Khái niệm, đặc điểm, vai trò của tổ chức hành nghề luật sư
2.1.3.Khái niệm, đặc điểm, vai trò của tổ chức hành nghề luật sư
- Khái niệm về tổ chức hành nghề luật sư
Những phân tích về luật sư; nghề luật sư; hành nghề luật sư và các hình thức tổ chức hành nghề luật sư cho thấy thách thức khá lớn đối với việc làm rõ khái niệm về TCHNLS. Tác giả Luận án sử dụng quan điểm phổ biến về nghề luật sư, hành nghề luật sư và hình thức tổ chức hành nghề luật sư; quan niệm pháp luật của các nước phát triển (Anh, Pháp, Đức, Mỹ và Trung Quốc) về hành nghề luật sư như nêu ở trên để xem xét các vấn đề về TCHNLS theo pháp luật Việt Nam và để trả lời câu hỏi nghiên cứu liên quan đến nội hàm của khái niệm TCHNLS.
Trong nghiên cứu khoa học pháp lý việc đưa ra khái niệm TCHNLS là việc làm tương đối khó khăn, hơn nữa khái niệm được đưa ra phải có tính học thuật nên dễ gây ra tranh luận. Tuy nhiên, khi nghiên cứu về TCHNLS thì tác giả Luận án sẽ cố gắng nhận diện và làm rõ khái niệm về TCHNLS một cách khái quát nhất. Trong quá trình nghiên cứu các nội dung liên quan đến TCHNLS, tác giả nhận thấy: Thay vì đưa ra một định nghĩa về TCHNLS, người ta chọn phương pháp liệt kê, ví dụ: ở Việt Nam, TCHNLS trong luật chuyên ngành (Điều 32 khoản 1, Luật Luật sư năm 2006, sửa đổi năm 2012) khái niệm TCHNLS được mô tả theo phương pháp liệt kê bao gồm: Văn phòng luật sư và công ty luật; công ty luật bao gồm công ty luật hợp danh và công ty luật TNHH; công ty luật TNHH bao gồm công ty luật TNHH hai thành viên trở lên và công ty luật TNHH một thành viên [97, Điều 34],[99].
Mặt khác, quá trình nghiên cứu đề tài tác giả nhận thấy TCHNLS chỉ mang tính quy ước, quy định chung để có một cách hiểu thống nhất, tính quy ước và quy định chung được thể hiện trên các mặt như sau:
Tổ chức hành nghề luật sư là một loại hình tổ chức nghề nghiệp của Luật sư được thành lập/đăng ký hoạt động theo quy định của pháp luật. Muốn trở thành luật sư thành viên của TCHNLS phải đáp ứng đầy đủ những điều kiện theo pháp luật quy định. Hoạt động nghề nghiệp/cung cấp dịch vụ pháp lý của các TCHNLS đặt dưới sự quản lý của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền và tổ chức xã hội - nghề nghiệp của Luật sư hoặc Hiệp hội luật sư.
Tổ chức hành nghề luật sư là một bộ phận của Hiệp hội luật sư/tổ chức xã hội-nghề nghiệp của luật sư được thành lập để đại diện, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho luật sư, giám sát việc tuân theo pháp luật, quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp của luật sư, thực hiện quản lý hành nghề luật sư theo quy định của pháp luật.
Hoạt động tự quản của TCHNLS là hoạt động nhân danh chính tổ chức mình để tham gia quản lý các Luật sư thành viên/Luật sư cộng tác,v.v...Đồng thời, trong một số trường hợp do pháp luật quy định, TCHNLS hoạt động nhân danh và đại diện cho các Luật sư trong TCHNLS của mình. Nhà nước thừa nhận và bảo hộ sự tồn tại của TCHNLS bằng việc cho phép các TCHNLS được thành lập và quy định các quyền, nghĩa vụ pháp lý của chủ thể này.
Hoạt động tự quản của TCHNLS theo Điều lệ của công ty luật hoặc theo thỏa thuận của thành viên văn phòng luật sư và theo quy định của pháp luật. Trong đó, Nhà nước không trực tiếp can thiệp vào công việc nội bộ của chính TCHNLS, đồng thời, cũng không sử dụng quyền lực của mình để sắp xếp người lãnh đạo, hay cách chức của họ trong TCHNLS. Có thể hiểu rằng, TCHNLS được hình thành để hỗ trợ và phối hợp cùng cơ quan quản lý Nhà nước giải quyết một số công việc về luật sư và hành nghề luật sư.
Từ những nội dung đã trình bày trên đây, tác giả Luận án tìm cách nhận diện TCHNLS một cách khái quát nhất để làm cơ sở cho việc nghiên cứu các vấn đề liên quan.
Tổ chức hành nghề luật sư được hiểu là: “Hình thức tổ chức hành nghề luật sư được đăng ký hoạt động dưới hình thức văn phòng luật sư hoặc công ty luật. Tổ chức hành nghề luật sư là nơi luật sư hoạt động cung cấp dịch vụ pháp lý chuyên nghiệp, do các luật sư đủ điều kiện, tiêu chuẩn thành lập hoặc liên kết thành lập và đăng ký hoạt động theo pháp luật về luật sư, pháp luật doanh nghiệp và các quy định khác của pháp luật có liên quan”.
Với khái niệm nêu trên, tác giả Luận án rút ra một số đặc điểm của TCHNLS như sau:
Thứ nhất, TCHNLS không lấy điểm xuất phát là vốn
Tổ chức hành nghề luật sư thường là một pháp nhân đối nhân, TCHNLS không lấy điểm xuất phát là vốn và ngay cả khi có yếu tố đối vốn thì yếu tố này có vai trò khiêm tốn. TCHNLS cũng không dựa vào vốn mà dựa vào kiến thức pháp luật, kỹ năng hành nghề của luật sư trong công ty/Văn phòng, uy tín của TCHNLS của họ. Vì thế, Luật sư không những là một chuyên gia giỏi về pháp luật mà còn phải có kỹ năng phân tích, áp dụng pháp luật vào những trường hợp cụ thể của cuộc sống.
TCHNLS phải được đăng ký hoạt động mặc dù cơ quan đăng ký có thể khác nhau tùy thuộc vào hệ thống Tư pháp ở mỗi quốc gia. Ví dụ ở một số quốc gia như Anh, Mỹ …thì TCHNLS được đăng ký với tòa án, song ở Việt Nam, TCHNLS được đăng ký hoạt động tại Sở Tư pháp ở địa phương nơi có Đoàn luật sư mà Trưởng văn phòng luật sư hoặc Giám đốc công ty luật là thành viên [97, Điều 35],[99]. Việc đăng ký hoạt động của VPLS hoặc công ty luật khác với việc đăng ký thành lập đối với các công ty sản xuất kinh doanh hoặc thương mại hay các pháp nhân khác.
Thứ hai, chủ sở hữu VPLS và công ty luật phải là luật sư.
Chủ sở hữu VPLS và chủ sở hữu công ty luật hoặc thành viên công ty phải là luật sư đáp ứng các quy định về năng lực hành vi dân sự, về trình độ năng lực, phẩm chất, đạo đức nghề nghiệp. Tiêu chuẩn này được quy định trong luật hoặc trong các văn bản của Hiệp hội luật sư toàn quốc tùy theo quy định của mỗi nước. Ở các quốc gia việc quản lý hành nghề luật sư có mức độ xã hội hóa cao thì các tiêu chuẩn, điều kiện luật sư được tham gia thành lập TCHNLS do các Hiệp hội luật sư quốc gia hoặc từng địa phương quy định. Nhiều quốc gia trong đó có Việt Nam thì do pháp luật quy định, ví dụ theo luật chuyên ngành về luật sư của Việt Nam thì: Luật sư thành lập hoặc tham gia thành lập TCHNLS phải có ít nhất 02 (hai) năm hành nghề liên tục [97, Điều 32],[99]. Sự tham gia của luật sư là điều kiện bắt buộc đối với việc thành lập VPLS hoặc công ty luật cho dù số lượng luật sư tối thiểu có thể có sự khác nhau tùy vào từng loại hình VPLS và công ty luật. Ví dụ, VPLS ở Việt Nam do một luật sư thành lập; công ty luật hợp danh ở Việt Nam phải do ít nhất hai luật sư tham gia thành lập; công ty luật TNHH hai thành viên trở lên do ít nhất hai luật sư thành lập cũng khác so với công ty luật TNHH một thành viên thành lập và làm chủ sở hữu [98, Điều 34].
Về trách nhiệm pháp lý của VPLS và công ty luật hợp danh cũng như bản thân nó thể hiện là phải chịu trách nhiệm vô hạn. Ở các loại hình công ty theo hình thức công ty luật TNHH thì có kết hợp áp dụng cả trách nhiệm vô hạn và trách nhiệm hữu hạn đối với từng thành viên công ty tùy theo đó là thành viên góp vốn hay thành viên hợp danh. Cần khẳng định rằng, chế độ trách nhiệm của thành viên trong từng loại hình TCHNLS luôn hướng tới cá nhân thành viên sáng lập ra TCHNLS.
Thứ ba, cơ cấu tổ chức của VPLS và công ty luật khác với các tổ chức nghề nghiệp khác. Các VPLS và công ty luật tổ chức theo hình thức đối vốn hoặc kết hợp giữa đối vốn với đối nhân có tư cách pháp nhân. Các thành viên sáng lập VPLS hoặc công ty luật thỏa thuận cử một thành viên làm Trưởng văn phòng/Giám đốc. Trong trường hợp VPLS chỉ có một luật sư là chủ sở hữu (theo Điều 33 Luật luật sư năm 2006, sửa đổi năm 2012) thì chủ sở hữu VPLS là Trưởng văn phòng; Luật sư chủ sở hữu công ty TNHH một thành viên là Giám đốc công ty.
Theo: Trần Văn Công
Link luận án: Tại đây