0888889366
Tra cứu thông tin hợp đồng
timeline_post_file64c4d64365631-Khái-niệm,-đặc-điểm-và-nội-dung-pháp-luật-về-tổ-chức-hành-nghề-luật-sư-.jpg.webp

Khái niệm, đặc điểm và nội dung pháp luật về tổ chức hành nghề luật sư

2.2. Khái niệm, đặc điểm và nội dung pháp luật về tổ chức hành nghề luật sư

2.2.1. Khái niệm pháp luật về tổ chức hành nghề luật sư

Mặc dù tư tưởng lập pháp của ông cha ta về Luật sư có từ rất sớm, song pháp luật về luật sư, nghề luật sư và TCHNLS của chúng ta ra đời khá muộn so với các nước phát triển trên thế giới. Trải qua hơn nửa thập kỷ phát triển thăng trầm, kể từ khi nước ta giành được độc lập năm 1945, pháp luật về luật sư và TCHNLS chỉ thực sự phát triển mạnh mẽ và dần được hoàn thiện từ năm 2001 trở lại đây và là một bộ phận quan trọng trong hệ thống pháp luật Việt Nam.

Trong khoa học pháp lý, cho đến nay, có một số quan niệm khác nhau về khái niệm pháp luật luật sư và TCHNLS. Có quan điểm cho rằng pháp luật về luật sư và TCHNLS là một chế định pháp luật kinh tế, có quan điểm khác lại cho rằng: Pháp luật về TCHNLS là chế định pháp luật về dân sự; cũng có nhiều quan điểm cho rằng: Pháp luật về luật sư và TCHNLS là một bộ phận của pháp luật về lĩnh vực Tư pháp, v.v… Trong phần này sẽ tìm hiểu, làm sáng tỏ một số quan niệm của pháp luật về TCHNLS, từ đó tạo cơ sở lý luận nhận thức chung về bộ phận pháp luật này trong hệ thống pháp luật nước ta. Theo quan điểm pháp luật về TCHNLS là chế định pháp luật kinh tế người ta luận giải rằng [79, tr.50]: Chế định pháp luật về TCHNLS thuộc ngành Luật kinh tế, điều chỉnh các quan hệ có tính chất dịch vụ, kinh doanh thương mại, bởi thỏa mãn các thuộc tính về đối tượng điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh của Luật kinh tế.

Tuy nhiên, có quan điểm cho rằng pháp luật về TCHNLS là một chế định của pháp luật dân sự, với quan điểm này người ta lý giải rằng: Ngay bản thân luật sư là một chủ thể pháp luật độc lập trong quan hệ pháp luật dân sự, bản thân luật sư và TCHNLS cũng không phải là tổ chức kinh tế và không hoạt động vì mục tiêu kinh tế đơn thuần, đặc thù tự do hành nghề, bình đẳng thỏa thuận nhằm hướng tới mục tiêu bảo vệ quan hệ tài sản, bảo vệ quyền nhân thân, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của “khách hàng” không phân biệt cá nhân hay pháp nhân, hoặc các cơ quan Nhà nước hay tổ chức kinh tế/xã hội và cũng không phân biệt rõ ràng mục đích kinh doanh hay không kinh doanh,v.v… Hợp đồng dịch vụ pháp lý được điều chỉnh dựa trên nền tảng của Bộ Luật dân sự.

Quan điểm khác lại cho rằng, pháp luật về TCHNLS là một bộ phận của pháp luật về lĩnh vực tư pháp . Theo quan điểm này người ta luận giải như sau: Pháp luật về TCHNLS gắn liền với việc thực thi các quyền tư pháp của Nhà nước và hệ thống Tòa án nhân dân các cấp. Pháp luật về TCHNLS và luật sư điều chỉnh hai nhóm quan hệ cơ bản là:

Thứ nhất, các luật sư trong TCHNLS trực tiếp liên quan đến việc thực thi các quyền tư pháp của Nhà nước. Trong lĩnh vực này tư pháp, pháp luật về TCHNLS điều chỉnh các quan hệ của luật sư, của TCHNLS, Tổ chức xã hội nghề nghiệp của luật sư với các cơ quan tiến hành tố tụng như: Cơ quan Công an, Viện kiểm sát, Tòa án khi luật sư hành nghề trong TCHNLS của họ tham gia tố tụng để bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của khách hàng theo các quy định của pháp luật tố tụng có liên quan.

Thứ hai, pháp luật về TCHNLS điều chỉnh nhóm quan hệ của TCHNLS với các luật sư thành viên gián tiếp liên quan đến việc thực thi các quyền tư pháp. Đó là quan hệ của TCHNLS với khách hàng khi tư vấn pháp luật, của luật sư thành viên trong TCHNLS đại diện ngoài tố tụng, cung cấp dịch vụ pháp lý khác, thực thi các quyền tư pháp cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân v.v…

Các quan điểm nêu trên có các hạt nhân hợp lý, tuy nhiên chưa phản ánh được đầy đủ về bản chất điều chỉnh của pháp luật về TCHNLS, cũng chưa bao quát được phạm vi điều chỉnh của pháp luật đối với TCHNLS và nghề luật sư, bởi nếu cho rằng pháp luật về TCHNLS là chế định pháp luật dân sự, hay chế định pháp luật kinh tế thì chưa bao hàm được các quy phạm pháp luật của ngành luật khác điều chỉnh điều chỉnh hoạt động của TCHNLS như pháp luật về tố tụng hình sự, tố tụng dân sự, tố tụng hành chính,v.v... Còn quan điểm cho rằng pháp luật về TCHNLS là một bộ phận của pháp luật về lĩnh vực tư pháp thì lại chưa bao hàm được các quy định pháp luật điều chỉnh về TCHNLS có tính chất hành chính, dân sự, dịch vụ và chế độ tự quản,v.v…

Từ các nội dung phân tích trên, pháp luật về Tổ chức hành nghề luật sư tác giả Luận án tìm cách nhận diện một cách khái quát để làm cơ sở cho các nghiên cứu tiếp theo: “Tổng thể các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận, điều chỉnh mối quan hệ giữa luật sư, tổ chức hành nghề luật sư với khách hàng, với các cơ quan Nhà nước, Cơ quan tiến hành tố tụng và Người tiến hành tố tụng, với tổ chức xã hội-nghề nghiệp của luật sư và cơ quan, tổ chức khác phát sinh trong quá trình tổ chức và hoạt động nghề nghiệp luật sư, quản lý nhà nước đối với nghề nghiệp luật sư và tự quản của Tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư”.

Theo: Trần Văn Công

Link luận án: Tại đây

avatar
Nguyenmaihuong
868 ngày trước
Khái niệm, đặc điểm và nội dung pháp luật về tổ chức hành nghề luật sư
2.2. Khái niệm, đặc điểm và nội dung pháp luật về tổ chức hành nghề luật sư2.2.1. Khái niệm pháp luật về tổ chức hành nghề luật sưMặc dù tư tưởng lập pháp của ông cha ta về Luật sư có từ rất sớm, song pháp luật về luật sư, nghề luật sư và TCHNLS của chúng ta ra đời khá muộn so với các nước phát triển trên thế giới. Trải qua hơn nửa thập kỷ phát triển thăng trầm, kể từ khi nước ta giành được độc lập năm 1945, pháp luật về luật sư và TCHNLS chỉ thực sự phát triển mạnh mẽ và dần được hoàn thiện từ năm 2001 trở lại đây và là một bộ phận quan trọng trong hệ thống pháp luật Việt Nam.Trong khoa học pháp lý, cho đến nay, có một số quan niệm khác nhau về khái niệm pháp luật luật sư và TCHNLS. Có quan điểm cho rằng pháp luật về luật sư và TCHNLS là một chế định pháp luật kinh tế, có quan điểm khác lại cho rằng: Pháp luật về TCHNLS là chế định pháp luật về dân sự; cũng có nhiều quan điểm cho rằng: Pháp luật về luật sư và TCHNLS là một bộ phận của pháp luật về lĩnh vực Tư pháp, v.v… Trong phần này sẽ tìm hiểu, làm sáng tỏ một số quan niệm của pháp luật về TCHNLS, từ đó tạo cơ sở lý luận nhận thức chung về bộ phận pháp luật này trong hệ thống pháp luật nước ta. Theo quan điểm pháp luật về TCHNLS là chế định pháp luật kinh tế người ta luận giải rằng [79, tr.50]: Chế định pháp luật về TCHNLS thuộc ngành Luật kinh tế, điều chỉnh các quan hệ có tính chất dịch vụ, kinh doanh thương mại, bởi thỏa mãn các thuộc tính về đối tượng điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh của Luật kinh tế.Tuy nhiên, có quan điểm cho rằng pháp luật về TCHNLS là một chế định của pháp luật dân sự, với quan điểm này người ta lý giải rằng: Ngay bản thân luật sư là một chủ thể pháp luật độc lập trong quan hệ pháp luật dân sự, bản thân luật sư và TCHNLS cũng không phải là tổ chức kinh tế và không hoạt động vì mục tiêu kinh tế đơn thuần, đặc thù tự do hành nghề, bình đẳng thỏa thuận nhằm hướng tới mục tiêu bảo vệ quan hệ tài sản, bảo vệ quyền nhân thân, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của “khách hàng” không phân biệt cá nhân hay pháp nhân, hoặc các cơ quan Nhà nước hay tổ chức kinh tế/xã hội và cũng không phân biệt rõ ràng mục đích kinh doanh hay không kinh doanh,v.v… Hợp đồng dịch vụ pháp lý được điều chỉnh dựa trên nền tảng của Bộ Luật dân sự.Quan điểm khác lại cho rằng, pháp luật về TCHNLS là một bộ phận của pháp luật về lĩnh vực tư pháp . Theo quan điểm này người ta luận giải như sau: Pháp luật về TCHNLS gắn liền với việc thực thi các quyền tư pháp của Nhà nước và hệ thống Tòa án nhân dân các cấp. Pháp luật về TCHNLS và luật sư điều chỉnh hai nhóm quan hệ cơ bản là:Thứ nhất, các luật sư trong TCHNLS trực tiếp liên quan đến việc thực thi các quyền tư pháp của Nhà nước. Trong lĩnh vực này tư pháp, pháp luật về TCHNLS điều chỉnh các quan hệ của luật sư, của TCHNLS, Tổ chức xã hội nghề nghiệp của luật sư với các cơ quan tiến hành tố tụng như: Cơ quan Công an, Viện kiểm sát, Tòa án khi luật sư hành nghề trong TCHNLS của họ tham gia tố tụng để bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của khách hàng theo các quy định của pháp luật tố tụng có liên quan.Thứ hai, pháp luật về TCHNLS điều chỉnh nhóm quan hệ của TCHNLS với các luật sư thành viên gián tiếp liên quan đến việc thực thi các quyền tư pháp. Đó là quan hệ của TCHNLS với khách hàng khi tư vấn pháp luật, của luật sư thành viên trong TCHNLS đại diện ngoài tố tụng, cung cấp dịch vụ pháp lý khác, thực thi các quyền tư pháp cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân v.v…Các quan điểm nêu trên có các hạt nhân hợp lý, tuy nhiên chưa phản ánh được đầy đủ về bản chất điều chỉnh của pháp luật về TCHNLS, cũng chưa bao quát được phạm vi điều chỉnh của pháp luật đối với TCHNLS và nghề luật sư, bởi nếu cho rằng pháp luật về TCHNLS là chế định pháp luật dân sự, hay chế định pháp luật kinh tế thì chưa bao hàm được các quy phạm pháp luật của ngành luật khác điều chỉnh điều chỉnh hoạt động của TCHNLS như pháp luật về tố tụng hình sự, tố tụng dân sự, tố tụng hành chính,v.v... Còn quan điểm cho rằng pháp luật về TCHNLS là một bộ phận của pháp luật về lĩnh vực tư pháp thì lại chưa bao hàm được các quy định pháp luật điều chỉnh về TCHNLS có tính chất hành chính, dân sự, dịch vụ và chế độ tự quản,v.v…Từ các nội dung phân tích trên, pháp luật về Tổ chức hành nghề luật sư tác giả Luận án tìm cách nhận diện một cách khái quát để làm cơ sở cho các nghiên cứu tiếp theo: “Tổng thể các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận, điều chỉnh mối quan hệ giữa luật sư, tổ chức hành nghề luật sư với khách hàng, với các cơ quan Nhà nước, Cơ quan tiến hành tố tụng và Người tiến hành tố tụng, với tổ chức xã hội-nghề nghiệp của luật sư và cơ quan, tổ chức khác phát sinh trong quá trình tổ chức và hoạt động nghề nghiệp luật sư, quản lý nhà nước đối với nghề nghiệp luật sư và tự quản của Tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư”.Theo: Trần Văn CôngLink luận án: Tại đây