0888889366
Tra cứu thông tin hợp đồng
timeline_post_file64c5b5c0eeadf-_Những-vấn-đề-lý-luận-về-pháp-luật-kiểm-soát-hành-vi-lạm-dụng-vị-trí-thống-lĩnh-thị-trường-.jpg.webp

Những vấn đề lý luận về pháp luật kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường

1.1.   Kiếm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường

1.1.1. Khái niệm, đặc điểm hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường

1.1.1.1.  Khái niệm vị trí thống lĩnh thị trường

Cạnh tranh lành mạnh và bình đẳng đóng vai trò trụ cột, đảm bảo sự vận hành năng động, hiệu quả của nền kinh thị trường. Việc cạnh tranh của các doanh nghiệp sẽ tạo ra các sản phẩm có chất lượng cao hơn với giá thành thấp hơn. Kết quả là, chỉ có những doanh nghiệp hoạt động hiệu quả, thu hút được nhiều khách hàng mới có thể tồn tại trong khi các doanh nghiệp kém hiệu quả sẽ buộc phải rút lui khỏi thi trường. Quá trình cạnh tranh làm xuất hiện những doanh nghiệp có vai trò dẫn dắt thị trường, thay vì bị phụ thuộc, chi phối bởi các quy luật thị trường thì (các) doanh nghiệp này có thể hành động độc lập, thậm chí tác động ngược trở lại, quyết định đến các yếu tố của thị trường. Những doanh nghiệp như vậy nắm giữ quyền lực thị trường (market power) và được gọi là doanh nghiệp có VTTLTT. Đạt được VTTLTT là mong muốn chính đáng của các doanh nghiệp khi tham gia thị trường. Do đó, luật cạnh tranh của các nước đều không ngăn cản các doanh nghiệp đạt được VTTLTT.

Từ góc độ kinh tế, VTTLTT được hiểu là “tình trạng mà những chiến lược kinh doanh của một doanh nghiệp có thể hay có khả năng có ảnh hưởng tiêu cực đến phúc lợi xã hội” . Khái niệm này phản ánh đặc điểm cơ bản nhất của thống lĩnh thị trường, đó là hành vi của doanh nghiệp nắm giữ vị trí này có khả tác động đến thị trường, mà tác động phổ biến nhất là gây thiệt hại về phúc lợi xã hội. Tuy nhiên, khái niệm này chưa phản ánh được mối quan hệ cơ bản giữa doanh nghiệp thống lĩnh với các lực lượng khác trên thị trường, cũng như chưa xem xét đến những tác động khác nhau mà hành vi của doanh nghiệp thống lĩnh thị trường có thể gây ra cho cạnh tranh ngoài tổn thất phúc lợi nói chung.

Từ góc độ khoa học pháp lý, không có một khái niệm thống nhất giữa các hệ thống pháp luật khác nhau về thống lĩnh thị trường. Khái niệm thống lĩnh thị trường trong các hệ thống pháp luật khác nhau được quy định phụ thuộc vào mục tiêu của chính sách, pháp luật cạnh tranh của quốc gia đó và thường có xu hướng cụ thể hơn so với cách tiếp cận từ góc độ kinh tế của khái niệm này. Việc phân tích khái niệm thống lĩnh thị trường trong một hệ thống pháp luật nhất định có thể xác định được mục tiêu của chính sách và pháp luật cạnh tranh của quốc gia đó.

Ở EU, nguồn luật quan trọng điều chỉnh hoạt động cạnh tranh, liên quan đến VTTLTT là Điều 82 Hiệp định EC (nay là điều 102 Hiệp định TFEU). Điều 102 TFEU không trực tiếp đưa ra khái niệm thống lĩnh thị trường mà chỉ khẳng định “các hành vi mang tính chiến lược được thực hiện bởi các doanh nghiệp thống lĩnh thị trường, làm loại bỏ cạnh tranh một cách bất hợp pháp, nhằm duy trì và củng cố quyền lực thị trường” bị lên án. Trên thực tế, khái niệm thống lĩnh thị trường được Tòa án tư pháp châu Âu (ECJ) phát triển qua thực tiễn giải quyết các vụ việc. Trong vụ việc Hoffmann-La Roche, ECJ đã nêu quan điểm về vị trí thống lĩnh thị trường là “Vị trí của doanh nghiệp mang sức mạnh kinh tế có khả năng ngăn cản cạnh tranh hiệu quả được duy trì trên thị trường liên quan bằng cách cho phép nó hành xử độc lập ở một mức độ đáng kể không phụ thuộc vào đối thủ cạnh tranh, khách hàng và cuối cùng là người tiêu dùng”.

Tại Hoa Kỳ, các quy định tương tự như quy định tại Điều 82 Hiệp định EC, điều 102 Hiệp định TFEU được nêu tại Mục 2, đạo luật Sherman, đạo luật cơ bản đầu tiên quy định về chống độc quyền của Hoa Kỳ, thông qua năm 1890. Tuy nhiên, thay vì sử dụng thuật ngữ “lạm dụng VTTLTT”, mục 2 của đạo luật này đề cập đến khái niệm độc quyền và nỗ lực để độc quyền, trong đó đã chỉ ra một vài hướng dẫn cho việc xác định khi nào thì một doanh nghiệp bị coi là độc quyền hay nỗ lực độc quyền. Theo đó, sức mạnh độc quyền được hiểu là “doanh nghiệp có khả năng (1) định giá cao hơn đáng kể so với mức giá cạnh tranh và (2) cố tình gây ra hành vi này trong khoảng thời gian nhất định nhằm loại bỏ đối thủ cạnh tranh mới gia nhập hoặc mở rộng thị trường”. Trong vụ United States v. Grinell Corp, Toà án Tối cao Hoa Kỳ cho rằng việc độc quyền bất hợp pháp liên quan đến hai yếu tố: (1) sở hữu quyền lực độc quyền trên thị trường liên quan, và (2) việc mua lại hoặc duy trì quyền lực đó một cách cố ý, khác với " sự tăng trưởng và phát triển như là một kết quả của sự nhạy bén trong kinh doanh, ưu thế của sản phẩm hoặc là do những điều kiện lịch sử mang lại”.

Luật cạnh tranh Romani quy định về VTTLTT lại chỉ nhấn mạnh yếu tố “khả năng hành động độc lập”, theo đó thống lĩnh thị trường được định nghĩa là tình huống mà một chủ thể kinh tế có khả năng, ở một mức độ đáng kể, hành động độc lập với các đối thủ cạnh tranh thực tế và tiềm năng của nó” [101, tr. 179]. Đối thủ cạnh tranh tiềm năng được xác định là các chủ thể kinh doanh có khả năng xâm nhập vào thị trường liên quan với sản phẩm đến từ các khu vực địa lý khác, kể cả hàng nhập khẩu. Khả năng hành động độc lập được xác định dựa trên các yếu tố của cạnh tranh như giá cả trên thị trường, đầu ra, tính đổi mới, đa dạng và chất lượng của hàng hóa, dịch vụ.

Tại chương 2, Luật mẫu về cạnh tranh của UNCTAD (đã được sửa đổi năm 2017), vị trí thống lĩnh của quyền lực thị trường (dominant position of market power) được định nghĩa là “tình trạng mà một doanh nghiệp, tự nó hoặc cùng hành động với một số doanh nghiệp khác ở vào vị trí kiểm soát thị trường liên quan của một hoặc một nhóm hàng hóa, dịch vụ cụ thể

Pháp luật của Canađa coi doanh nghiệp thống lĩnh thị trường là doanh nghiệp nắm giữ quyền lực thị trường. Theo pháp luật Canada, “quyền lực thị trường là khả năng giữ giá cao hơn mức giá cạnh tranh mà vẫn có lợi nhuận trong một khoảng thời gian đáng kể, thông thường là một năm”. Trong khi đó, pháp luật của Cộng hòa Pháp sử dụng đồng thời hai cách tiếp cận về quyền lực thị trường là cách tiếp cận mang tính học thuyết và cách tiếp cận mang tính thực tiễn. Cách tiếp cận thứ nhất đã áp dụng định nghĩa trừu tượng mà các án lệ đã đưa ra: “doanh nghiệp chiếm vị trí thống lĩnh là doanh nghiệp có khả năng thoát khỏi cạnh tranh thực chất, không chịu ràng buộc của thị trường và đóng vai trò chủ đạo trên thị trường đó”. Thế nên, thay vì phải tuân theo quy luật của thị trường, doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh hoặc độc quyền có thể tự làm luật trên thị trường đó. Cách tiếp cận thực tiễn được hình thành từ triết lý cho rằng “người lạm dụng không hẳn là người muốn lạm dụng, nhưng người lạm dụng chắc chắn phải là người có khả năng lạm dụng”. Thế nên, người ta thừa nhận sự tồn tại của sự thống lĩnh trên một thị trường khi trên thị trường đó xuất hiện những hành vi mà nếu có cạnh tranh thực chất thì những hành vi đó đã không thể thực hiện được. Sự khác nhau nói trên đã đưa đến những khác biệt về căn cứ pháp lý được sử dụng để xác định vị trí thống lĩnh của doanh nghiệp, nhóm doanh nghiệp trong pháp luật của các nước.

Như vậy, mặc dù có cách tiếp cận, quy định khác nhau nhưng các hệ thống pháp luật đều ghi nhận về bản chất, doanh nghiệp (hay nhóm doanh nghiệp) có vị trí thống lĩnh hay độc quyền thị trường là doanh nghiệp (nhóm doanh nghiệp) nắm giữ quyền lực thị trường. Quyền lực thị trường cho phép doanh nghiệp (nhóm doanh nghiệp) hành động độc lập, không phụ thuộc vào các quy luật của thị trường, đối thủ cạnh tranh, khách hàng, hay người tiêu dùng, nghĩa là nó có khả năng chi phối, kiểm soát thị trường.

Trong khi luật cạnh tranh các nước chỉ sử một trong hai khái niệm vị trí thống lĩnh thị trường hoặc độc quyền để chỉ cùng một hiện tượng pháp lý thì Luật cạnh tranh Việt Nam lại có sự phân biệt giữa vị trí thống lĩnh thị trường và độc quyền. Theo đó, thống lĩnh thị trường và độc quyền đều để chỉ doanh nghiệp có sức mạnh thị trường đáng kể mà hành vi của nó có khả năng gây tác động hạn chế cạnh tranh. Tuy nhiên, “doanh nghiệp được coi là có vị trí độc quyền nếu không có doanh nghiệp nào cạnh tranh về hàng hóa, dịch vụ mà doanh nghiệp đó kinh doanh trên thị trường liên quan” [24, Điều 25] tức là độc quyền là tình trạng thị trường hoàn toàn không có sự cạnh tranh, doanh nghiệp độc quyền không có đối thủ. Trong khi đó, ở thị trường có doanh nghiệp có VTTLTT, mặc dù doanh nghiệp có VTTLTT có sức mạnh thị trường đáng kể, có khả năng chi phối, kiểm soát thị trường nhưng vẫn tồn tại các doanh nghiệp đối thủ, vẫn có sự cạnh tranh nhất định.

Vì mục đích nghiên cứu của luận án là phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật cạnh tranh Việt Nam về kiểm soát hành vi lạm dụng của doanh nghiệp có VTTLTT nên trong phạm vi nghiên cứu của Luận án này, doanh nghiệp có VTTLTT sẽ được hiểu theo cách tiếp cận hẹp hơn của pháp luật Việt Nam, tức là sẽ không bao gồm doanh nghiệp có vị trí độc quyền.

Như vậy, có rất nhiều cách xác định VTTLTT, nhưng tựu chung lại, có hai nhóm quan điểm. Quan điểm thứ nhất cho rằng thống lĩnh thị trường là khả năng của doanh nghiệp (hay nhóm doanh nghiệp) duy trì tác động HCCT trên thị trường (chẳng hạn như khả năng loại bỏ đối thủ cạnh tranh). Quan điểm thứ hai cho rằng quyền lực thị trường là khả năng của doanh nghiệp hành động một cách độc lập với các đối thủ của nó (mà biểu hiện rõ nhất là khả năng duy trì giá cả trên mức cạnh tranh mà vẫn thu được lợi nhuận).

Có thể rút ra định nghĩa chung về VTTLTT như sau: Vị trí thống lĩnh thị trường là vị trí của doanh nghiệp hay nhóm doanh nghiệp nắm giữ sức mạnh thị trường đáng kể có khả năng gây hạn chế cạnh tranh trên thị trường liên quan và hành xử một cách độc lập với đối thủ cạnh tranh, khách hàng và người tiêu dùng.

1.1.1.2.   Khái niệm hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường

Dưới góc độ kinh tế, hành vi lạm dụng VTTLTT tồn tại một cách khách quan. Với mong muốn duy trì và củng cố quyền lực thị trường mà mình đã dày công vun đắp, các thương nhân thường sử dụng lợi thế có sẵn để làm gia tăng lợi nhuận và ở mức độ nhất định, việc khai thác lợi thế này của các thương nhân nắm quyền lực thị trường còn có tác dụng thúc đẩy cạnh tranh phát triển. Tuy nhiên, việc sử dụng quyền lực thị trường này phải dừng lại ở giới hạn hợp lý. Nếu vượt qua giới hạn này, hành vi của các thương nhân nói trên sẽ trở thành hành vi lạm dụng VTTLTT, ảnh hưởng nghiêm trọng đến cạnh tranh 

Từ góc độ khoa học pháp lý, định nghĩa thế nào là lạm dụng VTTLTT phụ thuộc vào mục tiêu của luật cạnh tranh mỗi nước. Chắc chắn nếu coi hiệu quả kinh tế là mục tiêu chính, thì các hành vi làm giảm phúc lợi phải được coi là lạm dụng. Hoặc cho rằng thương mại công bằng là mục tiêu chính thì hành vi khai thác lợi thế từ vị trí thống lĩnh để đặt ra điều kiện thương lượng có thể bị coi là lạm dụng 

Theo Bộ quy tắc về cạnh tranh của Liên Hợp Quốc được thông qua ngày 22/04/1980 và Luật mẫu về cạnh tranh của UNCTAD [92], “hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh và vị trí độc quyền để HCCT là hành vi HCCT mà doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh hoặc độc quyền sử dụng để duy trì hay tăng cường vị trí của nó trên thị trường bằng cách hạn chế khả năng gia nhập thị trường hoặc hạn chế quá mức cạnh tranh”

Luật cạnh tranh EU không có định nghĩa rõ ràng về "hành vi lạm dụng VTTLTT" thay vào đó, Điều 102 TFEU liệt kê các hành vi nhất định bị coi là lạm dụng VTTLTT. Tuy nhiên, những hành vi này chỉ là những dạng hành vi lạm dụng điển hình nhất, chứ không phải là một bảng liệt kê đầy đủ. Tương tự như khái niệm VTTLTT, khái niệm lạm dụng VTTLTT cũng được giải thích qua thực tiễn các vụ việc điển hình. Theo tòa án tư pháp châu Âu (ECJ), hành vi của doanh nghiệp có VTTLTT có bị coi là lạm dụng hay không căn cứ vào tác động của hành vi đó đối với môi trường cạnh tranh. Chẳng hạn như trong vụ Hoffmann-La Roche & Co. AG kiện Ủy ban châu Âu, khái niệm lạm dụng vị trí thống lĩnh được xem là: hành vi của doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh, có tác động đến cấu trúc thị trường, làm suy giảm mức độ cạnh tranh của thị trường thông qua việc sử dụng các phương pháp khác biệt với những phương pháp cạnh tranh được sử dụng trong điều kiện cạnh tranh thông thường của hàng hóa, dịch vụ trên cơ sở các giao dịch của các thương gia, gây trở ngại cho việc duy trì mức độ cạnh tranh đang tồn tại trên thị trường hoặc sự gia tăng mức độ cạnh tranh của thị trường đó” . Như vậy, khái niệm lạm dụng vị trí thống lĩnh mà ECJ đưa ra đã bám vào bản chất và có khả năng bao quát được các dạng hành vi lạm dụng cụ thể khác nhau. Do đó, các hành vi lạm dụng được liệt kê trong Điều 86 hiệp định EC (hiện tại là Điều 102 TFFEU) chỉ là những dạng hành vi lạm dụng điển hình nhất, chứ không phải là một bảng liệt kê đầy đủ. Quan điểm này được chỉ rõ trong các vụ việc AKZO. Trên thực tế, việc xác định một hành vi của doanh nghiệp có VTTLTT có phải là lạm dụng hay không phải dựa trên việc đánh giá tác động của hành vi đó đối với môi trường cạnh tranh. Một hành vi, dù không nằm trong những trường hợp điển hình được liệt kê tại Điều 102 TFEU vẫn có thể bị coi là lạm dụng vị trí thống lĩnh nếu nó do một doanh nghiệp thống lĩnh thị trường thực hiện và có ảnh hưởng tiêu cực tới môi trường cạnh tranh.

Luật Cạnh tranh và người tiêu dùng 2010 của Úc đề cập đến hành vi đơn phương của các doanh nghiệp có sức mạnh thị trường đáng kể, ngưỡng này thấp hơn so với các doanh nghiệp thống lĩnh.

Cụ thể, Điều 1 Mục 46 của CCA nghiêm cấm các công ty có sức mạnh thị trường đáng kể lạm dụng sức mạnh thị trường đó trên thị trường liên quan hoặc bất kỳ thị trường nào khác với một trong các mục đích sau (có thể được xác định bằng suy luận):

(i)   Loại bỏ hoặc làm tổn hại nghiêm trọng đối thủ cạnh tranh;

(ii) Ngăn chặn việc gia nhập thị trường liên quan hoặc bất kỳ thị trường nào khác; hoặc là

(iii) Ngăn chặn hoặc cản trở hoạt động cạnh tranh trên thị trường liên quan hoặc bất kỳ thị trường nào khác.

Mục 46 (1AA) cấm các doanh nghiệp có mức thị phần đáng kể trên thị trường định giá dưới giá thành trong một khoảng thời gian liên tục.

Mục 46A cấm các doanh nghiệp có sức mạnh thị trường đáng kể lạm dụng quyền lực thị trường ở các thị trường xuyên Đại Tây Dương.

Như vậy, có thể quy định theo những cách khác nhau, nhưng quan điểm về hành vi lạm dụng VTTLTT về cơ bản là tương đồng. Theo đó, hành vi lạm dụng VTTLTT là hành vi của doanh nghiệp thống lĩnh thị trường và đồng thời đáp ứng các điều kiện:

-  Phản ánh việc thực thi quyền lực thị trường của doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh

- Duy trì, củng cố quyền lực của doanh nghiệp đó, tạo ra tác hại kinh tế cho các nhà cung cấp, khách hàng hoặc đối thủ cạnh tranh của doanh nghiệp thống lĩnh đó, và

- Những tác hại như vậy sẽ không thể được tạo ra nếu hành vi được thực hiện bởi các doanh nghiệp không có VTTLTT.

Do đó, có thể rút ra định nghĩa chung về hành vi lạm dụng VTTLTT như sau: Lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường là hành vi của doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường, khai thác quyền lực thị trường mà nó có để duy trì, tăng cường vị trí của doanh nghiệp trên thị trường, gây cản trở cạnh tranh, tổn hại cho các đối thủ và khách hàng của doanh nghiệp.

Theo: Trần Thùy Linh

Link luận án:  Tại đây

avatar
Dang thu quynh
867 ngày trước
Những vấn đề lý luận về pháp luật kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường
1.1.   Kiếm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường1.1.1. Khái niệm, đặc điểm hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường1.1.1.1.  Khái niệm vị trí thống lĩnh thị trườngCạnh tranh lành mạnh và bình đẳng đóng vai trò trụ cột, đảm bảo sự vận hành năng động, hiệu quả của nền kinh thị trường. Việc cạnh tranh của các doanh nghiệp sẽ tạo ra các sản phẩm có chất lượng cao hơn với giá thành thấp hơn. Kết quả là, chỉ có những doanh nghiệp hoạt động hiệu quả, thu hút được nhiều khách hàng mới có thể tồn tại trong khi các doanh nghiệp kém hiệu quả sẽ buộc phải rút lui khỏi thi trường. Quá trình cạnh tranh làm xuất hiện những doanh nghiệp có vai trò dẫn dắt thị trường, thay vì bị phụ thuộc, chi phối bởi các quy luật thị trường thì (các) doanh nghiệp này có thể hành động độc lập, thậm chí tác động ngược trở lại, quyết định đến các yếu tố của thị trường. Những doanh nghiệp như vậy nắm giữ quyền lực thị trường (market power) và được gọi là doanh nghiệp có VTTLTT. Đạt được VTTLTT là mong muốn chính đáng của các doanh nghiệp khi tham gia thị trường. Do đó, luật cạnh tranh của các nước đều không ngăn cản các doanh nghiệp đạt được VTTLTT.Từ góc độ kinh tế, VTTLTT được hiểu là “tình trạng mà những chiến lược kinh doanh của một doanh nghiệp có thể hay có khả năng có ảnh hưởng tiêu cực đến phúc lợi xã hội” . Khái niệm này phản ánh đặc điểm cơ bản nhất của thống lĩnh thị trường, đó là hành vi của doanh nghiệp nắm giữ vị trí này có khả tác động đến thị trường, mà tác động phổ biến nhất là gây thiệt hại về phúc lợi xã hội. Tuy nhiên, khái niệm này chưa phản ánh được mối quan hệ cơ bản giữa doanh nghiệp thống lĩnh với các lực lượng khác trên thị trường, cũng như chưa xem xét đến những tác động khác nhau mà hành vi của doanh nghiệp thống lĩnh thị trường có thể gây ra cho cạnh tranh ngoài tổn thất phúc lợi nói chung.Từ góc độ khoa học pháp lý, không có một khái niệm thống nhất giữa các hệ thống pháp luật khác nhau về thống lĩnh thị trường. Khái niệm thống lĩnh thị trường trong các hệ thống pháp luật khác nhau được quy định phụ thuộc vào mục tiêu của chính sách, pháp luật cạnh tranh của quốc gia đó và thường có xu hướng cụ thể hơn so với cách tiếp cận từ góc độ kinh tế của khái niệm này. Việc phân tích khái niệm thống lĩnh thị trường trong một hệ thống pháp luật nhất định có thể xác định được mục tiêu của chính sách và pháp luật cạnh tranh của quốc gia đó.Ở EU, nguồn luật quan trọng điều chỉnh hoạt động cạnh tranh, liên quan đến VTTLTT là Điều 82 Hiệp định EC (nay là điều 102 Hiệp định TFEU). Điều 102 TFEU không trực tiếp đưa ra khái niệm thống lĩnh thị trường mà chỉ khẳng định “các hành vi mang tính chiến lược được thực hiện bởi các doanh nghiệp thống lĩnh thị trường, làm loại bỏ cạnh tranh một cách bất hợp pháp, nhằm duy trì và củng cố quyền lực thị trường” bị lên án. Trên thực tế, khái niệm thống lĩnh thị trường được Tòa án tư pháp châu Âu (ECJ) phát triển qua thực tiễn giải quyết các vụ việc. Trong vụ việc Hoffmann-La Roche, ECJ đã nêu quan điểm về vị trí thống lĩnh thị trường là “Vị trí của doanh nghiệp mang sức mạnh kinh tế có khả năng ngăn cản cạnh tranh hiệu quả được duy trì trên thị trường liên quan bằng cách cho phép nó hành xử độc lập ở một mức độ đáng kể không phụ thuộc vào đối thủ cạnh tranh, khách hàng và cuối cùng là người tiêu dùng”.Tại Hoa Kỳ, các quy định tương tự như quy định tại Điều 82 Hiệp định EC, điều 102 Hiệp định TFEU được nêu tại Mục 2, đạo luật Sherman, đạo luật cơ bản đầu tiên quy định về chống độc quyền của Hoa Kỳ, thông qua năm 1890. Tuy nhiên, thay vì sử dụng thuật ngữ “lạm dụng VTTLTT”, mục 2 của đạo luật này đề cập đến khái niệm độc quyền và nỗ lực để độc quyền, trong đó đã chỉ ra một vài hướng dẫn cho việc xác định khi nào thì một doanh nghiệp bị coi là độc quyền hay nỗ lực độc quyền. Theo đó, sức mạnh độc quyền được hiểu là “doanh nghiệp có khả năng (1) định giá cao hơn đáng kể so với mức giá cạnh tranh và (2) cố tình gây ra hành vi này trong khoảng thời gian nhất định nhằm loại bỏ đối thủ cạnh tranh mới gia nhập hoặc mở rộng thị trường”. Trong vụ United States v. Grinell Corp, Toà án Tối cao Hoa Kỳ cho rằng việc độc quyền bất hợp pháp liên quan đến hai yếu tố: (1) sở hữu quyền lực độc quyền trên thị trường liên quan, và (2) việc mua lại hoặc duy trì quyền lực đó một cách cố ý, khác với " sự tăng trưởng và phát triển như là một kết quả của sự nhạy bén trong kinh doanh, ưu thế của sản phẩm hoặc là do những điều kiện lịch sử mang lại”.Luật cạnh tranh Romani quy định về VTTLTT lại chỉ nhấn mạnh yếu tố “khả năng hành động độc lập”, theo đó thống lĩnh thị trường được định nghĩa là tình huống mà một chủ thể kinh tế có khả năng, ở một mức độ đáng kể, hành động độc lập với các đối thủ cạnh tranh thực tế và tiềm năng của nó” [101, tr. 179]. Đối thủ cạnh tranh tiềm năng được xác định là các chủ thể kinh doanh có khả năng xâm nhập vào thị trường liên quan với sản phẩm đến từ các khu vực địa lý khác, kể cả hàng nhập khẩu. Khả năng hành động độc lập được xác định dựa trên các yếu tố của cạnh tranh như giá cả trên thị trường, đầu ra, tính đổi mới, đa dạng và chất lượng của hàng hóa, dịch vụ.Tại chương 2, Luật mẫu về cạnh tranh của UNCTAD (đã được sửa đổi năm 2017), vị trí thống lĩnh của quyền lực thị trường (dominant position of market power) được định nghĩa là “tình trạng mà một doanh nghiệp, tự nó hoặc cùng hành động với một số doanh nghiệp khác ở vào vị trí kiểm soát thị trường liên quan của một hoặc một nhóm hàng hóa, dịch vụ cụ thể”Pháp luật của Canađa coi doanh nghiệp thống lĩnh thị trường là doanh nghiệp nắm giữ quyền lực thị trường. Theo pháp luật Canada, “quyền lực thị trường là khả năng giữ giá cao hơn mức giá cạnh tranh mà vẫn có lợi nhuận trong một khoảng thời gian đáng kể, thông thường là một năm”. Trong khi đó, pháp luật của Cộng hòa Pháp sử dụng đồng thời hai cách tiếp cận về quyền lực thị trường là cách tiếp cận mang tính học thuyết và cách tiếp cận mang tính thực tiễn. Cách tiếp cận thứ nhất đã áp dụng định nghĩa trừu tượng mà các án lệ đã đưa ra: “doanh nghiệp chiếm vị trí thống lĩnh là doanh nghiệp có khả năng thoát khỏi cạnh tranh thực chất, không chịu ràng buộc của thị trường và đóng vai trò chủ đạo trên thị trường đó”. Thế nên, thay vì phải tuân theo quy luật của thị trường, doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh hoặc độc quyền có thể tự làm luật trên thị trường đó. Cách tiếp cận thực tiễn được hình thành từ triết lý cho rằng “người lạm dụng không hẳn là người muốn lạm dụng, nhưng người lạm dụng chắc chắn phải là người có khả năng lạm dụng”. Thế nên, người ta thừa nhận sự tồn tại của sự thống lĩnh trên một thị trường khi trên thị trường đó xuất hiện những hành vi mà nếu có cạnh tranh thực chất thì những hành vi đó đã không thể thực hiện được. Sự khác nhau nói trên đã đưa đến những khác biệt về căn cứ pháp lý được sử dụng để xác định vị trí thống lĩnh của doanh nghiệp, nhóm doanh nghiệp trong pháp luật của các nước.Như vậy, mặc dù có cách tiếp cận, quy định khác nhau nhưng các hệ thống pháp luật đều ghi nhận về bản chất, doanh nghiệp (hay nhóm doanh nghiệp) có vị trí thống lĩnh hay độc quyền thị trường là doanh nghiệp (nhóm doanh nghiệp) nắm giữ quyền lực thị trường. Quyền lực thị trường cho phép doanh nghiệp (nhóm doanh nghiệp) hành động độc lập, không phụ thuộc vào các quy luật của thị trường, đối thủ cạnh tranh, khách hàng, hay người tiêu dùng, nghĩa là nó có khả năng chi phối, kiểm soát thị trường.Trong khi luật cạnh tranh các nước chỉ sử một trong hai khái niệm vị trí thống lĩnh thị trường hoặc độc quyền để chỉ cùng một hiện tượng pháp lý thì Luật cạnh tranh Việt Nam lại có sự phân biệt giữa vị trí thống lĩnh thị trường và độc quyền. Theo đó, thống lĩnh thị trường và độc quyền đều để chỉ doanh nghiệp có sức mạnh thị trường đáng kể mà hành vi của nó có khả năng gây tác động hạn chế cạnh tranh. Tuy nhiên, “doanh nghiệp được coi là có vị trí độc quyền nếu không có doanh nghiệp nào cạnh tranh về hàng hóa, dịch vụ mà doanh nghiệp đó kinh doanh trên thị trường liên quan” [24, Điều 25] tức là độc quyền là tình trạng thị trường hoàn toàn không có sự cạnh tranh, doanh nghiệp độc quyền không có đối thủ. Trong khi đó, ở thị trường có doanh nghiệp có VTTLTT, mặc dù doanh nghiệp có VTTLTT có sức mạnh thị trường đáng kể, có khả năng chi phối, kiểm soát thị trường nhưng vẫn tồn tại các doanh nghiệp đối thủ, vẫn có sự cạnh tranh nhất định.Vì mục đích nghiên cứu của luận án là phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật cạnh tranh Việt Nam về kiểm soát hành vi lạm dụng của doanh nghiệp có VTTLTT nên trong phạm vi nghiên cứu của Luận án này, doanh nghiệp có VTTLTT sẽ được hiểu theo cách tiếp cận hẹp hơn của pháp luật Việt Nam, tức là sẽ không bao gồm doanh nghiệp có vị trí độc quyền.Như vậy, có rất nhiều cách xác định VTTLTT, nhưng tựu chung lại, có hai nhóm quan điểm. Quan điểm thứ nhất cho rằng thống lĩnh thị trường là khả năng của doanh nghiệp (hay nhóm doanh nghiệp) duy trì tác động HCCT trên thị trường (chẳng hạn như khả năng loại bỏ đối thủ cạnh tranh). Quan điểm thứ hai cho rằng quyền lực thị trường là khả năng của doanh nghiệp hành động một cách độc lập với các đối thủ của nó (mà biểu hiện rõ nhất là khả năng duy trì giá cả trên mức cạnh tranh mà vẫn thu được lợi nhuận).Có thể rút ra định nghĩa chung về VTTLTT như sau: Vị trí thống lĩnh thị trường là vị trí của doanh nghiệp hay nhóm doanh nghiệp nắm giữ sức mạnh thị trường đáng kể có khả năng gây hạn chế cạnh tranh trên thị trường liên quan và hành xử một cách độc lập với đối thủ cạnh tranh, khách hàng và người tiêu dùng.1.1.1.2.   Khái niệm hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trườngDưới góc độ kinh tế, hành vi lạm dụng VTTLTT tồn tại một cách khách quan. Với mong muốn duy trì và củng cố quyền lực thị trường mà mình đã dày công vun đắp, các thương nhân thường sử dụng lợi thế có sẵn để làm gia tăng lợi nhuận và ở mức độ nhất định, việc khai thác lợi thế này của các thương nhân nắm quyền lực thị trường còn có tác dụng thúc đẩy cạnh tranh phát triển. Tuy nhiên, việc sử dụng quyền lực thị trường này phải dừng lại ở giới hạn hợp lý. Nếu vượt qua giới hạn này, hành vi của các thương nhân nói trên sẽ trở thành hành vi lạm dụng VTTLTT, ảnh hưởng nghiêm trọng đến cạnh tranh Từ góc độ khoa học pháp lý, định nghĩa thế nào là lạm dụng VTTLTT phụ thuộc vào mục tiêu của luật cạnh tranh mỗi nước. Chắc chắn nếu coi hiệu quả kinh tế là mục tiêu chính, thì các hành vi làm giảm phúc lợi phải được coi là lạm dụng. Hoặc cho rằng thương mại công bằng là mục tiêu chính thì hành vi khai thác lợi thế từ vị trí thống lĩnh để đặt ra điều kiện thương lượng có thể bị coi là lạm dụng Theo Bộ quy tắc về cạnh tranh của Liên Hợp Quốc được thông qua ngày 22/04/1980 và Luật mẫu về cạnh tranh của UNCTAD [92], “hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh và vị trí độc quyền để HCCT là hành vi HCCT mà doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh hoặc độc quyền sử dụng để duy trì hay tăng cường vị trí của nó trên thị trường bằng cách hạn chế khả năng gia nhập thị trường hoặc hạn chế quá mức cạnh tranh”Luật cạnh tranh EU không có định nghĩa rõ ràng về "hành vi lạm dụng VTTLTT" thay vào đó, Điều 102 TFEU liệt kê các hành vi nhất định bị coi là lạm dụng VTTLTT. Tuy nhiên, những hành vi này chỉ là những dạng hành vi lạm dụng điển hình nhất, chứ không phải là một bảng liệt kê đầy đủ. Tương tự như khái niệm VTTLTT, khái niệm lạm dụng VTTLTT cũng được giải thích qua thực tiễn các vụ việc điển hình. Theo tòa án tư pháp châu Âu (ECJ), hành vi của doanh nghiệp có VTTLTT có bị coi là lạm dụng hay không căn cứ vào tác động của hành vi đó đối với môi trường cạnh tranh. Chẳng hạn như trong vụ Hoffmann-La Roche & Co. AG kiện Ủy ban châu Âu, khái niệm lạm dụng vị trí thống lĩnh được xem là: hành vi của doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh, có tác động đến cấu trúc thị trường, làm suy giảm mức độ cạnh tranh của thị trường thông qua việc sử dụng các phương pháp khác biệt với những phương pháp cạnh tranh được sử dụng trong điều kiện cạnh tranh thông thường của hàng hóa, dịch vụ trên cơ sở các giao dịch của các thương gia, gây trở ngại cho việc duy trì mức độ cạnh tranh đang tồn tại trên thị trường hoặc sự gia tăng mức độ cạnh tranh của thị trường đó” . Như vậy, khái niệm lạm dụng vị trí thống lĩnh mà ECJ đưa ra đã bám vào bản chất và có khả năng bao quát được các dạng hành vi lạm dụng cụ thể khác nhau. Do đó, các hành vi lạm dụng được liệt kê trong Điều 86 hiệp định EC (hiện tại là Điều 102 TFFEU) chỉ là những dạng hành vi lạm dụng điển hình nhất, chứ không phải là một bảng liệt kê đầy đủ. Quan điểm này được chỉ rõ trong các vụ việc AKZO. Trên thực tế, việc xác định một hành vi của doanh nghiệp có VTTLTT có phải là lạm dụng hay không phải dựa trên việc đánh giá tác động của hành vi đó đối với môi trường cạnh tranh. Một hành vi, dù không nằm trong những trường hợp điển hình được liệt kê tại Điều 102 TFEU vẫn có thể bị coi là lạm dụng vị trí thống lĩnh nếu nó do một doanh nghiệp thống lĩnh thị trường thực hiện và có ảnh hưởng tiêu cực tới môi trường cạnh tranh.Luật Cạnh tranh và người tiêu dùng 2010 của Úc đề cập đến hành vi đơn phương của các doanh nghiệp có sức mạnh thị trường đáng kể, ngưỡng này thấp hơn so với các doanh nghiệp thống lĩnh.Cụ thể, Điều 1 Mục 46 của CCA nghiêm cấm các công ty có sức mạnh thị trường đáng kể lạm dụng sức mạnh thị trường đó trên thị trường liên quan hoặc bất kỳ thị trường nào khác với một trong các mục đích sau (có thể được xác định bằng suy luận):(i)   Loại bỏ hoặc làm tổn hại nghiêm trọng đối thủ cạnh tranh;(ii) Ngăn chặn việc gia nhập thị trường liên quan hoặc bất kỳ thị trường nào khác; hoặc là(iii) Ngăn chặn hoặc cản trở hoạt động cạnh tranh trên thị trường liên quan hoặc bất kỳ thị trường nào khác.Mục 46 (1AA) cấm các doanh nghiệp có mức thị phần đáng kể trên thị trường định giá dưới giá thành trong một khoảng thời gian liên tục.Mục 46A cấm các doanh nghiệp có sức mạnh thị trường đáng kể lạm dụng quyền lực thị trường ở các thị trường xuyên Đại Tây Dương.Như vậy, có thể quy định theo những cách khác nhau, nhưng quan điểm về hành vi lạm dụng VTTLTT về cơ bản là tương đồng. Theo đó, hành vi lạm dụng VTTLTT là hành vi của doanh nghiệp thống lĩnh thị trường và đồng thời đáp ứng các điều kiện:-  Phản ánh việc thực thi quyền lực thị trường của doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh- Duy trì, củng cố quyền lực của doanh nghiệp đó, tạo ra tác hại kinh tế cho các nhà cung cấp, khách hàng hoặc đối thủ cạnh tranh của doanh nghiệp thống lĩnh đó, và- Những tác hại như vậy sẽ không thể được tạo ra nếu hành vi được thực hiện bởi các doanh nghiệp không có VTTLTT.Do đó, có thể rút ra định nghĩa chung về hành vi lạm dụng VTTLTT như sau: Lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường là hành vi của doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường, khai thác quyền lực thị trường mà nó có để duy trì, tăng cường vị trí của doanh nghiệp trên thị trường, gây cản trở cạnh tranh, tổn hại cho các đối thủ và khách hàng của doanh nghiệp.Theo: Trần Thùy LinhLink luận án:  Tại đây