0888889366
Tra cứu thông tin hợp đồng
timeline_post_file64c67d7eb4785-tmdt.jpg.webp

PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ

2.3. Pháp luật về hợp đồng thương mại điện tử

2.3.1. Thực trạng pháp luật về hợp đồng thương mại điện tử

2.3.1.1. Quy định về nhận diện hợp đồng thương mại điện tử

Giống như trong giao dịch truyền thống, các giao dịch trong môi trường điện tử cũng được thể hiện ra bên ngoài dưới hình thức là hợp đồng.

Hợp đồng được giao kết trong thương mại điện tử được gọi là hợp đồng điện tử. Chính vì vậy, bản chất của hợp đồng điện tử cũng là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt các quyền và nghĩa vụ.

Hợp đồng điện tử là cơ sở pháp lý quan trọng trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các bên chủ thể trong giao dịch thương mại điện tử nên pháp luật của Việt Nam cũng như pháp luật của các quốc gia trên thế giới đều có các quy định liên quan đến hợp đồng thương mại điện tử. 

Ở Việt Nam, hợp đồng điện tử được quy định cụ thể trong luật Giao dịch điện tử, theo đó hợp đồng điện tử là hợp đồng được thiết lập dưới dạng thông điệp dữ liệu theo quy định của luật giao dịch điện tử. 

Mặc dù, Luật Giao dịch điện tử không phải là văn bản pháp lý đầu tiên thừa nhận giá trị pháp lý của hợp đồng được giao kết bằng thông điệp dữ liệu nhưng đây là văn bản luật đầu tiên quy định cụ thể và trực tiếp về khái niệm hợp đồng điện tử, giá trị pháp lý của hợp đồng điện tử cũng như giá trị pháp lý của thông báo trong giao kết và thực hiện hợp đồng điện tử.

2.3.1.2. Chủ thể của hợp đồng điện tử

Ngoài hai bên chủ thể là bên đề nghị giao kết hợp đồng và bên chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng như trong các giao dịch thương mại truyền thống, thì trong các giao dịch thương mại điện tử đã xuất hiện loại chủ thể thứ ba.

Chủ thể thứ ba là các nhà cung cấp dịch vụ, tổ chức chứng thực. Các nhà cung cấp dịch vụ và tổ chức chứng thực có nhiệm vụ chuyển đi, lưu giữ các thông tin giữa các bên tham gia giao dịch thương mại điện tử, đồng thời họ cũng xác nhận độ tin cậy của các thông tin trong các giao dịch thương mại điện tử.

Chủ thể thứ ba trong các giao dịch thương mại điện tử đóng vai trò quan trọng trong các giao dịch thương mại điện tử. Các nhà cung cấp dịch vụ và tổ chức chứng thực không chỉ có ý nghĩa trong việc tạo ra môi trường, tạo lập các điều kiện giao dịch thuận lợi mà chủ thể này còn có vai trò quan trọng trong việc tạo ra các điều kiện an toàn cho các giao dịch, tạo lập và củng cố lòng tin của các chủ thể giao dịch đối với nhau đặc biệt là trong các trường hợp các bên chủ thể giao dịch ở cách xa nhau hoặc chưa từng quen biết nhau.

Tuy nhiên, cũng giống như các hợp đồng truyền thống. Chủ thể của hợp đồng thương mại chỉ có hai bên là bên đề nghị giao kết hợp đồng và bên chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng.

Ngoài ra, chủ thể của hợp đồng thương mại điện tử phải tuân thủ đầy đủ các quy định của pháp luật như đối với chủ thể trong hợp đồng thương mại truyền thống.

2.3.2. Hạn chế của pháp luật về hợp đồng thương mại điện tử

Có thể nhận thấy, pháp luật về hợp đồng thương mại điện tự còn có các hạn chế sau:

Thứ nhất, theo quy định của pháp luật Việt Nam ngoài hai chủ thể như trong hợp đồng thương mại truyền thống, hợp đồng điện tử còn xuất hiện chủ thể thứ ba.
Về mặt pháp lý, chủ thể thứ ba này không được coi là chủ thể của quan hệ hợp đồng điện tử mà chỉ là chủ thể tạo ra cơ sở hạ tầng, các điều kiện bảo đảm cho quá trình giao kết hợp đồng điện tử.

Về mặt kỹ thuật, chủ thể thứ ba này có thể làm ảnh hưởng đến quá trình giao kết cũng như nội dung của hợp đồng điện tử.

Tuy nhiên, pháp luật của Việt Nam lại không có quy định ràng buộc trách nhiệm pháp lý của chủ thể thứ ba đối với các bên chủ thể của hợp đồng điện tử khi làm ảnh hưởng đến quá trình giao kết hoặc nội dung của hợp đồng điện tử.

Thứ hai, Trong Luật Giao dịch điện tử của Việt Nam, hợp đồng điện tử được quy định từ Điều 33 đến Điều 38. Tuy nhiên, trong các điều luật nêu trên không có điều nào quy định trực tiếp, cụ thể về hợp đồng điện tử vô hiệu.

Về bản chất, hợp đồng điện tử là một loại hợp đồng. Vì vậy các vấn đề liên quan đến sự vô hiệu của hợp đồng truyền thống cũng được áp dụng đối với hợp đồng điện tử. Tuy nhiên, hợp đồng điện tử được giao kết dựa trên nền tảng kỹ thuật của công nghệ thông tin và truyền thông nên yếu tố kỹ thuật có ảnh hưởng rất lớn đến hợp đồng điện tử. Như vậy, việc không quy định lỗi kỹ thuật là một trường hợp làm hợp đồng vô hiệu thì sẽ là hạn chế khi hợp đồng được hình thành. Đồng thời, Những hạn chế này càng trở nên nghiêm trọng khi thương mại điện tử ngày một phát triển (doanh nghiệp áp dụng công nghệ tự động trong các giao dịch thương mại điện tử). Bên cạnh các vấn đề nêu trên, các hợp đồng vô hiệu có thể có sự khác nhau về tính chất và mức độ ảnh hưởng đến các lợi ích mà pháp luật cần bảo vệ.

Theo: PHÍ MẠNH CƯỜNG

Link luận án tại đây.

avatar
Thanh Huyền
867 ngày trước
PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ
2.3. Pháp luật về hợp đồng thương mại điện tử2.3.1. Thực trạng pháp luật về hợp đồng thương mại điện tử2.3.1.1. Quy định về nhận diện hợp đồng thương mại điện tửGiống như trong giao dịch truyền thống, các giao dịch trong môi trường điện tử cũng được thể hiện ra bên ngoài dưới hình thức là hợp đồng.Hợp đồng được giao kết trong thương mại điện tử được gọi là hợp đồng điện tử. Chính vì vậy, bản chất của hợp đồng điện tử cũng là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt các quyền và nghĩa vụ.Hợp đồng điện tử là cơ sở pháp lý quan trọng trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các bên chủ thể trong giao dịch thương mại điện tử nên pháp luật của Việt Nam cũng như pháp luật của các quốc gia trên thế giới đều có các quy định liên quan đến hợp đồng thương mại điện tử. Ở Việt Nam, hợp đồng điện tử được quy định cụ thể trong luật Giao dịch điện tử, theo đó hợp đồng điện tử là hợp đồng được thiết lập dưới dạng thông điệp dữ liệu theo quy định của luật giao dịch điện tử. Mặc dù, Luật Giao dịch điện tử không phải là văn bản pháp lý đầu tiên thừa nhận giá trị pháp lý của hợp đồng được giao kết bằng thông điệp dữ liệu nhưng đây là văn bản luật đầu tiên quy định cụ thể và trực tiếp về khái niệm hợp đồng điện tử, giá trị pháp lý của hợp đồng điện tử cũng như giá trị pháp lý của thông báo trong giao kết và thực hiện hợp đồng điện tử.2.3.1.2. Chủ thể của hợp đồng điện tửNgoài hai bên chủ thể là bên đề nghị giao kết hợp đồng và bên chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng như trong các giao dịch thương mại truyền thống, thì trong các giao dịch thương mại điện tử đã xuất hiện loại chủ thể thứ ba.Chủ thể thứ ba là các nhà cung cấp dịch vụ, tổ chức chứng thực. Các nhà cung cấp dịch vụ và tổ chức chứng thực có nhiệm vụ chuyển đi, lưu giữ các thông tin giữa các bên tham gia giao dịch thương mại điện tử, đồng thời họ cũng xác nhận độ tin cậy của các thông tin trong các giao dịch thương mại điện tử.Chủ thể thứ ba trong các giao dịch thương mại điện tử đóng vai trò quan trọng trong các giao dịch thương mại điện tử. Các nhà cung cấp dịch vụ và tổ chức chứng thực không chỉ có ý nghĩa trong việc tạo ra môi trường, tạo lập các điều kiện giao dịch thuận lợi mà chủ thể này còn có vai trò quan trọng trong việc tạo ra các điều kiện an toàn cho các giao dịch, tạo lập và củng cố lòng tin của các chủ thể giao dịch đối với nhau đặc biệt là trong các trường hợp các bên chủ thể giao dịch ở cách xa nhau hoặc chưa từng quen biết nhau.Tuy nhiên, cũng giống như các hợp đồng truyền thống. Chủ thể của hợp đồng thương mại chỉ có hai bên là bên đề nghị giao kết hợp đồng và bên chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng.Ngoài ra, chủ thể của hợp đồng thương mại điện tử phải tuân thủ đầy đủ các quy định của pháp luật như đối với chủ thể trong hợp đồng thương mại truyền thống.2.3.2. Hạn chế của pháp luật về hợp đồng thương mại điện tửCó thể nhận thấy, pháp luật về hợp đồng thương mại điện tự còn có các hạn chế sau:Thứ nhất, theo quy định của pháp luật Việt Nam ngoài hai chủ thể như trong hợp đồng thương mại truyền thống, hợp đồng điện tử còn xuất hiện chủ thể thứ ba.Về mặt pháp lý, chủ thể thứ ba này không được coi là chủ thể của quan hệ hợp đồng điện tử mà chỉ là chủ thể tạo ra cơ sở hạ tầng, các điều kiện bảo đảm cho quá trình giao kết hợp đồng điện tử.Về mặt kỹ thuật, chủ thể thứ ba này có thể làm ảnh hưởng đến quá trình giao kết cũng như nội dung của hợp đồng điện tử.Tuy nhiên, pháp luật của Việt Nam lại không có quy định ràng buộc trách nhiệm pháp lý của chủ thể thứ ba đối với các bên chủ thể của hợp đồng điện tử khi làm ảnh hưởng đến quá trình giao kết hoặc nội dung của hợp đồng điện tử.Thứ hai, Trong Luật Giao dịch điện tử của Việt Nam, hợp đồng điện tử được quy định từ Điều 33 đến Điều 38. Tuy nhiên, trong các điều luật nêu trên không có điều nào quy định trực tiếp, cụ thể về hợp đồng điện tử vô hiệu.Về bản chất, hợp đồng điện tử là một loại hợp đồng. Vì vậy các vấn đề liên quan đến sự vô hiệu của hợp đồng truyền thống cũng được áp dụng đối với hợp đồng điện tử. Tuy nhiên, hợp đồng điện tử được giao kết dựa trên nền tảng kỹ thuật của công nghệ thông tin và truyền thông nên yếu tố kỹ thuật có ảnh hưởng rất lớn đến hợp đồng điện tử. Như vậy, việc không quy định lỗi kỹ thuật là một trường hợp làm hợp đồng vô hiệu thì sẽ là hạn chế khi hợp đồng được hình thành. Đồng thời, Những hạn chế này càng trở nên nghiêm trọng khi thương mại điện tử ngày một phát triển (doanh nghiệp áp dụng công nghệ tự động trong các giao dịch thương mại điện tử). Bên cạnh các vấn đề nêu trên, các hợp đồng vô hiệu có thể có sự khác nhau về tính chất và mức độ ảnh hưởng đến các lợi ích mà pháp luật cần bảo vệ.Theo: PHÍ MẠNH CƯỜNGLink luận án tại đây.