0888889366
Tra cứu thông tin hợp đồng
timeline_post_file64c5bc5ee41a5-Thực-trạng-pháp-luật-Việt-Nam-về-kiểm-soát-hành-vi-lạm-dụng-trí-thống-lĩnh-thị-trường-.jpg.webp

Thực trạng pháp luật Việt Nam về kiểm soát hành vi lạm dụng trí thống lĩnh thị trường

2.1. Thực trạng pháp luật Việt Nam về kiểm soát hành vi lạm dụng trí thống lĩnh thị trường

2.1.1. Quy định về nhận diện doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường

2.1.1.1.  Xác định thị trường liên quan

Cũng như quy định của luật cạnh tranh nhiều nước trên thế giới, việc xác định doanh nghiệp có VTTLTT theo luật cạnh tranh Việt Nam trước hết phải bắt đầu bằng việc xác định thị trường liên quan mà doanh nghiệp đó đang tiến hành hoạt động kinh doanh. Theo Khoản 7, Điều 3 Luật cạnh tranh 2018, thị trường liên quan là thị trường của những hàng hóa, dịch vụ có thể thay thế cho nhau về đặc tính, mục đích sử dụng và giá cả trong khu vực địa lý cụ thể có các điều kiện cạnh tranh tương tự và có sự khác biệt đáng kể với các khu vực địa lý lân cận. Như vậy, thị trường liên quan là tập hợp những hàng hóa, dịch vụ có thể thay thế cho nhau nằm trong một khu vực địa lý cụ thể. Sự thay thế cho nhau của hàng hóa, dịch vụ được xác định qua đặc tính, mục đích sử dụng và giá cả. Trong khi đó, khu vực địa lý cụ thể nơi có những hàng hóa, dịch vụ có thể thay thế cho nhau được xác định bằng điều kiện cạnh tranh tương tự và có sự khác biệt đáng kể với các khu vực địa lý lân cận. Có thể thấy, quy định về thị trường liên quan của Luật cạnh tranh 2018 tương tự như quy định về thị trường liên quan theo quy định của Luật cạnh tranh 2004. Theo đó, thị trường liên quan được xác định theo hai khía cạnh là thị trường sản phẩm liên quan và thị trường địa lý liên quan. Tức là xác định phạm vi những sản phẩm có thể thay thế cho nhau để đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng (thị trường sản phẩm liên quan) và xác định khu vực địa lý riêng biệt nơi diễn ra sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp cùng kinh doanh các sản phẩm liên quan đó (thị trường địa lý liên quan).

Việc kế thừa quy định về thị trường liên quan của Luật Cạnh tranh 2018 từ Luật Cạnh tranh 2004 là hợp lý bởi các quy định này mang tính bao quát, phản ánh đúng bản chất chung, tương đồng với quan điểm về thị trường liên quan theo Luật cạnh tranh của các nước trên Thế giới, phù với định nghĩa về thị trường liên quan trong Luật mẫu về cạnh tranh của UNCTAD [92] được quy định tại Điểm (d), Mục I, Chương II, Phần I như sau:

Thị trường liên quan đề cập đến những điều kiện chung trong đó người bán và người mua trao đổi hàng hóa, nó chỉ ra ranh giới xác định về nhóm người bán và nhóm người mua của hàng hóa mà trong đó cạnh tranh có khả năng bị hạn chế. Nó đòi hỏi sự phân định về dòng sản phẩm và không gian địa lý mà trong đó, nhóm sản phẩm cụ thể, nhóm người bán, người mua tương tác để thiết lập giá cả và sản lượng của hàng hóa. Nó nên bao gồm tất cả các hàng hóa và dịch vụ có thể thay thế một cách hợp lý và tất cả những đối thủ cạnh tranh gần mà người tiêu dùng có thể tạm thời chuyển sang khi có sự tăng giá mang tính lạm dụng hoặc hạn chế với một lượng không đáng kể.

a)       Xác định thị trường sản phẩm liên quan

Để xác định thị trường sản phẩm liên quan cần xác định phạm vi những sản phẩm có thể thay thế được cho nhau nhìn từ quan điểm cầu. Trên thực tế, các nước thường áp dụng đồng thời hai phương pháp có liên quan chặt chẽ và bổ sung cho nhau trong việc xác định thị trường sản phẩm liên quan là khả năng thay thế hợp lý trong việc sử dụng (the reasonable interchangeability of use) và độ đàn hồi chéo của cầu (the cross elasticity of demand). Như đã phân tích ở trên, quan điểm về thị trường sản phẩm liên quan là “thị trường của những hàng hóa, dịch vụ có thể thay thế cho nhau về đặc tính, mục đích sử dụng và giá cả” được giữ nguyên từ Luật cạnh tranh 2004 đến Luật canh tranh 2018 cho thấy Việt Nam đã và đang áp dụng hai phương pháp này. Việc căn cứ vào: (i) đặc tính của sản phẩm (ii) mục đích sử dụng và (iii) giá cả của sản phẩm để xác định thuộc tính có thể thay thế cho nhau của hàng hóa, dịch vụ tức là dựa trên việc đánh giá khả năng thay thế về cầu, tức là nhìn nhận từ góc độ nhu cầu của người tiêu dùng. Trong đó, xem xét tính thay thế cho nhau về mục đích sử dụng và đặc tính của sản phẩm chính là xem xét khả năng thay thế hợp lý trong việc sử dụng và khả năng thay thế về giá của sản phẩm chính là xác định độ đàn hồi chéo của cầu. Như vậy, để xác định thị trường sản phẩm liên quan vấn đề quan trọng chính là xác định được phạm vi những sản phẩm đáp ứng được thuộc tính có thể thay thế cho nhau về đặc tính, mục đích sử dụng và giá cả. Việc xác định đặc tính, mục đích sử dụng và giá cả của sản phẩm cũng như thuộc tính có thể thay thế cho nhau của sản phẩm dựa trên những yếu tố này không được Luật cạnh tranh 2018 quy định cụ thể. Theo Khoản 2 Điều 9 Luật Cạnh tranh 2018, Chính Phủ có trách nhiệm quy định chi tiết nội dung này. Quy định như vậy là hợp lý, bởi lẽ, phương pháp xác định thị trường liên quan là vấn đề kỹ thuật chuyên sâu, đòi hỏi nhiều đánh giá chi tiết theo lý thuyết kinh tế nên cần được Chính Phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành tại Nghị định. Trong tương lai, việc xây dựng các quy định cụ thể về vấn đề này cần lưu ý khắc phục những hạn chế của Luật cạnh tranh 2004, đó là:

Đối với các tiêu chí dùng để xem xét thuộc tính có thể thay thế cho nhau về đặc tính cần xây dựng quy định để đảm bảo xem xét khả năng thay thế cho nhau về đặc tính của sản phẩm dùng được cho cả hàng hóa và dịch vụ chứ không như các quy định của Luật cạnh tranh 2004 chỉ có thể xem xét được đối với hàng hóa vì được dựa trên một số (nhiều) tính chất về vật lý, hóa học, tính năng kỹ thuật, tác dụng phụ đối với người sử dụng và khả năng hấp thụ giống nhau [5, Khoản 2, Điều 4]. Đặc biệt khi mà bối cảnh thị trường ở Việt Nam hiện nay cho thấy xu hướng HCCT diễn ra phổ biến hơn ở các ngành dịch vụ khi mà ¾ vụ việc lạm dụng vị trí thống lĩnh, độc quyền bị điều tra, xử lý đều diễn ra trong ngành dịch vụ (vụ việc Vinapco, vụ việc Megastar, vụ việc AB tours).

Đối với thuộc tính có thể thay thế cho nhau về giá cả, Luật cạnh tranh 2004 đã ứng dụng thử nghiệm SSNIP (thử nghiệm mức tăng giá nhỏ nhưng đáng kể hay thử nghiệm doanh nghiệp độc quyền giả định) một cách không đầy đủ. Về yếu tố mức tăng giá giả định, kinh nghiệm các nước đều quy định quy định mức tăng giá phải có ngưỡng tối đa (để đảm bảo nhỏ) và có ngưỡng tối thiểu (để đảm bảo đáng kể), trong đó, phần lớn các nước (Hoa Kỳ, Canada, Úc, EU, Anh, Niu Di Lân…) chọn mức tăng giá giả định 5%- 10%. Kinh nghiệm thực thi của Luật cạnh tranh các nước đều đánh giá mức tăng giá đó là phù hợp để phản ứng của người tiêu dùng có thể phản ánh chính xác sự thay đổi nhu cầu của thị trường . Như vậy có thể thấy, quy định của Luật cạnh tranh 2004 của Việt Nam hiện nay về mức tăng giá giả định quá 10%, tức là không khống chế ngưỡng tối đa, không đảm bảo được yếu tố nhỏ là rất không hợp lý. Về phản ứng của người tiêu dùng, Luật cạnh tranh 2004 quy định tỷ lệ trên 50% của 1000 mẫu thống kê ngẫu nhiên từ người tiêu dùng là đủ để đại diện cho nhu cầu của thị trường là rất khó đạt được. Với phép thử tăng giá giả định đưa ra rõ ràng sẽ rất dễ dẫn đến kết quả là mặc dù có trên 50% của 1000 người tiêu dùng được hỏi sẽ chuyển sang mua các sản phẩm khác nhưng tỷ lệ người tiêu dùng chuyển sang mua từng sản phẩm đều không đạt trên 50% và như vậy, theo quy định của Luật cạnh tranh 2004 sẽ không thể kết luận một sản phẩm nào đó là có thể thay thế cho sản phẩm bị điều tra. Thực tế điều tra vụ việc liên quan đến khiếu nại của công ty Tân Hiệp Phát (THP) về việc Công ty liên doanh nhà máy bia Việt Nam (VBL) đã lạm dụng vị trí thống lĩnh trên thị trường bia cao cấp để ngăn cản việc tham gia thị trường của những đối thủ cạnh tranh mới (vụ bia) đã cho thấy ngưỡng trên 50% trong tổng số lượng mẫu ngẫu nhiên 1000 người tiêu dùng là quá cao, cho kết quả trái ngược với kết luận của CQCT nếu dựa trên đánh giá khả năng thay thế cho nhau về đặc tính và mục đích sử dụng của sản phẩm, cũng như không phù hợp với thực tiễn thị trường . Về vấn đề này, Luật cạnh tranh một số nước, tiêu biểu như Hoa Kỳ, EU không đưa ra một ngưỡng tỷ lệ cố định để xác định phản ứng của người tiêu dùng đủ để đại diện cho nhu cầu của thị trường hay để kết luận về giới hạn của thị trường liên quan. Ứng dụng của thử nghiệm SSNIP chính là để xác định độ co giãn của cầu. Các nước này theo quan điểm nếu kết quả thử nghiệm cho thấy số lượng người tiêu dùng có khả năng chuyển sang mua các sản phẩm thay thế tương ứng với doanh số bị mất đi đủ để làm cho việc tăng giá không mang lại lợi nhuận cho doanh nghiệp bán hàng hóa, dịch vụ đang bị điều tra thì các hàng hóa dịch vụ thay thế sẽ được thêm vào phạm vi của thị trường liên quan. Bên cạnh đó, quy định của Luật cạnh tranh 2004 về khảo sát phản ứng của người tiêu dùng để xác định thị trường sản phẩm liên quan việc khảo sát sẽ được tiến hành với 1000 người theo mẫu thống kê ngẫu nhiên từ người tiêu dùng thực tế tại khu vực địa lý liên quan [5, Khoản 5, Điều 4 ] cho thấy việc xác định thị trường địa lý liên quan sẽ phải được thực hiện trước khi xác định thị trường sản phẩm liên quan. Điều này là ngược lại với cách xác định thị trường liên quan được áp dụng phổ biến trên Thế giới là việc xác định thị trường sản phẩm liên quan được thực hiện trước khi xác định thị trường địa lý liên quan.

Các yếu tố khác được Luật cạnh tranh 2004 quy định có thể được xem xét để xác định khả năng "có thể thay thế cho nhau" của hàng hóa, dịch vụ. bao gồm (i) tỷ lệ thay đổi của cầu đối với một hàng hóa, dịch vụ khi có sự thay đổi về giá của một hàng hóa, dịch vụ khác; (ii) thời gian cung ứng hàng hóa, dịch vụ ra thị trường khi có sự gia tăng đột biến về cầu; (iii) thời gian sử dụng của hàng hóa, dịch vụ và (iv) khả năng thay thế về cung. Ngoài ra, trong trường hợp cần thiết có thể xác định thêm nhóm người tiêu dùng sinh sống tại khu vực địa lý liên quan không thể chuyển sang mua hàng hóa, dịch vụ khác có đặc tính, mục đích sử dụng giống với hàng hóa, dịch vụ mà họ đang sử dụng hoặc có ý định sử dụng trong trường hợp giá của hàng hóa, dịch vụ đó tăng lên quá 10% và được duy trì trong 06 tháng liên tiếp. Các yếu tố kể trên được quy định quá chung chung, không thể hiện được các căn cứ, cách thức xác định, ý nghĩa và ngưỡng của từng yếu tố để kết luận về thuộc tính có thể thay thế cho nhau của hàng hóa, dịch vụ. Do đó, quy định về các yếu tố này rõ ràng là không khả thi.

Theo: Trần Thùy Lin​​h

Link luận án:  Tại đây

avatar
Dang thu quynh
867 ngày trước
Thực trạng pháp luật Việt Nam về kiểm soát hành vi lạm dụng trí thống lĩnh thị trường
2.1. Thực trạng pháp luật Việt Nam về kiểm soát hành vi lạm dụng trí thống lĩnh thị trường2.1.1. Quy định về nhận diện doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường2.1.1.1.  Xác định thị trường liên quanCũng như quy định của luật cạnh tranh nhiều nước trên thế giới, việc xác định doanh nghiệp có VTTLTT theo luật cạnh tranh Việt Nam trước hết phải bắt đầu bằng việc xác định thị trường liên quan mà doanh nghiệp đó đang tiến hành hoạt động kinh doanh. Theo Khoản 7, Điều 3 Luật cạnh tranh 2018, thị trường liên quan là thị trường của những hàng hóa, dịch vụ có thể thay thế cho nhau về đặc tính, mục đích sử dụng và giá cả trong khu vực địa lý cụ thể có các điều kiện cạnh tranh tương tự và có sự khác biệt đáng kể với các khu vực địa lý lân cận. Như vậy, thị trường liên quan là tập hợp những hàng hóa, dịch vụ có thể thay thế cho nhau nằm trong một khu vực địa lý cụ thể. Sự thay thế cho nhau của hàng hóa, dịch vụ được xác định qua đặc tính, mục đích sử dụng và giá cả. Trong khi đó, khu vực địa lý cụ thể nơi có những hàng hóa, dịch vụ có thể thay thế cho nhau được xác định bằng điều kiện cạnh tranh tương tự và có sự khác biệt đáng kể với các khu vực địa lý lân cận. Có thể thấy, quy định về thị trường liên quan của Luật cạnh tranh 2018 tương tự như quy định về thị trường liên quan theo quy định của Luật cạnh tranh 2004. Theo đó, thị trường liên quan được xác định theo hai khía cạnh là thị trường sản phẩm liên quan và thị trường địa lý liên quan. Tức là xác định phạm vi những sản phẩm có thể thay thế cho nhau để đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng (thị trường sản phẩm liên quan) và xác định khu vực địa lý riêng biệt nơi diễn ra sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp cùng kinh doanh các sản phẩm liên quan đó (thị trường địa lý liên quan).Việc kế thừa quy định về thị trường liên quan của Luật Cạnh tranh 2018 từ Luật Cạnh tranh 2004 là hợp lý bởi các quy định này mang tính bao quát, phản ánh đúng bản chất chung, tương đồng với quan điểm về thị trường liên quan theo Luật cạnh tranh của các nước trên Thế giới, phù với định nghĩa về thị trường liên quan trong Luật mẫu về cạnh tranh của UNCTAD [92] được quy định tại Điểm (d), Mục I, Chương II, Phần I như sau:Thị trường liên quan đề cập đến những điều kiện chung trong đó người bán và người mua trao đổi hàng hóa, nó chỉ ra ranh giới xác định về nhóm người bán và nhóm người mua của hàng hóa mà trong đó cạnh tranh có khả năng bị hạn chế. Nó đòi hỏi sự phân định về dòng sản phẩm và không gian địa lý mà trong đó, nhóm sản phẩm cụ thể, nhóm người bán, người mua tương tác để thiết lập giá cả và sản lượng của hàng hóa. Nó nên bao gồm tất cả các hàng hóa và dịch vụ có thể thay thế một cách hợp lý và tất cả những đối thủ cạnh tranh gần mà người tiêu dùng có thể tạm thời chuyển sang khi có sự tăng giá mang tính lạm dụng hoặc hạn chế với một lượng không đáng kể.a)       Xác định thị trường sản phẩm liên quanĐể xác định thị trường sản phẩm liên quan cần xác định phạm vi những sản phẩm có thể thay thế được cho nhau nhìn từ quan điểm cầu. Trên thực tế, các nước thường áp dụng đồng thời hai phương pháp có liên quan chặt chẽ và bổ sung cho nhau trong việc xác định thị trường sản phẩm liên quan là khả năng thay thế hợp lý trong việc sử dụng (the reasonable interchangeability of use) và độ đàn hồi chéo của cầu (the cross elasticity of demand). Như đã phân tích ở trên, quan điểm về thị trường sản phẩm liên quan là “thị trường của những hàng hóa, dịch vụ có thể thay thế cho nhau về đặc tính, mục đích sử dụng và giá cả” được giữ nguyên từ Luật cạnh tranh 2004 đến Luật canh tranh 2018 cho thấy Việt Nam đã và đang áp dụng hai phương pháp này. Việc căn cứ vào: (i) đặc tính của sản phẩm (ii) mục đích sử dụng và (iii) giá cả của sản phẩm để xác định thuộc tính có thể thay thế cho nhau của hàng hóa, dịch vụ tức là dựa trên việc đánh giá khả năng thay thế về cầu, tức là nhìn nhận từ góc độ nhu cầu của người tiêu dùng. Trong đó, xem xét tính thay thế cho nhau về mục đích sử dụng và đặc tính của sản phẩm chính là xem xét khả năng thay thế hợp lý trong việc sử dụng và khả năng thay thế về giá của sản phẩm chính là xác định độ đàn hồi chéo của cầu. Như vậy, để xác định thị trường sản phẩm liên quan vấn đề quan trọng chính là xác định được phạm vi những sản phẩm đáp ứng được thuộc tính có thể thay thế cho nhau về đặc tính, mục đích sử dụng và giá cả. Việc xác định đặc tính, mục đích sử dụng và giá cả của sản phẩm cũng như thuộc tính có thể thay thế cho nhau của sản phẩm dựa trên những yếu tố này không được Luật cạnh tranh 2018 quy định cụ thể. Theo Khoản 2 Điều 9 Luật Cạnh tranh 2018, Chính Phủ có trách nhiệm quy định chi tiết nội dung này. Quy định như vậy là hợp lý, bởi lẽ, phương pháp xác định thị trường liên quan là vấn đề kỹ thuật chuyên sâu, đòi hỏi nhiều đánh giá chi tiết theo lý thuyết kinh tế nên cần được Chính Phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành tại Nghị định. Trong tương lai, việc xây dựng các quy định cụ thể về vấn đề này cần lưu ý khắc phục những hạn chế của Luật cạnh tranh 2004, đó là:Đối với các tiêu chí dùng để xem xét thuộc tính có thể thay thế cho nhau về đặc tính cần xây dựng quy định để đảm bảo xem xét khả năng thay thế cho nhau về đặc tính của sản phẩm dùng được cho cả hàng hóa và dịch vụ chứ không như các quy định của Luật cạnh tranh 2004 chỉ có thể xem xét được đối với hàng hóa vì được dựa trên một số (nhiều) tính chất về vật lý, hóa học, tính năng kỹ thuật, tác dụng phụ đối với người sử dụng và khả năng hấp thụ giống nhau [5, Khoản 2, Điều 4]. Đặc biệt khi mà bối cảnh thị trường ở Việt Nam hiện nay cho thấy xu hướng HCCT diễn ra phổ biến hơn ở các ngành dịch vụ khi mà ¾ vụ việc lạm dụng vị trí thống lĩnh, độc quyền bị điều tra, xử lý đều diễn ra trong ngành dịch vụ (vụ việc Vinapco, vụ việc Megastar, vụ việc AB tours).Đối với thuộc tính có thể thay thế cho nhau về giá cả, Luật cạnh tranh 2004 đã ứng dụng thử nghiệm SSNIP (thử nghiệm mức tăng giá nhỏ nhưng đáng kể hay thử nghiệm doanh nghiệp độc quyền giả định) một cách không đầy đủ. Về yếu tố mức tăng giá giả định, kinh nghiệm các nước đều quy định quy định mức tăng giá phải có ngưỡng tối đa (để đảm bảo nhỏ) và có ngưỡng tối thiểu (để đảm bảo đáng kể), trong đó, phần lớn các nước (Hoa Kỳ, Canada, Úc, EU, Anh, Niu Di Lân…) chọn mức tăng giá giả định 5%- 10%. Kinh nghiệm thực thi của Luật cạnh tranh các nước đều đánh giá mức tăng giá đó là phù hợp để phản ứng của người tiêu dùng có thể phản ánh chính xác sự thay đổi nhu cầu của thị trường . Như vậy có thể thấy, quy định của Luật cạnh tranh 2004 của Việt Nam hiện nay về mức tăng giá giả định quá 10%, tức là không khống chế ngưỡng tối đa, không đảm bảo được yếu tố nhỏ là rất không hợp lý. Về phản ứng của người tiêu dùng, Luật cạnh tranh 2004 quy định tỷ lệ trên 50% của 1000 mẫu thống kê ngẫu nhiên từ người tiêu dùng là đủ để đại diện cho nhu cầu của thị trường là rất khó đạt được. Với phép thử tăng giá giả định đưa ra rõ ràng sẽ rất dễ dẫn đến kết quả là mặc dù có trên 50% của 1000 người tiêu dùng được hỏi sẽ chuyển sang mua các sản phẩm khác nhưng tỷ lệ người tiêu dùng chuyển sang mua từng sản phẩm đều không đạt trên 50% và như vậy, theo quy định của Luật cạnh tranh 2004 sẽ không thể kết luận một sản phẩm nào đó là có thể thay thế cho sản phẩm bị điều tra. Thực tế điều tra vụ việc liên quan đến khiếu nại của công ty Tân Hiệp Phát (THP) về việc Công ty liên doanh nhà máy bia Việt Nam (VBL) đã lạm dụng vị trí thống lĩnh trên thị trường bia cao cấp để ngăn cản việc tham gia thị trường của những đối thủ cạnh tranh mới (vụ bia) đã cho thấy ngưỡng trên 50% trong tổng số lượng mẫu ngẫu nhiên 1000 người tiêu dùng là quá cao, cho kết quả trái ngược với kết luận của CQCT nếu dựa trên đánh giá khả năng thay thế cho nhau về đặc tính và mục đích sử dụng của sản phẩm, cũng như không phù hợp với thực tiễn thị trường . Về vấn đề này, Luật cạnh tranh một số nước, tiêu biểu như Hoa Kỳ, EU không đưa ra một ngưỡng tỷ lệ cố định để xác định phản ứng của người tiêu dùng đủ để đại diện cho nhu cầu của thị trường hay để kết luận về giới hạn của thị trường liên quan. Ứng dụng của thử nghiệm SSNIP chính là để xác định độ co giãn của cầu. Các nước này theo quan điểm nếu kết quả thử nghiệm cho thấy số lượng người tiêu dùng có khả năng chuyển sang mua các sản phẩm thay thế tương ứng với doanh số bị mất đi đủ để làm cho việc tăng giá không mang lại lợi nhuận cho doanh nghiệp bán hàng hóa, dịch vụ đang bị điều tra thì các hàng hóa dịch vụ thay thế sẽ được thêm vào phạm vi của thị trường liên quan. Bên cạnh đó, quy định của Luật cạnh tranh 2004 về khảo sát phản ứng của người tiêu dùng để xác định thị trường sản phẩm liên quan việc khảo sát sẽ được tiến hành với 1000 người theo mẫu thống kê ngẫu nhiên từ người tiêu dùng thực tế tại khu vực địa lý liên quan [5, Khoản 5, Điều 4 ] cho thấy việc xác định thị trường địa lý liên quan sẽ phải được thực hiện trước khi xác định thị trường sản phẩm liên quan. Điều này là ngược lại với cách xác định thị trường liên quan được áp dụng phổ biến trên Thế giới là việc xác định thị trường sản phẩm liên quan được thực hiện trước khi xác định thị trường địa lý liên quan.Các yếu tố khác được Luật cạnh tranh 2004 quy định có thể được xem xét để xác định khả năng "có thể thay thế cho nhau" của hàng hóa, dịch vụ. bao gồm (i) tỷ lệ thay đổi của cầu đối với một hàng hóa, dịch vụ khi có sự thay đổi về giá của một hàng hóa, dịch vụ khác; (ii) thời gian cung ứng hàng hóa, dịch vụ ra thị trường khi có sự gia tăng đột biến về cầu; (iii) thời gian sử dụng của hàng hóa, dịch vụ và (iv) khả năng thay thế về cung. Ngoài ra, trong trường hợp cần thiết có thể xác định thêm nhóm người tiêu dùng sinh sống tại khu vực địa lý liên quan không thể chuyển sang mua hàng hóa, dịch vụ khác có đặc tính, mục đích sử dụng giống với hàng hóa, dịch vụ mà họ đang sử dụng hoặc có ý định sử dụng trong trường hợp giá của hàng hóa, dịch vụ đó tăng lên quá 10% và được duy trì trong 06 tháng liên tiếp. Các yếu tố kể trên được quy định quá chung chung, không thể hiện được các căn cứ, cách thức xác định, ý nghĩa và ngưỡng của từng yếu tố để kết luận về thuộc tính có thể thay thế cho nhau của hàng hóa, dịch vụ. Do đó, quy định về các yếu tố này rõ ràng là không khả thi.Theo: Trần Thùy Lin​​hLink luận án:  Tại đây