0888889366
Tra cứu thông tin hợp đồng
timeline_post_file64ba3c16244d9-THỰC-TIỄN-ÁP-DỤNG-TẬP-QUÁN-PHÁP-Ở-VIỆT-NAM-HIỆN-NAY.jpg.webp

THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẬP QUÁN PHÁP Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

3.1.  Thực tiễn áp dụng tập quán pháp ở Việt Nam hiện nay

3.1.1.   Thực tiễn áp dụng luật tục

Nói về luật tục và việc áp dụng luật tục Tây Nguyên, PGS.TSKH. Phan Đăng Nhật tóm tắt:
Luật tục do toàn thể cộng đồng xây dựng nên nội dung các điều luật. Hội đồng thi hành luật tục do nhân dân trực tiếp cử lên và cũng chính tập thể cộng đồng trực tiếp kiểm soát việc thi hành luật tục, ngăn ngừa những sai phạm và khuyến khích việc ứng xử tốt.
Qua đây ta không chỉ thấy tính dân chủ trong việc thiết lập, cũng như thi hành các qui tắc của tập quán pháp, mà còn cho thấy sức sống và cách thức áp dụng tập quán pháp một cách hữu hiệu, có nghĩa là tập quán pháp có con đường riêng của nó, phần nào độc lập với sự cưỡng chế thi hành của nhà nước. Đây có thể là một gợi ý quan trọng cho việc thiết lập cơ chế thi hành tập quán pháp ở Việt Nam hiện nay.
Luật tục hiện vẫn được áp dụng tại một số nơi ở Việt Nam, điển hình là ở Tây Nguyên. Theo nghiên cứu của Y Nha, Nguyễn Lộc và Y Phi, hợp đồng theo luật tục Ê đê được giao kết bằng lời nói. Nếu hợp đồng có giá trị lớn thì mỗi bên cử một đại diện mà thường là người họ hàng thân thích nhà vợ. Người đại diện có ba chức năng: Thứ nhất, cam kết thực hiện nghĩa vụ hợp đồng cho các bên; thứ hai, nhân chứng; và thứ ba, giải quyết tranh chấp giữa các bên. Tuy nhiên người đại diện không có nghĩa vụ thực hiện hợp đồng . Trong tục lệ này người đại diện phần nào đó có vai trò của người bảo lãnh làm cho các bên tin tưởng mà giao kết hợp đồng, nhưng lại không có vai trò gì trong việc thực hiện nghĩa vụ hợp đồng khi mà nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm bởi bên giao kết hợp đồng. Như vậy có thể nói quan hệ gần gũi và gói gọn trong dòng họ và cộng đồng khiến cho qui tắc này có giá trị. Tuy nhiên sẽ là không thích hợp, nếu sử dụng qui tắc này cho các quan hệ thương mại phức tạp hoặc ngoài phạm vi cộng đồng.
Khi tranh chấp hợp đồng, Y Nha, Nguyễn Lộc và Y Phi tóm lược thủ tục xét xử theo luật tục Ê đê như sau: Đại diện của các bên tranh chấp thương lượng với nhau để hai bên tự thỏa thuận. Nếu thỏa thuận không thành, thì các đại diện xem xét để đưa ra quyết định về tranh chấp và áp dụng chế tài. Nếu không thỏa mãn với quyết định này thì một trong các bên có thể yêu cầu già làng hoặc trưởng buôn giải quyết. Trong trường hợp các bên tự thỏa thuận thành thì thỏa thuận đó có hiệu lực thi hành. Sau thỏa thuận thành, đại diện các bên bắt các bên cam kết thi hành đúng nội dung đã thỏa thuận và không được quyền khiếu nại hay kiện lên già làng hoặc trưởng buôn nữa. Nếu bên nào vi phạm thì bị phạt gấp đôi giá trị tranh chấp. Trong trường hợp già làng hoặc trưởng buôn giải ra quyết định giải quyết tranh chấp thì quyết định đó có hiệu lực thi hành ngay. Thông thường hình thức ra quyết định bằng lời nói và nói rõ nội dung gì không được khiếu nại. Nếu vẫn khiếu nại các nội dung này sẽ bị phạt . Các qui tắc tố tụng này cho thấy một lần nữa sự chung sống gần gũi và vai trò lòng tin của đồng bào Ê đê. Tuy nhiên các qui tắc tố tụng này khó có thể chứa đựng nổi các tranh chấp thương mại trong đời sống hiện đại.


3.1.2.   Thực tiễn áp dụng tập quán tại tòa án

Các vụ việc có áp dụng tập quán thương mại không nhiều, nếu có thì chủ yếu là các vụ việc có liên quan tới các tranh chấp về thương mại có yếu tố nước ngoài. Trong thực tiễn xét xử của tòa án, có hai vụ việc sau khá nổi tiếng được nhiều người quan tâm.

* Vụ việc thứ nhất
Vụ "cây chà 19 tiếng" là một vụ việc được Tòa án nhân dân tối cao áp dụng tập quán trong nước, mang tính điển hình mà một số học giả đã có những bình luận sâu sắc, nhưng trái ngược nhau. Tuy nhiên vụ việc này nhiều người cho rằng chỉ liên quan ít nhiều tới hoạt động thương mại, chứ không hẳn là một tranh chấp mang tính chất thương mại thuần túy. Theo Quyết định số 93/GĐT-DS ngày 27/5/2002 của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao (quyết định giám đốc thẩm), đây là vụ tranh chấp quyền sở hữu cây chà và đòi lại quyền khai thác địa điểm đánh bắt hải sản tại địa điểm đã đặt cây chà ở lãnh hải. Nội dung vụ việc như sau:
Bà Chiêm Thị Mỹ Loan là chủ sở hữu một tầu đánh bắt hải sản thuê ông Trang Văn Hường (tức Huệ) làm tài công của con tầu này. Ông Hường đã dùng cây dừa, đá, sọt tre và dây nhựa…để đặt một "cây chà" cách bờ biển huyện Long Hải 19 tiếng đồng hồ nên gọi là "cây chà 19 tiếng" để làm dấu khu vực độc quyền đánh bắt hải sản từ năm 1992. Sau khi ông Hường nghỉ, ông Trần Văn Hùng được thuê làm tài công. Đến năm 1999, bà Loan phát hiện ra ông Hùng đã cho ông La Văn Thanh cây chà này. Vì vậy bà kiện đòi ông Thanh trả lại cây chà, cũng như đòi lại quyền khai thác hải sản ở khu vực này.
Tòa án nhận định vụ việc này như sau:
Bà Loan đòi ông Thanh trả lại cây chà nhưng không chứng minh được việc ông Thanh đang chiếm giữ tài sản thuộc sở hữu của bà Loan. Ông Hùng là người đã đặt chà và khai thác cây chà xác định khi ông nhượng địa điểm đánh bắt cho ông Thanh thì cây chà không còn. Chính bà Loan thừa nhận chi phí làm chà đã được trừ vào chi phí mỗi chuyến đi biển. Do vậy, dù cây chà có tồn tại khi ông Thanh tiếp nhận điểm đánh bắt thì cũng không thuộc sở hữu của bà Loan.

Về quyền ưu tiên khai thác điểm đánh bắt hải sản: Đây là vùng biển xa bờ, pháp luật chưa quy định về quyền ưu tiên khai thác nên quyền ưu tiên phải được xác định theo tập quán. Theo xác minh ở chính quyền địa phương và cơ quan chuyên môn (Ban Hải sản thị trấn Long Hải) thì tài công là người có quyền chọn và cho người khác điểm đánh bắt; địa điểm đã bị bỏ hơn ba tháng không khai thác thì có quyền khai thác. Như vậy, việc ông Thanh sử dụng điểm đánh bắt hải sản hiện nay (địa điểm tranh chấp) là phù hợp với tập quán, không trái pháp luật, không vi phạm quyền lợi hợp pháp của bà Loan.
Vì vậy Tòa án quyết định:
Hủy án dân sự phúc thẩm số 46 ngày 14/12/2000 của Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, giữ nguyên án dân sự sơ thẩm số 94 ngày 13/10/2000 của Tòa án nhân dân huyện Long Điền xử việc tranh chấp điểm đánh bắt hải sản giữa nguyên đơn Chiêm Thị Mỹ Loan và bị đơn La Văn Thanh [64].
PGS. TS Đỗ Văn Đại bình luận rằng:
Về vấn đề "yêu cầu đòi lại quyền khai thác địa điểm đặt chà". Khi xét xử Tòa án đã áp dụng tập quán. Cụ thể, theo Tòa án, "đây là vùng biển xa bờ, pháp luật chưa quy định về quyền ưu tiêu khai thác nên quyền ưu tiên phải được xác định theo tập quán. Theo xác minh ở chính quyền địa phương và cơ quan chuyên môn (Ban hải sản thị trấn LH) thì tài công là người có quyền chọn và cho người khác điểm đánh bắt; địa điểm đã bị bỏ hơn ba tháng không khai thác thì có quyền khai thác. Như vậy, việc ông Th. sử dụng điểm đánh bắt hải sản hiện nay (địa điểm tranh chấp) là phù hợp với tập quán, không trái pháp luật, không vi phạm quyền lợi hợp pháp của bà L.

Phân tích nội dung của tập quán, PGS. TS Đỗ Văn Đại đưa ra mấy lý lẽ sau: Thứ nhất, tài công là người có quyền chọn điểm đánh bắt hải sản; thứ hai, tài công là người có quyền cho người khác điểm đánh bắt; và thứ ba, địa điểm đã bị bỏ hơn ba tháng không khai thác thì có quyền khai thác.
Về điều kiện áp dụng tập quán, PGS. TS Đỗ Văn Đại lập luận: Thứ nhất, vấn đề này chưa được pháp luật qui định; thứ hai, các bên không có thỏa thuận khác; và thứ ba, tập quán được áp dụng không trái với những nguyên tắc của pháp luật và đạo đức xã hội.
Không đồng tình với phán quyết và lời bình nói trên, PGS.TS Ngô Huy Cương nhận xét:
Có lẽ việc áp dụng tập quán trong vụ "Cây chà 19 tiếng" như trên là trái với nguyên lý căn bản của luật tài sản của Việt Nam. Tòa án, trong quyết định của mình, một mặt thừa nhận quyền loại trừ của người lập cây chà đối với bất kỳ người nào từ việc khai thác thủy sản tại khu vực đặt cây chà hay nói cách khác thừa nhận quyền đối kháng của người lập cây chà với cả thế giới từ việc khai thác hải sản tại khu vực đó (mà tòa án cho rằng đó là quyền theo tập quán chung tại địa phương đó), nên mặt khác thừa nhận quyền tự do khai thác địa điểm đặt cây chà cụ thể của ông Thanh bởi ông Hùng đã từ bỏ hay định đoạt quyền loại trừ của mình hơn ba tháng theo tập quán.
Tiếp theo PGS.TS Ngô Huy Cương nhận xét và đặt vấn đề:
Hiểu rằng quyền loại trừ là xương sống của quyền sở hữu, có nghĩa là khi một người thủ đắc quyền sở hữu thì người này có quyền loại trừ hay chống lại mọi người từ việc tiếp cận tới đối tượng thuộc sở hữu của mình. Nói cách khác chủ sở hữu có quyền thống trị trên tài sản của mình. Tòa án Việt Nam thừa nhận quyền loại trừ của một người được thiết lập theo tập quán như vậy trên tài sản thuộc sở hữu toàn dân hay tài sản chung phải chăng là hợp lý? 
Trong vụ việc trên Tòa án nhân dân tối cao chỉ căn cứ vào lời khai của một cán bộ trong Ban hải sản của thị trấn Long Hải để đi đến kết luận là có một tập quán như Quyết định số 93/GĐT-DS ngày 27/5/2002 của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao dẫn giải và không xem xét đến chứng minh ngược lại của nguyên đơn Chiêm Thị Mỹ Loan được đưa ra trong Đơn xin tái thẩm. Trong đơn này có một đoạn lập luận như sau:
Tập quán địa phương không hề có tập quán "tài công là người có quyền chọn và cho người khác điểm đánh bắt cá" mà chỉ có tập quán ăn chia lợi nhuận, phương thức đầu tư của chủ ghe, tạo thành một thông lệ quan hệ giữa người đầu tư (chủ ghe) và tài công, ngư dân (bạn ghe). Vì nếu có một tập quán tài công muốn cho ai thì cho, muốn bán cho ai địa điểm đánh bắt cá… thì sẽ không còn chủ ghe nào đầu tư, không còn ai dám mướn tài công. Giả thiết rằng một người có 5 ghe, mướn 5 tài công rồi do mâu thuẫn, 5 tài công này đem cho hoặc bán cho 5 địa điểm đánh bắt cá thì chủ ghe chỉ còn đường sạt nghiệp… quan hệ xã hội, quan hệ làm ăn từ đó mâu thuẫn triền miên, nhất là tạo một tiền lệ nguy hiểm về sau.

Theo: Nguyễn Mạnh Thắng 
Link luận án: Tại đây

 

avatar
Đặng Quỳnh
877 ngày trước
THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẬP QUÁN PHÁP Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1.  Thực tiễn áp dụng tập quán pháp ở Việt Nam hiện nay3.1.1.   Thực tiễn áp dụng luật tụcNói về luật tục và việc áp dụng luật tục Tây Nguyên, PGS.TSKH. Phan Đăng Nhật tóm tắt:Luật tục do toàn thể cộng đồng xây dựng nên nội dung các điều luật. Hội đồng thi hành luật tục do nhân dân trực tiếp cử lên và cũng chính tập thể cộng đồng trực tiếp kiểm soát việc thi hành luật tục, ngăn ngừa những sai phạm và khuyến khích việc ứng xử tốt.Qua đây ta không chỉ thấy tính dân chủ trong việc thiết lập, cũng như thi hành các qui tắc của tập quán pháp, mà còn cho thấy sức sống và cách thức áp dụng tập quán pháp một cách hữu hiệu, có nghĩa là tập quán pháp có con đường riêng của nó, phần nào độc lập với sự cưỡng chế thi hành của nhà nước. Đây có thể là một gợi ý quan trọng cho việc thiết lập cơ chế thi hành tập quán pháp ở Việt Nam hiện nay.Luật tục hiện vẫn được áp dụng tại một số nơi ở Việt Nam, điển hình là ở Tây Nguyên. Theo nghiên cứu của Y Nha, Nguyễn Lộc và Y Phi, hợp đồng theo luật tục Ê đê được giao kết bằng lời nói. Nếu hợp đồng có giá trị lớn thì mỗi bên cử một đại diện mà thường là người họ hàng thân thích nhà vợ. Người đại diện có ba chức năng: Thứ nhất, cam kết thực hiện nghĩa vụ hợp đồng cho các bên; thứ hai, nhân chứng; và thứ ba, giải quyết tranh chấp giữa các bên. Tuy nhiên người đại diện không có nghĩa vụ thực hiện hợp đồng . Trong tục lệ này người đại diện phần nào đó có vai trò của người bảo lãnh làm cho các bên tin tưởng mà giao kết hợp đồng, nhưng lại không có vai trò gì trong việc thực hiện nghĩa vụ hợp đồng khi mà nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm bởi bên giao kết hợp đồng. Như vậy có thể nói quan hệ gần gũi và gói gọn trong dòng họ và cộng đồng khiến cho qui tắc này có giá trị. Tuy nhiên sẽ là không thích hợp, nếu sử dụng qui tắc này cho các quan hệ thương mại phức tạp hoặc ngoài phạm vi cộng đồng.Khi tranh chấp hợp đồng, Y Nha, Nguyễn Lộc và Y Phi tóm lược thủ tục xét xử theo luật tục Ê đê như sau: Đại diện của các bên tranh chấp thương lượng với nhau để hai bên tự thỏa thuận. Nếu thỏa thuận không thành, thì các đại diện xem xét để đưa ra quyết định về tranh chấp và áp dụng chế tài. Nếu không thỏa mãn với quyết định này thì một trong các bên có thể yêu cầu già làng hoặc trưởng buôn giải quyết. Trong trường hợp các bên tự thỏa thuận thành thì thỏa thuận đó có hiệu lực thi hành. Sau thỏa thuận thành, đại diện các bên bắt các bên cam kết thi hành đúng nội dung đã thỏa thuận và không được quyền khiếu nại hay kiện lên già làng hoặc trưởng buôn nữa. Nếu bên nào vi phạm thì bị phạt gấp đôi giá trị tranh chấp. Trong trường hợp già làng hoặc trưởng buôn giải ra quyết định giải quyết tranh chấp thì quyết định đó có hiệu lực thi hành ngay. Thông thường hình thức ra quyết định bằng lời nói và nói rõ nội dung gì không được khiếu nại. Nếu vẫn khiếu nại các nội dung này sẽ bị phạt . Các qui tắc tố tụng này cho thấy một lần nữa sự chung sống gần gũi và vai trò lòng tin của đồng bào Ê đê. Tuy nhiên các qui tắc tố tụng này khó có thể chứa đựng nổi các tranh chấp thương mại trong đời sống hiện đại.3.1.2.   Thực tiễn áp dụng tập quán tại tòa ánCác vụ việc có áp dụng tập quán thương mại không nhiều, nếu có thì chủ yếu là các vụ việc có liên quan tới các tranh chấp về thương mại có yếu tố nước ngoài. Trong thực tiễn xét xử của tòa án, có hai vụ việc sau khá nổi tiếng được nhiều người quan tâm.* Vụ việc thứ nhấtVụ "cây chà 19 tiếng" là một vụ việc được Tòa án nhân dân tối cao áp dụng tập quán trong nước, mang tính điển hình mà một số học giả đã có những bình luận sâu sắc, nhưng trái ngược nhau. Tuy nhiên vụ việc này nhiều người cho rằng chỉ liên quan ít nhiều tới hoạt động thương mại, chứ không hẳn là một tranh chấp mang tính chất thương mại thuần túy. Theo Quyết định số 93/GĐT-DS ngày 27/5/2002 của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao (quyết định giám đốc thẩm), đây là vụ tranh chấp quyền sở hữu cây chà và đòi lại quyền khai thác địa điểm đánh bắt hải sản tại địa điểm đã đặt cây chà ở lãnh hải. Nội dung vụ việc như sau:Bà Chiêm Thị Mỹ Loan là chủ sở hữu một tầu đánh bắt hải sản thuê ông Trang Văn Hường (tức Huệ) làm tài công của con tầu này. Ông Hường đã dùng cây dừa, đá, sọt tre và dây nhựa…để đặt một "cây chà" cách bờ biển huyện Long Hải 19 tiếng đồng hồ nên gọi là "cây chà 19 tiếng" để làm dấu khu vực độc quyền đánh bắt hải sản từ năm 1992. Sau khi ông Hường nghỉ, ông Trần Văn Hùng được thuê làm tài công. Đến năm 1999, bà Loan phát hiện ra ông Hùng đã cho ông La Văn Thanh cây chà này. Vì vậy bà kiện đòi ông Thanh trả lại cây chà, cũng như đòi lại quyền khai thác hải sản ở khu vực này.Tòa án nhận định vụ việc này như sau:Bà Loan đòi ông Thanh trả lại cây chà nhưng không chứng minh được việc ông Thanh đang chiếm giữ tài sản thuộc sở hữu của bà Loan. Ông Hùng là người đã đặt chà và khai thác cây chà xác định khi ông nhượng địa điểm đánh bắt cho ông Thanh thì cây chà không còn. Chính bà Loan thừa nhận chi phí làm chà đã được trừ vào chi phí mỗi chuyến đi biển. Do vậy, dù cây chà có tồn tại khi ông Thanh tiếp nhận điểm đánh bắt thì cũng không thuộc sở hữu của bà Loan.Về quyền ưu tiên khai thác điểm đánh bắt hải sản: Đây là vùng biển xa bờ, pháp luật chưa quy định về quyền ưu tiên khai thác nên quyền ưu tiên phải được xác định theo tập quán. Theo xác minh ở chính quyền địa phương và cơ quan chuyên môn (Ban Hải sản thị trấn Long Hải) thì tài công là người có quyền chọn và cho người khác điểm đánh bắt; địa điểm đã bị bỏ hơn ba tháng không khai thác thì có quyền khai thác. Như vậy, việc ông Thanh sử dụng điểm đánh bắt hải sản hiện nay (địa điểm tranh chấp) là phù hợp với tập quán, không trái pháp luật, không vi phạm quyền lợi hợp pháp của bà Loan.Vì vậy Tòa án quyết định:Hủy án dân sự phúc thẩm số 46 ngày 14/12/2000 của Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, giữ nguyên án dân sự sơ thẩm số 94 ngày 13/10/2000 của Tòa án nhân dân huyện Long Điền xử việc tranh chấp điểm đánh bắt hải sản giữa nguyên đơn Chiêm Thị Mỹ Loan và bị đơn La Văn Thanh [64].PGS. TS Đỗ Văn Đại bình luận rằng:Về vấn đề "yêu cầu đòi lại quyền khai thác địa điểm đặt chà". Khi xét xử Tòa án đã áp dụng tập quán. Cụ thể, theo Tòa án, "đây là vùng biển xa bờ, pháp luật chưa quy định về quyền ưu tiêu khai thác nên quyền ưu tiên phải được xác định theo tập quán. Theo xác minh ở chính quyền địa phương và cơ quan chuyên môn (Ban hải sản thị trấn LH) thì tài công là người có quyền chọn và cho người khác điểm đánh bắt; địa điểm đã bị bỏ hơn ba tháng không khai thác thì có quyền khai thác. Như vậy, việc ông Th. sử dụng điểm đánh bắt hải sản hiện nay (địa điểm tranh chấp) là phù hợp với tập quán, không trái pháp luật, không vi phạm quyền lợi hợp pháp của bà L.Phân tích nội dung của tập quán, PGS. TS Đỗ Văn Đại đưa ra mấy lý lẽ sau: Thứ nhất, tài công là người có quyền chọn điểm đánh bắt hải sản; thứ hai, tài công là người có quyền cho người khác điểm đánh bắt; và thứ ba, địa điểm đã bị bỏ hơn ba tháng không khai thác thì có quyền khai thác.Về điều kiện áp dụng tập quán, PGS. TS Đỗ Văn Đại lập luận: Thứ nhất, vấn đề này chưa được pháp luật qui định; thứ hai, các bên không có thỏa thuận khác; và thứ ba, tập quán được áp dụng không trái với những nguyên tắc của pháp luật và đạo đức xã hội.Không đồng tình với phán quyết và lời bình nói trên, PGS.TS Ngô Huy Cương nhận xét:Có lẽ việc áp dụng tập quán trong vụ "Cây chà 19 tiếng" như trên là trái với nguyên lý căn bản của luật tài sản của Việt Nam. Tòa án, trong quyết định của mình, một mặt thừa nhận quyền loại trừ của người lập cây chà đối với bất kỳ người nào từ việc khai thác thủy sản tại khu vực đặt cây chà hay nói cách khác thừa nhận quyền đối kháng của người lập cây chà với cả thế giới từ việc khai thác hải sản tại khu vực đó (mà tòa án cho rằng đó là quyền theo tập quán chung tại địa phương đó), nên mặt khác thừa nhận quyền tự do khai thác địa điểm đặt cây chà cụ thể của ông Thanh bởi ông Hùng đã từ bỏ hay định đoạt quyền loại trừ của mình hơn ba tháng theo tập quán.Tiếp theo PGS.TS Ngô Huy Cương nhận xét và đặt vấn đề:Hiểu rằng quyền loại trừ là xương sống của quyền sở hữu, có nghĩa là khi một người thủ đắc quyền sở hữu thì người này có quyền loại trừ hay chống lại mọi người từ việc tiếp cận tới đối tượng thuộc sở hữu của mình. Nói cách khác chủ sở hữu có quyền thống trị trên tài sản của mình. Tòa án Việt Nam thừa nhận quyền loại trừ của một người được thiết lập theo tập quán như vậy trên tài sản thuộc sở hữu toàn dân hay tài sản chung phải chăng là hợp lý? Trong vụ việc trên Tòa án nhân dân tối cao chỉ căn cứ vào lời khai của một cán bộ trong Ban hải sản của thị trấn Long Hải để đi đến kết luận là có một tập quán như Quyết định số 93/GĐT-DS ngày 27/5/2002 của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao dẫn giải và không xem xét đến chứng minh ngược lại của nguyên đơn Chiêm Thị Mỹ Loan được đưa ra trong Đơn xin tái thẩm. Trong đơn này có một đoạn lập luận như sau:Tập quán địa phương không hề có tập quán "tài công là người có quyền chọn và cho người khác điểm đánh bắt cá" mà chỉ có tập quán ăn chia lợi nhuận, phương thức đầu tư của chủ ghe, tạo thành một thông lệ quan hệ giữa người đầu tư (chủ ghe) và tài công, ngư dân (bạn ghe). Vì nếu có một tập quán tài công muốn cho ai thì cho, muốn bán cho ai địa điểm đánh bắt cá… thì sẽ không còn chủ ghe nào đầu tư, không còn ai dám mướn tài công. Giả thiết rằng một người có 5 ghe, mướn 5 tài công rồi do mâu thuẫn, 5 tài công này đem cho hoặc bán cho 5 địa điểm đánh bắt cá thì chủ ghe chỉ còn đường sạt nghiệp… quan hệ xã hội, quan hệ làm ăn từ đó mâu thuẫn triền miên, nhất là tạo một tiền lệ nguy hiểm về sau.Theo: Nguyễn Mạnh Thắng Link luận án: Tại đây