0888889366
Tra cứu thông tin hợp đồng
timeline_post_file64c5ba1f96923-_Cấu-trúc-pháp-luật-về-kiểm-soát-hành-vi-lạm-dụng-vị-trí-thống-lĩnh-thị-trường-.jpg.webp

Cấu trúc pháp luật về kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường

1.2.4.   Cấu trúc pháp luật về kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường

Pháp luật cạnh tranh về kiểm soát hành vi lạm dụng VTTLTT, độc quyền các nước tập trung vào 4 vấn đề chính: (1) nhận diện doanh nghiệp, nhóm doanh nghiệp có VTTLTT; (2) xác định hành vi lạm dụng VTTLTT; (3) quy định hậu quả pháp lý mà doanh nghiệp có VTTLTT phải gánh chịu khi thực hiện hành vi lạm dụng bị pháp luật cấm; (4) trình tự, thủ tục xử lý đối với doanh nghiệp thực hiện hành vi lạm dụng VTTLTT.

1.2.1.1. Nhận diện doanh nghiệp, nhóm doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường

Như trên đã phân tích, doanh nghiệp có VTTLTT là doanh nghiệp nắm giữ sức mạnh thị trường đáng kể có khả năng gây hạn chế cạnh tranh trên thị trường liên quan và hành xử một cách độc lập với đối thủ cạnh tranh, khách hàng và người tiêu dùng. Do đó, để nhận diện doanh nghiệp hay nhóm doanh nghiệp có VTTLTT cần xác định được thị trường liên quan và xác định được sức mạnh thị trường mà doanh nghiệp hay nhóm doanh nghiệp đó nắm giữ.

a) Thị trường liên quan

Xác định thị trường liên quan được xem là bước đầu tiên, có vai trò quan trọng, mang tính quyết định đối với một vụ việc HCCT nói chung và vụ việc lạm dụng VTTLTT nói riêng. Như trên đã phân tích, các hệ thống pháp luật đều ghi nhận, doanh nghiệp bị coi là có VTTLTT phải trên một thị trường liên quan xác định.

Trong vụ Volkswagen AG, Tòa án Châu Âu cho rằng: “Định nghĩa đúng đắn của thị trường liên quan là điều kiện tiên quyết cần thiết cho mọi phán đoán về hành vi được cho là HCCT, vì trước khi hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh được xác nhận, cần thiết phải thiết lập sự tồn tại của doanh nghiệp thống lĩnh trên một thị trường nhất định, mà giả định rằng một thị trường như vậy đã được xác định”. Quan điểm này cũng được ghi nhận trong các phán quyết của các Tòa án Hoa Kỳ liên quan đến các vụ việc về chống độc quyền. Trong vụ Walker Process Equipments Inc, Tòa án cho rằng “Không có định nghĩa về thị trường liên quan, không có cách nào để đo lường khả năng của doanh nghiệp bị cáo buộc làm giảm hạn chế hay phá hủy cạnh tranh” .

Từ quan điểm kinh tế, việc xác định thị trường liên quan, về cơ bản có thể giúp đánh giá tác động cạnh tranh của các hành vi kinh doanh cũng như các giao dịch kinh tế mà doanh nghiệp có VTTLTT thực hiện, bao gồm cả xác định các đối thủ cạnh tranh của doanh nghiệp. Từ góc độ pháp lý, thị trường liên quan có ý nghĩa trong việc đánh giá được sức mạnh thị trường mà doanh nghiệp có được, thông qua việc tính toán mức thị phần của doanh nghiệp. Hiển nhiên là, thị trường liên quan được xác định càng hẹp thì thị phần của doanh nghiệp đang được xem xét càng cao và do đó doanh nghiệp càng dễ bị xác định là thống lĩnh thị trường, bởi thị phần là một yếu tố rất quan trọng trong việc xác định quyền lực thị trường và tác động gây HCCT đáng kể.

Thực chất, thị trường liên quan bao gồm việc mô tả một loạt các sản phẩm và không gian địa lý trong đó quyền lực thị trường có thể được thực hiện. Nói cách khác, xác định thị trường liên quan là xác định phạm vi các sản phẩm thay thế gần cho một sản phẩm cụ thể và phạm vi không gian địa lý trong đó người tiêu dùng sẽ dễ dàng chuyển sang các nhà cung cấp sản phẩm thay thế khác. Như vậy, khái niệm thị trường liên quan bao gồm thị trường sản phẩm liên quan và thị trường địa lý liên quan.

Khái niệm thị trường sản phẩm liên quan trong luật cạnh tranh các nước có điểm chung là thị trường sản phẩm được xác định bởi khả năng thay thế cho nhau của hàng hóa từ quan điểm của người mua. Nói cách khác, hàng hóa mà người mua coi là thay thế được cho nhau thường được coi là nằm trong cùng một thị trường sản phẩm liên quan, ngược lại, hàng hóa mà người mua không coi là hàng thay thế được cho nhau thường là ở các thị trường sản phẩm riêng biệt.

OECD đã định nghĩa thị trường liên quan là “một sản phẩm hoặc một nhóm sản phẩm và một khu vực địa lý trong đó nó được bán sao cho, với giả định, công ty tối đa hóa được lợi nhuận, là người bán duy nhất các sản phẩm đó trong khu vực đó có thể tăng giá với một lượng nhỏ nhưng đáng kể và không nhất thời trên mức phổ biến hiện tại .

Thị trường sản phẩm liên quan đều được hiểu là một phần của thị trường liên quan áp dụng cho một sản phẩm cụ thể của doanh nghiệp bằng cách xác định tất cả các sản phẩm thay thế hợp lý cho sản phẩm và bằng cách xác định xem các sản phẩm thay thế này có giới hạn khả năng tác động đến giá sản phẩm của doanh nghiệp hay không. Luật cạnh tranh các nước quy định các cách thức cụ thể để xác định thị trường sản phẩm liên quan. Một số phương pháp xác định thị trường sản phẩm liên quan được quy định trong luật cạnh tranh của nhiều nước, gồm: Phân tích khả năng thay thế về cầu của sản phẩm dẫn đến hình thành một nhóm các sản phẩm mà theo đánh giá của người tiêu dùng đó là các sản phẩm có khả năng thay thế cho nhau; Phân tích khả năng thay thế về cung trong trường hợp ảnh hưởng của khả năng thay thế về cung tương đương với khả năng thay thế về cầu liên quan đến tính hiệu quả và kịp thời; sử dụng phép thử SSNIP hay còn gọi là phép thử nhà độc quyền giả định.

Trong khi đó, thị trường địa lý liên quan được xem là một thị trường bao gồm khu vực trong đó các điều kiện cung cấp hàng hóa và cung ứng dịch vụ là đồng nhất rõ ràng và có thể được phân biệt với các điều kiện cạnh tranh phổ biến trong các khu vực địa lý lân cận. Việc xác định thị trường địa lý liên quan tương tự như xác định thị trường sản phẩm liên quan. Thị trường địa lý liên quan được xác định theo quan điểm của người mua về tính thay thế hoặc khả năng thay thế của các sản phẩm được sản xuất hoặc bán tại các địa điểm khác nhau. Cụ thể, nếu người mua mua sản phẩm được bán ở một địa điểm chuyển sang mua sản phẩm được bán tại một địa điểm khác để đáp ứng với mức tăng nhỏ nhưng đáng kể và không nhất thời về giá thì hai địa điểm đó được xác định là nằm trong cùng một thị trường địa lý liên quan đối với sản phẩm đó. Tuy nhiên, nếu họ không coi sản phẩm được bán ở một địa điểm khác là sản phẩm thay thế cho một sản phẩm được bán ở địa điểm kia, thì hai địa điểm đó nằm ở các thị trường địa lý khác nhau đối với sản phẩm đó. Luật cạnh tranh các nước xác định giới hạn của thị trường địa lý liên quan dựa trên các yếu tố như chi phí vận chuyển, thuế quan, các rào cản thương mại khác và kể cả các quy định hành chính (như quy định về y tế và an toàn, các loại giấy phép…).

b) Xác định sức mạnh thị trường của doanh nghiệp, nhóm doạnh nghiệp

Sau khi thị trường liên quan đã được xác định thì công việc khó khăn tiếp theo chính là xác định liệu một doanh nghiệp hay nhóm doanh nghiệp có nắm giữ VTTLTT, tức là có sức mạnh thị trường đáng kể hay không. Trong các hệ thống pháp luật khác nhau, mức thị phần cao thường được coi là dấu hiệu cần nhưng chưa đủ để kết luận về VTTLTT của một doanh nghiệp. Thị phần được hiểu là phần thị trường mà doanh nghiệp chiếm lĩnh. Do đó, thị phần cao giúp doanh nghiệp tăng doanh thu, tăng lợi nhuận nhưng cũng đồng thời là một dấu hiệu cực kỳ quan trọng để cho thấy lợi thế cạnh tranh, khả năng tác động đến thị trường của doanh nghiệp. Khi doanh nghiệp nắm được thị phần cao trong thời gian dài trên thị trường, không cần nhiều chứng cứ cũng có thể giả định rằng doanh nghiệp đó có vị trí thống lĩnh. Ngược lại, với doanh nghiệp có thị phần thấp, CQCT cần thu thập thêm nhiều chứng cứ để có thể kết luận chắc chắn về vị trí thống lĩnh của doanh nghiệp. Thay vì đưa ra mức thị phần cao cố định để khẳng định chắc chắn về sự tồn tại của doanh nghiệp thống lĩnh thị trường. Một số hệ thống pháp luật mà điển hình là EU thiết lập mức thị phần chuẩn mà cao hơn hay thấp hơn mức thị phần theo luật định sẽ cho giả định về việc tồn tại hay không sức mạnh thị trường đáng kể của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, vấn đề phương pháp xác định thị phần của doanh nghiệp cũng không hoàn toàn thống nhất giữa các hệ thống pháp luật. Thị phần có thể được đo lường bằng doanh số hiện tại, doanh số trên cả quá trình trong quá khứ của doanh nghiệp hay thậm chí là khả năng chiếm lĩnh thị trường trong tương lai của doanh nghiệp.

Ngoài thị phần được coi yếu tố quan trọng cần có, các yếu tố quan trọng khác thường được quy định trong luật cạnh tranh các nước nhằm xác định liệu một doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh trên thị trường liên quan hay không, bao gồm các yếu tố như:

-   Số lượng và thị phần của các đối thủ cạnh tranh

-   Đặc thù của sản phẩm liên quan

-   Sức mạnh đối kháng của các chủ thể tham gia thị trường khác (chẳng hạn như sức mạnh của người mua)

-   Các đặc điểm của thị trường như môi trường pháp lý, tốc độ thay thế về công nghệ, sự tồn tại của các đối thủ tiềm năng

-   Và quan trọng nhất là các rào cản gia nhập và mở rộng thị trường

Trong các thị trường có rào cản gia nhập và mở rộng thấp, bất kỳ nỗ lực nào của doanh nghiệp thống lĩnh (thậm chí là một doanh nghiệp độc quyền) để thực hiện quyền lực thị trường mà nó có được, về mặt lý thuyết, sẽ bị đe dọa bởi sự gia nhập hay mở rộng thị trường của các đối thủ tiềm năng đang bị hấp dẫn bởi mức giá cao, lợi nhuận mà doanh nghiệp thống lĩnh đạt được. Sự gia nhập của các đối thủ cạnh tranh có thể sẽ thu hút khách hàng đến mức làm cho việc tăng giá của doanh nghiệp thống lĩnh trên cơ sở thực hiện quyền lực thị trường mà nó không mang lại lợi nhuận. Các rào cản gia nhập và mở rộng thị trường thường được xem xét bao gồm đặc thù của sản phẩm, các đặc điểm của thị trường như khả năng xâm nhập vào mạng lưới phân phối, các rào cản pháp lý, sự bảo hộ phát minh, sáng chế, chi phí chìm và các hành vi mang tính chiến lược của chính các công ty đang thống lĩnh thị trường…

Các hệ thống pháp luật không chỉ quan tâm, kiểm soát hành vi lạm dụng VTTLTT của một doanh nghiệp mà việc thực hiện hành vi lạm dụng của một nhóm doanh nghiệp nắm giữ sức mạnh thị trường đáng kể cũng được đánh giá là sẽ gây nên tác động tiêu cực đến cạnh tranh trên thị trường. Điều 102 của TFEU quy định cấm không chỉ hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh của một doanh nghiệp đơn lẻ, mà còn bao gồm cả hành vi lạm dụng VTTLTT của một nhóm doanh nghiệp: “Bất kỳ hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường gây ra bởi một hay nhiều doanh nghiệp (…)”.

Theo luật pháp Châu Âu, nhóm có vị trí thống lĩnh bao gồm hai hoặc nhiều doanh nghiệp có thể hành động giống nhau một cách riêng lẻ hoặc cùng hành động như một thực thể liên kết trên một thị trường liên quan cụ thể. Trên quan điểm kinh tế học, sẽ là đầy đủ chứng cứ khi các doanh nghiệp áp dụng cùng một chính sách chung trên thị trường và hành động độc lập đáng kể trên thị trường với các đối thủ cạnh tranh, khách hàng và người tiêu dùng.

Luật cạnh tranh các nước đều không ngăn cản các doanh nghiệp đạt được VTTLTT. Mục tiêu của hoạt động kinh doanh là lợi nhuận. Việc nỗ lực thu hút khách hàng, chiếm lĩnh thị phần ngày càng lớn để gia tăng lợi nhuật là mơ ước và động lực kinh doanh chính đáng của mọi doanh nghiệp. Hơn nữa sự tồn tại của các doanh nghiệp thống lĩnh cũng có những tác động tích cực cho nền kinh tế xã hội như tạo ra nhiều việc làm cho người lao động, tạo ra những sản phẩm với chất lượng tốt, công nghệ cao hơn cho xã hội, góp phần vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế hợp lý…

Theo: Trần Thùy Lin​​h

Link luận án:  Tại đây

avatar
Dang thu quynh
867 ngày trước
Cấu trúc pháp luật về kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường
1.2.4.   Cấu trúc pháp luật về kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trườngPháp luật cạnh tranh về kiểm soát hành vi lạm dụng VTTLTT, độc quyền các nước tập trung vào 4 vấn đề chính: (1) nhận diện doanh nghiệp, nhóm doanh nghiệp có VTTLTT; (2) xác định hành vi lạm dụng VTTLTT; (3) quy định hậu quả pháp lý mà doanh nghiệp có VTTLTT phải gánh chịu khi thực hiện hành vi lạm dụng bị pháp luật cấm; (4) trình tự, thủ tục xử lý đối với doanh nghiệp thực hiện hành vi lạm dụng VTTLTT.1.2.1.1. Nhận diện doanh nghiệp, nhóm doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trườngNhư trên đã phân tích, doanh nghiệp có VTTLTT là doanh nghiệp nắm giữ sức mạnh thị trường đáng kể có khả năng gây hạn chế cạnh tranh trên thị trường liên quan và hành xử một cách độc lập với đối thủ cạnh tranh, khách hàng và người tiêu dùng. Do đó, để nhận diện doanh nghiệp hay nhóm doanh nghiệp có VTTLTT cần xác định được thị trường liên quan và xác định được sức mạnh thị trường mà doanh nghiệp hay nhóm doanh nghiệp đó nắm giữ.a) Thị trường liên quanXác định thị trường liên quan được xem là bước đầu tiên, có vai trò quan trọng, mang tính quyết định đối với một vụ việc HCCT nói chung và vụ việc lạm dụng VTTLTT nói riêng. Như trên đã phân tích, các hệ thống pháp luật đều ghi nhận, doanh nghiệp bị coi là có VTTLTT phải trên một thị trường liên quan xác định.Trong vụ Volkswagen AG, Tòa án Châu Âu cho rằng: “Định nghĩa đúng đắn của thị trường liên quan là điều kiện tiên quyết cần thiết cho mọi phán đoán về hành vi được cho là HCCT, vì trước khi hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh được xác nhận, cần thiết phải thiết lập sự tồn tại của doanh nghiệp thống lĩnh trên một thị trường nhất định, mà giả định rằng một thị trường như vậy đã được xác định”. Quan điểm này cũng được ghi nhận trong các phán quyết của các Tòa án Hoa Kỳ liên quan đến các vụ việc về chống độc quyền. Trong vụ Walker Process Equipments Inc, Tòa án cho rằng “Không có định nghĩa về thị trường liên quan, không có cách nào để đo lường khả năng của doanh nghiệp bị cáo buộc làm giảm hạn chế hay phá hủy cạnh tranh” .Từ quan điểm kinh tế, việc xác định thị trường liên quan, về cơ bản có thể giúp đánh giá tác động cạnh tranh của các hành vi kinh doanh cũng như các giao dịch kinh tế mà doanh nghiệp có VTTLTT thực hiện, bao gồm cả xác định các đối thủ cạnh tranh của doanh nghiệp. Từ góc độ pháp lý, thị trường liên quan có ý nghĩa trong việc đánh giá được sức mạnh thị trường mà doanh nghiệp có được, thông qua việc tính toán mức thị phần của doanh nghiệp. Hiển nhiên là, thị trường liên quan được xác định càng hẹp thì thị phần của doanh nghiệp đang được xem xét càng cao và do đó doanh nghiệp càng dễ bị xác định là thống lĩnh thị trường, bởi thị phần là một yếu tố rất quan trọng trong việc xác định quyền lực thị trường và tác động gây HCCT đáng kể.Thực chất, thị trường liên quan bao gồm việc mô tả một loạt các sản phẩm và không gian địa lý trong đó quyền lực thị trường có thể được thực hiện. Nói cách khác, xác định thị trường liên quan là xác định phạm vi các sản phẩm thay thế gần cho một sản phẩm cụ thể và phạm vi không gian địa lý trong đó người tiêu dùng sẽ dễ dàng chuyển sang các nhà cung cấp sản phẩm thay thế khác. Như vậy, khái niệm thị trường liên quan bao gồm thị trường sản phẩm liên quan và thị trường địa lý liên quan.Khái niệm thị trường sản phẩm liên quan trong luật cạnh tranh các nước có điểm chung là thị trường sản phẩm được xác định bởi khả năng thay thế cho nhau của hàng hóa từ quan điểm của người mua. Nói cách khác, hàng hóa mà người mua coi là thay thế được cho nhau thường được coi là nằm trong cùng một thị trường sản phẩm liên quan, ngược lại, hàng hóa mà người mua không coi là hàng thay thế được cho nhau thường là ở các thị trường sản phẩm riêng biệt.OECD đã định nghĩa thị trường liên quan là “một sản phẩm hoặc một nhóm sản phẩm và một khu vực địa lý trong đó nó được bán sao cho, với giả định, công ty tối đa hóa được lợi nhuận, là người bán duy nhất các sản phẩm đó trong khu vực đó có thể tăng giá với một lượng nhỏ nhưng đáng kể và không nhất thời trên mức phổ biến hiện tại .Thị trường sản phẩm liên quan đều được hiểu là một phần của thị trường liên quan áp dụng cho một sản phẩm cụ thể của doanh nghiệp bằng cách xác định tất cả các sản phẩm thay thế hợp lý cho sản phẩm và bằng cách xác định xem các sản phẩm thay thế này có giới hạn khả năng tác động đến giá sản phẩm của doanh nghiệp hay không. Luật cạnh tranh các nước quy định các cách thức cụ thể để xác định thị trường sản phẩm liên quan. Một số phương pháp xác định thị trường sản phẩm liên quan được quy định trong luật cạnh tranh của nhiều nước, gồm: Phân tích khả năng thay thế về cầu của sản phẩm dẫn đến hình thành một nhóm các sản phẩm mà theo đánh giá của người tiêu dùng đó là các sản phẩm có khả năng thay thế cho nhau; Phân tích khả năng thay thế về cung trong trường hợp ảnh hưởng của khả năng thay thế về cung tương đương với khả năng thay thế về cầu liên quan đến tính hiệu quả và kịp thời; sử dụng phép thử SSNIP hay còn gọi là phép thử nhà độc quyền giả định.Trong khi đó, thị trường địa lý liên quan được xem là một thị trường bao gồm khu vực trong đó các điều kiện cung cấp hàng hóa và cung ứng dịch vụ là đồng nhất rõ ràng và có thể được phân biệt với các điều kiện cạnh tranh phổ biến trong các khu vực địa lý lân cận. Việc xác định thị trường địa lý liên quan tương tự như xác định thị trường sản phẩm liên quan. Thị trường địa lý liên quan được xác định theo quan điểm của người mua về tính thay thế hoặc khả năng thay thế của các sản phẩm được sản xuất hoặc bán tại các địa điểm khác nhau. Cụ thể, nếu người mua mua sản phẩm được bán ở một địa điểm chuyển sang mua sản phẩm được bán tại một địa điểm khác để đáp ứng với mức tăng nhỏ nhưng đáng kể và không nhất thời về giá thì hai địa điểm đó được xác định là nằm trong cùng một thị trường địa lý liên quan đối với sản phẩm đó. Tuy nhiên, nếu họ không coi sản phẩm được bán ở một địa điểm khác là sản phẩm thay thế cho một sản phẩm được bán ở địa điểm kia, thì hai địa điểm đó nằm ở các thị trường địa lý khác nhau đối với sản phẩm đó. Luật cạnh tranh các nước xác định giới hạn của thị trường địa lý liên quan dựa trên các yếu tố như chi phí vận chuyển, thuế quan, các rào cản thương mại khác và kể cả các quy định hành chính (như quy định về y tế và an toàn, các loại giấy phép…).b) Xác định sức mạnh thị trường của doanh nghiệp, nhóm doạnh nghiệpSau khi thị trường liên quan đã được xác định thì công việc khó khăn tiếp theo chính là xác định liệu một doanh nghiệp hay nhóm doanh nghiệp có nắm giữ VTTLTT, tức là có sức mạnh thị trường đáng kể hay không. Trong các hệ thống pháp luật khác nhau, mức thị phần cao thường được coi là dấu hiệu cần nhưng chưa đủ để kết luận về VTTLTT của một doanh nghiệp. Thị phần được hiểu là phần thị trường mà doanh nghiệp chiếm lĩnh. Do đó, thị phần cao giúp doanh nghiệp tăng doanh thu, tăng lợi nhuận nhưng cũng đồng thời là một dấu hiệu cực kỳ quan trọng để cho thấy lợi thế cạnh tranh, khả năng tác động đến thị trường của doanh nghiệp. Khi doanh nghiệp nắm được thị phần cao trong thời gian dài trên thị trường, không cần nhiều chứng cứ cũng có thể giả định rằng doanh nghiệp đó có vị trí thống lĩnh. Ngược lại, với doanh nghiệp có thị phần thấp, CQCT cần thu thập thêm nhiều chứng cứ để có thể kết luận chắc chắn về vị trí thống lĩnh của doanh nghiệp. Thay vì đưa ra mức thị phần cao cố định để khẳng định chắc chắn về sự tồn tại của doanh nghiệp thống lĩnh thị trường. Một số hệ thống pháp luật mà điển hình là EU thiết lập mức thị phần chuẩn mà cao hơn hay thấp hơn mức thị phần theo luật định sẽ cho giả định về việc tồn tại hay không sức mạnh thị trường đáng kể của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, vấn đề phương pháp xác định thị phần của doanh nghiệp cũng không hoàn toàn thống nhất giữa các hệ thống pháp luật. Thị phần có thể được đo lường bằng doanh số hiện tại, doanh số trên cả quá trình trong quá khứ của doanh nghiệp hay thậm chí là khả năng chiếm lĩnh thị trường trong tương lai của doanh nghiệp.Ngoài thị phần được coi yếu tố quan trọng cần có, các yếu tố quan trọng khác thường được quy định trong luật cạnh tranh các nước nhằm xác định liệu một doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh trên thị trường liên quan hay không, bao gồm các yếu tố như:-   Số lượng và thị phần của các đối thủ cạnh tranh-   Đặc thù của sản phẩm liên quan-   Sức mạnh đối kháng của các chủ thể tham gia thị trường khác (chẳng hạn như sức mạnh của người mua)-   Các đặc điểm của thị trường như môi trường pháp lý, tốc độ thay thế về công nghệ, sự tồn tại của các đối thủ tiềm năng-   Và quan trọng nhất là các rào cản gia nhập và mở rộng thị trườngTrong các thị trường có rào cản gia nhập và mở rộng thấp, bất kỳ nỗ lực nào của doanh nghiệp thống lĩnh (thậm chí là một doanh nghiệp độc quyền) để thực hiện quyền lực thị trường mà nó có được, về mặt lý thuyết, sẽ bị đe dọa bởi sự gia nhập hay mở rộng thị trường của các đối thủ tiềm năng đang bị hấp dẫn bởi mức giá cao, lợi nhuận mà doanh nghiệp thống lĩnh đạt được. Sự gia nhập của các đối thủ cạnh tranh có thể sẽ thu hút khách hàng đến mức làm cho việc tăng giá của doanh nghiệp thống lĩnh trên cơ sở thực hiện quyền lực thị trường mà nó không mang lại lợi nhuận. Các rào cản gia nhập và mở rộng thị trường thường được xem xét bao gồm đặc thù của sản phẩm, các đặc điểm của thị trường như khả năng xâm nhập vào mạng lưới phân phối, các rào cản pháp lý, sự bảo hộ phát minh, sáng chế, chi phí chìm và các hành vi mang tính chiến lược của chính các công ty đang thống lĩnh thị trường…Các hệ thống pháp luật không chỉ quan tâm, kiểm soát hành vi lạm dụng VTTLTT của một doanh nghiệp mà việc thực hiện hành vi lạm dụng của một nhóm doanh nghiệp nắm giữ sức mạnh thị trường đáng kể cũng được đánh giá là sẽ gây nên tác động tiêu cực đến cạnh tranh trên thị trường. Điều 102 của TFEU quy định cấm không chỉ hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh của một doanh nghiệp đơn lẻ, mà còn bao gồm cả hành vi lạm dụng VTTLTT của một nhóm doanh nghiệp: “Bất kỳ hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường gây ra bởi một hay nhiều doanh nghiệp (…)”.Theo luật pháp Châu Âu, nhóm có vị trí thống lĩnh bao gồm hai hoặc nhiều doanh nghiệp có thể hành động giống nhau một cách riêng lẻ hoặc cùng hành động như một thực thể liên kết trên một thị trường liên quan cụ thể. Trên quan điểm kinh tế học, sẽ là đầy đủ chứng cứ khi các doanh nghiệp áp dụng cùng một chính sách chung trên thị trường và hành động độc lập đáng kể trên thị trường với các đối thủ cạnh tranh, khách hàng và người tiêu dùng.Luật cạnh tranh các nước đều không ngăn cản các doanh nghiệp đạt được VTTLTT. Mục tiêu của hoạt động kinh doanh là lợi nhuận. Việc nỗ lực thu hút khách hàng, chiếm lĩnh thị phần ngày càng lớn để gia tăng lợi nhuật là mơ ước và động lực kinh doanh chính đáng của mọi doanh nghiệp. Hơn nữa sự tồn tại của các doanh nghiệp thống lĩnh cũng có những tác động tích cực cho nền kinh tế xã hội như tạo ra nhiều việc làm cho người lao động, tạo ra những sản phẩm với chất lượng tốt, công nghệ cao hơn cho xã hội, góp phần vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế hợp lý…Theo: Trần Thùy Lin​​hLink luận án:  Tại đây