0888889366
Tra cứu thông tin hợp đồng
timeline_post_file64c66a998013b-Thực-trạng-pháp-luật-về-thương-lượng.jpg.webp

Thực trạng pháp luật về thương lượng trong bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng

3.3. Thực trạng pháp luật về thương lượng

Thứ nhất, hiện chưa có một trình tự thương lượng mẫu được pháp điển hóa trong các văn bản pháp luật. Thực tiễn pháp luật Việt Nam cho thấy chế định thương lượng được đề cập không nhiều, chủ yếu trong những lĩnh vực, hoạt động mang tính chất đặc thù và cũng chưa có bất kỳ một văn bản pháp lý nào quy định mẫu về trình tự thương lượng giải quyết tranh chấp nói chung và tranh chấp tiêu dùng nói riêng. Những lĩnh vực có đề cập tới phương thức thương lượng có thể kể tới như:

-  Lĩnh vực lao động: thương lượng, ký kết và thực hiện thỏa ước lao động tập thể giữa Công đoàn cơ sở với người sử dụng lao động được ghi nhận trong Bộ luật Lao động dựa trên Công ước số 154 của Tổ chức Lao động quốc tế về Xúc tiến thương lượng tập thể năm 1981;

-  Lĩnh vực bồi thường nhà nước và quản lý hành chính nhà nước ;

-  Lĩnh vực thi hành án dân sự …

Nhằm khuyến khích người tiêu dùng và thương nhân tự giải quyết tranh chấp, Luật BVQLNTD đã bổ sung phương thức giải quyết tranh chấp thông qua thương lượng vào nội dung của Luật. Đây được đánh giá là một điểm mới tiến bộ so với Pháp lệnh Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 1999, cho phép các bên tham gia tranh chấp có điều kiện giải quyết triệt để mâu thuẫn mà không cần có sự can thiệp của bên thứ ba hoặc cơ quan quản lý nhà nước. Luật BVQLNTD quy định tương đối “thoáng” đối với hình thức giải quyết tranh chấp này, cụ thể chỉ dành hai trên tổng số 51 điều khoản để quy định nội dung này. Theo đó, khi cho rằng quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm, người tiêu dùng sẽ gửi yêu cầu thương lượng tới thương nhân, đồng thời quy định nghĩa vụ tiếp nhận yêu cầu và tiến hành thương lượng với người tiêu dùng trong thời hạn 07 ngày.

Thứ hai, tuy rằng đã đề cập nhưng những quy định trong Luật BVQLNTD mới ban hành còn nhiều lỗ hổng pháp lý. Quy định trong luật mới chỉ giới hạn thời hạn tiếp nhận và tiến hành thương lượng trong tranh chấp tiêu dùng, mà chưa đề cập tới thời hạn ràng buộc các bên phải đạt được thỏa thuận thương lượng để giải quyết dứt điểm tranh chấp. Điều này cũng tạo kẽ hở cho phía doanh nghiệp cố tình kéo dài thời gian thương lượng giữa các bên, trì hoãn đưa ra kết quả thương lượng cuối cùng. Một điểm cũng còn chưa hoàn thiện trong quy định trong Luật BVQLNTD là tuy Luật có quy định kết quả thương lượng lập thành văn bản theo thỏa thuận giữa các bên [66] nhưng lại bỏ ngỏ quy định ràng buộc các bên về thi hành kết quả thương lượng đã được các bên thông qua. Trong khi Nghị định hướng dẫn số 99/2011/NĐ-CP cũng hoàn toàn không có bất kỳ điều khoản nào quy định chi tiết các nội dung này.

Thứ ba, thực tiễn áp dụng pháp luật cho thấy số lượng vụ việc áp dụng thương lượng trong giải quyết tranh chấp tiêu dùng tuy có nhiều hơn so với các phương thức giải quyết khác nhưng vẫn chưa tương xứng với thực tiễn phát sinh do nhiều nguyên nhân đặc thù. Theo số liệu công bố tại Hội thảo “Nhìn lại một năm triển khai Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng” do VCCI và Bộ Công thương tổ chức ngày 18/07/2012, năm 2011 cả nước có hơn 550 vụ việc khiếu nại được gửi tới các Sở Công thương, gần 2.000 vụ việc khiếu nại gửi đến Hội Bảo vệ người tiêu dùng các địa phương và khoảng 60 vụ khiếu nại đến Cục Quản lý cạnh tranh. Số lượng vụ việc khiếu nại được giải quyết tại Việt Nam thực tế quá ít nếu so sánh những con số này với con số 10.288 vụ khiếu nại trong năm 2011 của Malaysia [108], hay 10.000 vụ việc hòa giải thông qua 18 Hiệp hội bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng ở trung ương mỗi năm tại Pháp.

Tuy nhiên, nếu so với các phương thức giải quyết tranh chấp khác, thương lượng vẫn là phương thức giải quyết tranh chấp tương đối phổ biến trong thực tiễn tại Việt Nam trong áp dụng để giải quyết tranh chấp giữa cá nhân người tiêu dùng nhỏ lẻ với thương nhân do ưu điểm về tính nhanh gọn, khả năng đạt thỏa thuận cao, mặc dù không phải tất cả người tiêu dùng đều thỏa mãn về lợi ích bồi thường sau thương lượng. Thực tiễn nhiều vụ việc cho thấy quá trình thương lượng giải quyết tranh chấp giữa người tiêu dùng với thương nhân hiện nay bộc lộ nhiều bất cập. Cụ thể:

Về phía người tiêu dùng, tâm lý e dè, nhượng bộ quyền lợi là tương đối phổ biến đối với người tiêu dùng Việt Nam khi tham gia thương lượng với thương nhân có hàng hóa, dịch vụ gây thiệt hại tới quyền lợi chính đáng của mình. Tâm lý này xuất phát từ mặc cảm về vị thế yếu của người tiêu dùng trong mối quan hệ tiêu dùng như đã phân tích tại các mục kể trên. Điều này thực tế làm người tiêu dùng đánh mất đi lợi thế và tính chủ động trong hoạt động đàm phán thương lượng - điều cốt lõi và có vai trò quyết định đến thành công của hoạt động đàm phàn. Cũng chính tâm lý này của người tiêu dùng cũng là cơ hội để thương nhân tận dụng lợi thế đó để nắm chủ động và định hướng hoạt động thương lượng theo hướng có lợi cho mình. Và khi các bên đạt được một thỏa thuận thương lượng bằng văn bản, người tiêu dùng vốn ở vị thế yếu khi kết thúc quá trình thương lượng thì quyền lợi chính đáng vẫn chưa được đáp ứng một cách thỏa đáng. Bên cạnh đó, khi phát sinh tranh chấp tiêu dùng, do nhận thức về pháp luật còn hạn chế, chưa nắm chắc và đầy đủ cơ sở pháp lý và chứng cứ, nên hoạt động thương lượng của người tiêu dùng không những không đạt được kết quả mà thậm chí người tiêu dùng còn bị thua thiệt. Trong khi đó, hoạt động của các Hiệp hội, tổ chức bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng vẫn chưa đáp ứng được các yêu cầu đại diện cho quyền lợi người tiêu dùng giải quyết các khiếu nại tiêu dùng của người dân trong các cuộc đàm phán thương lượng với thương nhân.

Về phía thương nhân, do pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng hiện nay còn chưa đầy đủ, nhiều điểm còn chưa rõ ràng và hạn chế về nhận thức của người tiêu dùng nên thương nhân có tâm lý lợi dụng những kẽ hở đó để tạo lợi thế trên bàn thương lượng, thậm chí tận dụng các mối quan hệ kinh doanh để hạn chế khả năng thương lượng của phía người tiêu dùng. Điều này thể hiện dưới nhiều hành vi như: chây ì hoạt động bồi thường, hoàn trả tiền đặt cọc… Ví dụ: trường hợp thực tế của anh Nguyễn Thế Hùng tại Hà Nội tìm đến công ty TNHH Ô tô Ngôi Sao để ký hợp đồng mua một chiếc Mercedes C200 Elegance giá 60.000 USD vào tháng 10/2007. Anh đặt trước số tiền 6.000 USD (tương đương 100 triệu đồng). Tuy nhiên, đến ngày 15/1, đại diện Mercedes Benz Việt Nam (MBV) gửi một bức thư xin lỗi, thông báo xe sẽ bị giao chậm so vì lý do "bất khả kháng", mà không nói rõ ngày nào sẽ giao xe. Đầu tháng 2, anh Hùng đề nghị đại lý MBV hủy hợp đồng, bồi thường thiệt hại và thanh toán lãi suất khoản tiền đặt cọc. Vụ việc kéo dài gần ba tuần, mãi đến ngày 5/3 phía công ty ôtô Ngôi Sao chấp thuận hủy hợp đồng và bồi thường tiền theo yêu cầu của anh Hùng. Công ty TNHH ôtô Ngôi Sao - đại lý của Mercedes Benz Việt Nam - hôm 5/3 đã chấp nhận chấm dứt hợp đồng, bồi thường một khoản tiền cho anh Nguyễn Thế Hùng và một khách hàng khác ở Hà Nội với lý do chậm giao xe. Các hành vi tương tự không hề hiếm trong thực tiễn mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ của thương nhân cho người tiêu dùng. Theo Hội chống gian lận thương mại và hỗ trợ người tiêu dùng Thành phố Hồ Chí Minh (AFCA) tại tòa đàm về “Thực thi hoạt động bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng” với sự tham dự của đại diện Bộ Công thương, Tổng cục An ninh II (Bộ Công an), đại diện UBND Thành phố. Hồ Chí Minh, Sở Công thương, Sở Khoa học Công nghệ..., tình trạng doanh nghiệp trây ì giải quyết khiếu nại của khách hàng trở nên khá phổ biến. Chỉ tính riêng từ năm 2011 tới nay, AFCE đã tiếp nhận 139 hồ sơ và đã xử lý 91 vụ, chiếm trên 65%, hầu hết rơi vào các trường hợp mua ô tô, xe máy hoặc mua bán hàng hóa trên các trang web mua bán trực tuyến như nava.vn, cucre.vn…Bên cạnh đó, nhóm dịch vụ bảo hiểm, trung tâm thương mại, siêu thị điện máy, dịch vụ sửa chữa, ngân hàng cũng là những lĩnh vực mà hoạt động giải quyết khiếu nại tiêu dùng vẫn còn nhiều bất cập.

Theo: Nguyễn Trọng Điệp  

Link luận án:  Tại đây

avatar
Dang thu quynh
867 ngày trước
Thực trạng pháp luật về thương lượng trong bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
3.3. Thực trạng pháp luật về thương lượngThứ nhất, hiện chưa có một trình tự thương lượng mẫu được pháp điển hóa trong các văn bản pháp luật. Thực tiễn pháp luật Việt Nam cho thấy chế định thương lượng được đề cập không nhiều, chủ yếu trong những lĩnh vực, hoạt động mang tính chất đặc thù và cũng chưa có bất kỳ một văn bản pháp lý nào quy định mẫu về trình tự thương lượng giải quyết tranh chấp nói chung và tranh chấp tiêu dùng nói riêng. Những lĩnh vực có đề cập tới phương thức thương lượng có thể kể tới như:-  Lĩnh vực lao động: thương lượng, ký kết và thực hiện thỏa ước lao động tập thể giữa Công đoàn cơ sở với người sử dụng lao động được ghi nhận trong Bộ luật Lao động dựa trên Công ước số 154 của Tổ chức Lao động quốc tế về Xúc tiến thương lượng tập thể năm 1981;-  Lĩnh vực bồi thường nhà nước và quản lý hành chính nhà nước ;-  Lĩnh vực thi hành án dân sự …Nhằm khuyến khích người tiêu dùng và thương nhân tự giải quyết tranh chấp, Luật BVQLNTD đã bổ sung phương thức giải quyết tranh chấp thông qua thương lượng vào nội dung của Luật. Đây được đánh giá là một điểm mới tiến bộ so với Pháp lệnh Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 1999, cho phép các bên tham gia tranh chấp có điều kiện giải quyết triệt để mâu thuẫn mà không cần có sự can thiệp của bên thứ ba hoặc cơ quan quản lý nhà nước. Luật BVQLNTD quy định tương đối “thoáng” đối với hình thức giải quyết tranh chấp này, cụ thể chỉ dành hai trên tổng số 51 điều khoản để quy định nội dung này. Theo đó, khi cho rằng quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm, người tiêu dùng sẽ gửi yêu cầu thương lượng tới thương nhân, đồng thời quy định nghĩa vụ tiếp nhận yêu cầu và tiến hành thương lượng với người tiêu dùng trong thời hạn 07 ngày.Thứ hai, tuy rằng đã đề cập nhưng những quy định trong Luật BVQLNTD mới ban hành còn nhiều lỗ hổng pháp lý. Quy định trong luật mới chỉ giới hạn thời hạn tiếp nhận và tiến hành thương lượng trong tranh chấp tiêu dùng, mà chưa đề cập tới thời hạn ràng buộc các bên phải đạt được thỏa thuận thương lượng để giải quyết dứt điểm tranh chấp. Điều này cũng tạo kẽ hở cho phía doanh nghiệp cố tình kéo dài thời gian thương lượng giữa các bên, trì hoãn đưa ra kết quả thương lượng cuối cùng. Một điểm cũng còn chưa hoàn thiện trong quy định trong Luật BVQLNTD là tuy Luật có quy định kết quả thương lượng lập thành văn bản theo thỏa thuận giữa các bên [66] nhưng lại bỏ ngỏ quy định ràng buộc các bên về thi hành kết quả thương lượng đã được các bên thông qua. Trong khi Nghị định hướng dẫn số 99/2011/NĐ-CP cũng hoàn toàn không có bất kỳ điều khoản nào quy định chi tiết các nội dung này.Thứ ba, thực tiễn áp dụng pháp luật cho thấy số lượng vụ việc áp dụng thương lượng trong giải quyết tranh chấp tiêu dùng tuy có nhiều hơn so với các phương thức giải quyết khác nhưng vẫn chưa tương xứng với thực tiễn phát sinh do nhiều nguyên nhân đặc thù. Theo số liệu công bố tại Hội thảo “Nhìn lại một năm triển khai Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng” do VCCI và Bộ Công thương tổ chức ngày 18/07/2012, năm 2011 cả nước có hơn 550 vụ việc khiếu nại được gửi tới các Sở Công thương, gần 2.000 vụ việc khiếu nại gửi đến Hội Bảo vệ người tiêu dùng các địa phương và khoảng 60 vụ khiếu nại đến Cục Quản lý cạnh tranh. Số lượng vụ việc khiếu nại được giải quyết tại Việt Nam thực tế quá ít nếu so sánh những con số này với con số 10.288 vụ khiếu nại trong năm 2011 của Malaysia [108], hay 10.000 vụ việc hòa giải thông qua 18 Hiệp hội bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng ở trung ương mỗi năm tại Pháp.Tuy nhiên, nếu so với các phương thức giải quyết tranh chấp khác, thương lượng vẫn là phương thức giải quyết tranh chấp tương đối phổ biến trong thực tiễn tại Việt Nam trong áp dụng để giải quyết tranh chấp giữa cá nhân người tiêu dùng nhỏ lẻ với thương nhân do ưu điểm về tính nhanh gọn, khả năng đạt thỏa thuận cao, mặc dù không phải tất cả người tiêu dùng đều thỏa mãn về lợi ích bồi thường sau thương lượng. Thực tiễn nhiều vụ việc cho thấy quá trình thương lượng giải quyết tranh chấp giữa người tiêu dùng với thương nhân hiện nay bộc lộ nhiều bất cập. Cụ thể:Về phía người tiêu dùng, tâm lý e dè, nhượng bộ quyền lợi là tương đối phổ biến đối với người tiêu dùng Việt Nam khi tham gia thương lượng với thương nhân có hàng hóa, dịch vụ gây thiệt hại tới quyền lợi chính đáng của mình. Tâm lý này xuất phát từ mặc cảm về vị thế yếu của người tiêu dùng trong mối quan hệ tiêu dùng như đã phân tích tại các mục kể trên. Điều này thực tế làm người tiêu dùng đánh mất đi lợi thế và tính chủ động trong hoạt động đàm phán thương lượng - điều cốt lõi và có vai trò quyết định đến thành công của hoạt động đàm phàn. Cũng chính tâm lý này của người tiêu dùng cũng là cơ hội để thương nhân tận dụng lợi thế đó để nắm chủ động và định hướng hoạt động thương lượng theo hướng có lợi cho mình. Và khi các bên đạt được một thỏa thuận thương lượng bằng văn bản, người tiêu dùng vốn ở vị thế yếu khi kết thúc quá trình thương lượng thì quyền lợi chính đáng vẫn chưa được đáp ứng một cách thỏa đáng. Bên cạnh đó, khi phát sinh tranh chấp tiêu dùng, do nhận thức về pháp luật còn hạn chế, chưa nắm chắc và đầy đủ cơ sở pháp lý và chứng cứ, nên hoạt động thương lượng của người tiêu dùng không những không đạt được kết quả mà thậm chí người tiêu dùng còn bị thua thiệt. Trong khi đó, hoạt động của các Hiệp hội, tổ chức bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng vẫn chưa đáp ứng được các yêu cầu đại diện cho quyền lợi người tiêu dùng giải quyết các khiếu nại tiêu dùng của người dân trong các cuộc đàm phán thương lượng với thương nhân.Về phía thương nhân, do pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng hiện nay còn chưa đầy đủ, nhiều điểm còn chưa rõ ràng và hạn chế về nhận thức của người tiêu dùng nên thương nhân có tâm lý lợi dụng những kẽ hở đó để tạo lợi thế trên bàn thương lượng, thậm chí tận dụng các mối quan hệ kinh doanh để hạn chế khả năng thương lượng của phía người tiêu dùng. Điều này thể hiện dưới nhiều hành vi như: chây ì hoạt động bồi thường, hoàn trả tiền đặt cọc… Ví dụ: trường hợp thực tế của anh Nguyễn Thế Hùng tại Hà Nội tìm đến công ty TNHH Ô tô Ngôi Sao để ký hợp đồng mua một chiếc Mercedes C200 Elegance giá 60.000 USD vào tháng 10/2007. Anh đặt trước số tiền 6.000 USD (tương đương 100 triệu đồng). Tuy nhiên, đến ngày 15/1, đại diện Mercedes Benz Việt Nam (MBV) gửi một bức thư xin lỗi, thông báo xe sẽ bị giao chậm so vì lý do "bất khả kháng", mà không nói rõ ngày nào sẽ giao xe. Đầu tháng 2, anh Hùng đề nghị đại lý MBV hủy hợp đồng, bồi thường thiệt hại và thanh toán lãi suất khoản tiền đặt cọc. Vụ việc kéo dài gần ba tuần, mãi đến ngày 5/3 phía công ty ôtô Ngôi Sao chấp thuận hủy hợp đồng và bồi thường tiền theo yêu cầu của anh Hùng. Công ty TNHH ôtô Ngôi Sao - đại lý của Mercedes Benz Việt Nam - hôm 5/3 đã chấp nhận chấm dứt hợp đồng, bồi thường một khoản tiền cho anh Nguyễn Thế Hùng và một khách hàng khác ở Hà Nội với lý do chậm giao xe. Các hành vi tương tự không hề hiếm trong thực tiễn mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ của thương nhân cho người tiêu dùng. Theo Hội chống gian lận thương mại và hỗ trợ người tiêu dùng Thành phố Hồ Chí Minh (AFCA) tại tòa đàm về “Thực thi hoạt động bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng” với sự tham dự của đại diện Bộ Công thương, Tổng cục An ninh II (Bộ Công an), đại diện UBND Thành phố. Hồ Chí Minh, Sở Công thương, Sở Khoa học Công nghệ..., tình trạng doanh nghiệp trây ì giải quyết khiếu nại của khách hàng trở nên khá phổ biến. Chỉ tính riêng từ năm 2011 tới nay, AFCE đã tiếp nhận 139 hồ sơ và đã xử lý 91 vụ, chiếm trên 65%, hầu hết rơi vào các trường hợp mua ô tô, xe máy hoặc mua bán hàng hóa trên các trang web mua bán trực tuyến như nava.vn, cucre.vn…Bên cạnh đó, nhóm dịch vụ bảo hiểm, trung tâm thương mại, siêu thị điện máy, dịch vụ sửa chữa, ngân hàng cũng là những lĩnh vực mà hoạt động giải quyết khiếu nại tiêu dùng vẫn còn nhiều bất cập.Theo: Nguyễn Trọng Điệp  Link luận án:  Tại đây