với đất là nhà ở không được ghi nhận trong Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất do nhiều nguyên nhân khác nhau nên khi lập đồng thế chấp cũng không được cơ quan công chứng
nhà nước ghi nhận...thì xử lý tài sản thế nào, trong khi pháp luật lại quy định bên xử lý tài sản thế chấp được phép xử lý tài sản gắn liền với đất.
Mặt khác các quy định về việc xử lý tài sản thế chấp hiện nay chưa có sự thống nhất với nhau. Khi ký kết HĐTD ngân hàng có tài sản bảo đảm là bất động sản, các ngân hàng thương mại và bên đi vay có thỏa thuận trong HĐTD là bên vay hoặc bên bảo lãnh sẽ chuyển giao toàn bộ tài sản đảm bảo nếu bên vay không trả được nợ cho ngân hàng. Nhưng khi khách hàng vi phạm nghĩa vụ trả nợ thì ngân hàng lại không thể phát mại được vì thủ tục chuyển nhượng sang tên trước bạ đòi hỏi phải có sự đồng ý của chủ sở hữu. Trường hợp khách hàng không đồng ý ký tên để chuyển đổi quyền sở hữu thì ngân hàng không thể thực hiện được thủ tục xử lý tài sản bảo đảm để thu hồi nợ. Khi đó, ngân hàng cần có sự can thiệp của các cơ quan có thẩm quyền can thiệp, xử lý theo quy định của pháp luật với một trình tự thủ tục rườm rà, thời gian xử lý kéo dài gây ảnh hưởng đến lợi ích của các NHTM. Không còn cách nào khác các NHTM phải làm đơn khởi kiện gửi đơn đến toà án để giải quyết theo trình tự, thủ tục tố tụng. Nhưng thủ tục tố tụng hiện nay quá rườm rà, phức tạp và kéo dài trong nhiều năm, từ việc có đơn khởi kiện, ra bản án/Quyết định, có đơn yêu cầu, ra quyết định thi hành án, thời gian tự nguyện thi hành, quyết định cưỡng chế, tiến hành thành lập hội đồng thẩm định và tiến hành bán đấu giá... Có nhiều trường hợp khi hoàn thành xong thủ tục tố tụng theo đúng quy định của pháp luật thì khách hàng không còn khả năng thi hành.
Để khắc phục tình trạng trên thì pháp luật nên quy định khi xử lý tài sản bảo đảm mà bên vay không chịu giao tài sản cho các NHTM để xử lý, thì các NHTM có quyền đưa đơn lên toà án đề nghị phê chuẩn quyết định xử lý tài sản bảo đảm mà không bắt buộc phải tiến hành thông qua thủ tục tố tụng như quy định hiện nay. Căn cứ vào quyết định đó, cơ quan thi hành án có thể tiến hành thi hành án, yêu cầu, cưỡng chế bên vay giao tài sản bảo đảm cho các NHTM để xử lý.
Thứ ba: Các quy định về chủ thể của quan hệ thế chấp tài sản cần phải xác định rõ ràng. Để việc tham gia giao dịch thế chấp tài sản nhất là thế chấp giá trị quyền sử dụng đất có hiệu quả, phát huy hết tác dụng của việc đảm bảo nghĩa vụ thì pháp luật đất đai và pháp luật dân sự cần có những điều chỉnh phù hợp liên quan đến chủ thể thế chấp khi tham gia hợp đồng thế chấp nhất là đối với hộ gia đình, cá nhân khi thế chấp Quyền sử dụng đất. Tăng cường hơn nữa quyền tự chủ, quyền tự do cam kết, tự nguyện thỏa thuận của các chủ thể trong quan hệ thế chấp tài sản. Do đó, pháp luật cần quy định điều kiện đối với hộ gia đình khi thế chấp Quyền sử dụng đất, cụ thể:
- Bộ luật dân sự cần xác định các tiêu chí để xác lập địa vị pháp lý của hộ gia đình xác lập các quyền về tài sản cho hộ gia đình đó. Tiêu chí nào để xác định đại diện chủ hộ và tiêu chí nào để xác định các thành viên trong hộ gia đình. Đối với Luật đất đai cần xác định tài sản là quyền sử dụng đất trong trường hợp nào thì xác định là chung của cả hộ gia đình và riêng cho một thành viên trong hộ gia đình. Bên cạnh đó pháp luật cần bổ sung các quy định về quản lý đăng ký thành viên hộ gia đình (đăng ký lần đầu, thay đổi, chấm dứt) nhằm xác định tư cách thành viên hộ gia đình, qua đó tạo thuận lợi cho hộ gia đình khi thực hiện các quyền của người sử dụng đất.
- Luật đất đai và các văn bản hướng dẫn thi hành đối với trường hợp thế chấp quyền sử dụng đất đối với giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp trước đây là còn ghi là hộ gia đình nên quy định rõ trong trường hợp thế chấp này thì chỉ cần chủ hộ gia đình ký vào hợp đồng thế chấp và phải có sự đồng ý của những người trong hộ gia đình đó.
Thứ tƣ: Quy định về nâng cao trình độ nghiệp vụ và đạo đức cho đội ngũ nhân viên tín dụng của tổ chức tín dụng. Một trong các nguyên nhân dẫn đến tranh chấp trong hợp đồng tín dụng ngân hàng có một phần do trình độ nghiệp vụ và trách nhiệm đạo đức của nhân viên tín dụng. Vì vậy, việc đào tạo bổ sung và nâng cao kiến thức, kinh nghiệm cho đội ngũ nhân viên ngân hàng là một yêu cầu cấp thiết. Bên cạnh việc đào tạo lại để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho nhân viên tín dụng thì việc bồi dưỡng đạo đức, tác phong nghề nghiệp của các nhân viên này là một vấn đề rất đáng quan tâm. Đồng thời TCTD cũng phải xây dựng một quy trình thủ tục cho vay một chặt chẽ và chính xác trước khi ký quyết định cho vay. Hoạt động của TCTD thực sự đạt hiệu quả cao khi có một đội ngũ nhân viên giỏi về nghiệp vụ và đạo đức nghề nghiệp tốt thì rủi ro tín dụng sẽ được hạn chế nhiều nhất có thể.
3.2.2. Giải pháp về quy định pháp luật tố tụng liên quan đến giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng tại Tòa án
Thực tiễn xét xử các vụ tranh chấp hợp đồng tín dụng của Tòa án nhân dân thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh đã nảy sinh nhiều bất cập cần sửa đổi và hoàn thiện. Hoàn thiện pháp luật trong giải quyết tranh chấp HĐTD ngân hàng là việc làm cần thiết, nhằm thúc đẩy quan hệ vay vốn tín dụng giữa các chủ thể được thuận tiện hơn; bảo vệ quyền lợi chính đáng của các chủ thể trong quan hệ tín dụng và tạo điều kiện thuận lợi để thị trường tín dụng phát triển.
Thứ nhất: Về thẩm quyền giải quyết tranh chấp của Tòa án
Với việc ban hành BLTTDS năm 2015 có hiệu lực từ ngày 01/07/2016 thì thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện đã được mở rộng căn cứ theo Khoản 1, Khoản 2, Điều 35. Việc quy định không hợp lý về thẩm quyền của các cơ quan giải quyết tranh chấp có thể dẫn đến sự kém hiệu quả trong quá trình giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại nói chung và tranh chấp phát sinh từ HĐTD ngân hàng nói riêng. Điều này thể hiện khá rõ trong pháp luật thực định ở Việt Nam hiện nay. Cụ thể là, việc mở rộng thẩm quyền giải quyết tranh chấp phát sinh từ HĐTD ngân hàng nói riêng và các tranh chấp trong kinh doanh thương mại nói chung cho tòa án nhân dân cấp quận/huyện đang gây nhiều áp lực cho tòa án cấp quận/huyện trong những năm gần đây. Hiện nay, ở tòa án cấp quận/huyện, thẩm phán đang một lúc gánh nhiều việc trên vai: từ việc giải quyết các vụ án hình sự, dân sự, hành chính, hôn nhân gia đình đến các vụ án kinh tế, kinh doanh thương mại…Chính vì thế đã gây ảnh hưởng không nhỏ tới việc hoàn thiện kiến thức pháp luật và nghiệp vụ chuyên sâu của thẩm phán, hội thẩm nhân dân.
Cùng với thẩm quyền giải quyết tranh chấp phát sinh từ HĐTD như hiện nay là quá tải đối với TAND cấp huyện nhất là đối với những huyện có hoạt động kinh tế phát triển, nhu cầu vay vốn tín dụng phát triển kinh doanh tăng lên đồng nghĩa với việc tranh chấp phát sinh từ HĐTD tăng cao và phức tạp. Do vậy, khi việc TAND cấp huyện tăng thẩm quyền giải quyết tranh chấp thì cần tăng thêm về số lượng và chất lượng: Thẩm phán, thư ký, cơ sở vật chất của TAND cấp huyện nhằm đảm bảo công tác giải quyết tranh chấp nói chung và tranh chấp HĐTD nói riêng của TAND cấp huyện được đúng theo quy định của BLTTDS năm 2015.
Thứ hai: Cần có hướng dẫn cụ thể về điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn, ban hành các quy định thủ tục rút gọn vụ về án giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng theo Điều 317 BLTTDS năm 2015.
Tại BLTTDS năm 2015 đã bổ sung thêm trình tự, thủ tục giải quyết vụ án dân sự theo thủ tục rút gọn được quy định từ Điều 316 đến Điều 324. Việc ban hành thủ tục rút gọn đã giúp góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của Tòa án, tạo cơ sở pháp lý để Tòa án giải quyết nhanh chóng các tranh chấp phát sinh trong xã hội mà vẫn bảo đảm các quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức; giảm nhẹ thời gian, chi phí tố tụng của Tòa án và thời gian, chi phí của các đương sự cho việc tham gia tố tụng tại Tòa án. Tuy nhiên, do là quy định mới nên thực tiễn áp dụng thủ tục tố tụng rút gọn còn nhiều tồn tại, hạn chế, bộc lộ nhiều bất cập. Về điều kiện áp dụng thủ tục tố tụng rút gọn theo điểm a, khoản 1, Điều 317, BBTTDS năm 2015 quy định: “Vụ án có tình tiết đơn giản, quan hệ pháp luật rõ ràng, đương sự đã thừa nhận nghĩa vụ; tài liệu, chứng cứ đầy đủ, bảo đảm đủ căn cứ để giải quyết vụ án và Tòa án không phải thu thập tài liệu, chứng cứ”. Hiện nay chưa có hướng dẫn cụ thể nào về cách hiểu thế nào là “Vụ án có tình tiết đơn giản, quan hệ pháp luật rõ ràng, đương sự đã thừa nhận nghĩa vụ”. Do vậy, TAND tối cao cần có hướng dẫn cụ thể về điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn, phải có cơ chế giám sát chặt chẽ trình tự tố tụng này để đảm bảo quyền lợi cho bên vay, vì khi xảy ra tranh chấp HĐTD thì các TCTD (bên cho vay) là bên mong muốn được áp dụng giải quyết theo trình tự tố tụng rút gọn nhất để nhanh chóng thu hồi vốn và giải quyết nợ xấu do hoạt động tín dụng gây ra. Bổ sung thêm các văn bản hướng dẫn về xử án theo thủ tục rút gọn của BLTTDS nhằm đảm bảo tính chính xác khi áp dụng các vụ án theo thủ tục này. Bổ sung quy định cho phép Tòa án có thẩm quyền chuyển từ thủ tục tố tụng thông thường sang giải quyết theo thủ tục tố tụng rút gọn nếu trong quá trình giải quyết vụ án tranh chấp mà xét thấy vụ án thỏa mãn các điều kiện để áp dụng thủ tục tố tụng rút gọn.
3.2.3. Giải pháp nâng cao khả năng giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng ngân hàng tại tòa án nhân dân thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh
Thứ nhất: Đảm bảo quá trình tố tụng của toà án trong các vụ án giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng được tiến hành đúng quy định của pháp luật. Cần tăng cường vai trò giám sát của Viện kiểm sát đối với hoạt động tố tụng. Làm tốt công tác này có ý nghĩa rất quan trọng góp phần đảm bảo quá trình tố tụng được tiến hành đúng trình tự, đúng quy định của pháp luật và giảm đáng kể số lượng án xử oan, sai, án bị hủy.
Công tác vận động, phổ biến, giáo dục pháp luật trong xã hội; công tác tổ chức và chất lượng hoạt động của cơ quan tư pháp; năng lực và phẩm chất của đội ngũ cán bộ, công chức trực tiếp tham gia áp dụng pháp luật; chất lượng của các văn bản áp dụng pháp luật…
Ý thức pháp luật và văn hoá pháp lý của cán bộ, công chức và các tầng lớp
nhân dân phụ thuộc không nhỏ vào công tác phổ biến, tuyên truyền và giáo dục pháp luật cũng như chất lượng của pháp luật; chất lượng của hoạt động thực hiện, áp dụng pháp luật. Điều này cho thấy có sự hoàn thiện của hệ thống pháp luật thì hoạt động áp dụng pháp luật mới đạt chất lượng cao.
Thứ hai: tăng cường năng lực chuyên môn cho cán bộ công chức ngành Tòa án. Trong một vụ án được xét xử tại Tòa án, Thẩm phán là người có vai trò quyết định trong việc cho ra một bản án có giá trị pháp lý cao. Vì vậy, đội ngũ Thẩm phán phải có năng lực, luôn cập nhật những kiến thức mới và có kinh nghiệm dày dặn thì mới nắm bắt, giải quyết được các vấn đề một cách tốt nhất. Do đội ngũ thẩm phán ở Toà án các cấp còn hạn chế trong việc bồi dưỡng kiến thức mới nên việc giải quyết các vụ án, đặc biệt là các vụ án tranh chấp HĐTD có tính chất phức tạp còn nhiều thiếu sót và hạn chế dẫn đến nhiều bản án bị hủy. Chính vì thực tiễn như vậy,đòi hỏi cần tăng cường, bồi dưỡng kiến thức cho các Thẩm phán, bồi dưỡng cho những quy định mới về giải quyết tranh chấp HĐTD. Chất lượng của nền tư pháp xét cho cùng là do cán bộ tư pháp quyết định, vì vậy việc xây dựng đội ngũ cán bộ ngành tòa án đặc biệt là các thẩm phán thanh liêm, chính trực, vững vàng về bản lĩnh chính trị, giỏi về nghiệp vụ, tinh thông pháp luật phải là ưu tiên hàng đầu. Hiện nay, tình hình tranh chấp hợp đồng tín dụng phát sinh rất phức tạp đòi hỏi Thẩm phán không chỉ phải giỏi về chuyên môn mà còn phải đáp ứng được yêu cầu về khả năng ngoại ngữ và sử dụng công nghệ thông tin để giúp phần bổ trợ cho việc giải quyết vụ án được hiệu quả và thuận tiện.
Hiện nay, cán bộ được bổ nhiệm thẩm phán được lấy từ chính những người đang công tác trong ngành tòa án. Điều này, một phần làm hạn chế năng lực của đội ngũ cán bộ thẩm phán, hạn chế số lượng thẩm phán giỏi. Thiết nghĩa cần thiết phải thay đổi cơ chế bổ nhiệm thẩm phán từ ngành tòa án bằng việc thi tuyển thẩm phán, tạo cơ hội cho các các luật sư giỏi, các luật gia am hiểu pháp luật, có chuyên môn nghiệp vụ, có đầy đủ những điều kiện theo quy định của pháp luật tham gia thi tuyển thẩm phán.
Đối với thư ký Tòa án là người giúp việc cho thẩm phán, giúp cho thẩm phán hoàn thành công tác giải quyết vụ án hiệu quả nhất, nên đội ngũ thư ký của Tòa án cũng cần được tập huấn, bồi dưỡng thường xuyên nghiệp vụ, kiến thức cũng như kinh nghiệm trong quá trình giải quyết vụ án. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý nghiêm minh đối với các cá nhân, tập thể cán bộ tòa án có vi phạm pháp luật, vi phạm đạo đức nghề nghiệp. Đối với cán bộ tham gia hoạt động xét xử, khi có bản án tuyên không đúng, bị hủy, bị sửa do có sai lầm nghiêm trọng gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của các bên chủ thể, gây thất thoát tài sản Nhà nước thì phải kiểm điểm, làm rõ trách nhiệm, có hình thức kỷ luật phù hợp để làm gương.
Thứ ba: Cần nâng cao ý thức, trách nhiệm của người tham gia HĐTD. Các tranh chấp xảy ra trong việc thực hiện hợp đồng tín dụng thường do nguyên nhân chủ quan xuất phát từ nhận thức pháp luật của người tham gia chưa cao. Chính vì vậy, cần tăng cường tuyên truyền nâng cao ý thức người dân về vấn đề pháp luật và vấn đề trách nhiệm của bản thân. Có như vậy thì các tranh chấp sẽ phần nào giảm đi và hơn nữa sẽ giúp quá trình giải quyết tranh chấp HĐTD ở Toà án sẽ nhanh chóng hơn một khi người tham gia HĐTD đã có ý thức tự nguyện thực hiện nghĩa vụ của mình.
Thứ tư, Tăng cường đầu tư cải thiện cơ sở vật chất, ứng dụng công nghệ thông tin của Tòa án: Hiện nay nhiều TAND cấp huyện hạn hẹp về quy mô, chưa có Tòa chuyên trách, chỉ có một phòng xử án duy nhất, cơ sở vật chất, thiết bị công nghệ thông tin còn hạn chế. Cộng với việc những quy định mới của BLTTDS năm 2015 có hiệu lực về gửi đơn kiện và cấp, tống đạt, văn bản qua trực tuyến. Đòi hỏi ngành Tòa cần có những chính sách đầu tư, cải thiện cơ sở vật chất, nâng cao thiết bị, ứng dụng công nghệ thông tin để đáp ứng với nhu cầu xét xử các vụ án được hiệu quả và đúng thủ tục pháp luật.
Hiện nay, theo quy định tại Điều 190, BLTTDS năm 2015 về việc gửi đơn khởi kiện trực tuyến bằng hình thức điện tử qua cổng thông tin điện tử của Tòa án và Điều 173, BLTTDS năm 2015 về việc cấp, tống đạt, thông báo bằng phương tiện điện tử theo yêu cầu của đương sự hoặc người tham gia tố tụng khác phù hợp với quy định của pháp luật về giao dịch điện từ, điều này góp phần giảm thời gian và chi phí đi lại của các bên đương sự. Tuy nhiên, việc áp dụng còn nhiều vướng mắc bất cập. Vì phải xác định chính xác ngày đương sự gửi đơn khởi kiện đến Tòa vì đây là thời điểm phát sinh quyền và nghĩa vụ của Người khởi kiện và trách nhiệm của thẩm phán. Nhưng thực tế, các Tòa chưa được trang bị đầy đủ các trang thiết bị, công nghệ, hệ thống mạng Interner vẫn còn nhiều bất cập, vấn đề an ninh mạng vẫn chưa được giải quyết triệt để, hiện tượng mạng nội bộ bị treo nên không thể thực hiện việc gửi đơn dẫn đến việc đương sự gửi đơn nhưng tòa không nhận được nên không có căn cứ để giải quyết. Mặt khác, việc gửi đơn thông qua điện tử sẽ gây khó khăn cho thẩm phán khi xét xử trong việc đánh giá tính khách quan của chứng cứ, khó khăn khi đánh giá chứng cứ trên cơ sở tài liệu được sao chép lại, không phải là bản gốc.
Thứ năm, tăng cường công tác tranh tụng tại Tòa án: Tại Việt Nam, yêu cầu cải cách tư pháp, hoàn thiện thủ tục tố tụng nói chung, tranh tụng trong xét xử nói riêng đã được đề ra trong nhiều nghị quyết của Đảng về cải cách tư pháp, trong đó đặt ra yêu cầu phán quyết của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, bị đơn, nguyên đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan…để ra bản án, quyết định đúng pháp luật có sức thuyết phục và trong thời hạn pháp luật quy định, coi đây là khâu đột phá để nâng cao chất lượng hoạt động tư pháp.
Kết luận Chương III
Để áp dụng pháp luật trong giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng của Tòa án nhân dân thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh ngày một hiệu quả đòi hỏi phải quán triệt sâu sắc các quan điểm của Đảng, Nhà nước và thực hiện tốt những quan điểm cơ bản về áp dụng pháp luật. Đồng thời thực hiện đầy đủ, đồng bộ, thường xuyên những giải pháp nêu trên trong một thời gian nhất định mới tạo điều kiện thuận lợi và nâng cao hiệu quả việc giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng ngân hàng của ngành Tòa án nói chung, cũng như Tòa án nhân dân thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh nói riêng.