Một số bất cập, hạn chế của pháp luật hải quan Việt Nam về kiểm soát hàng hóa nhập khẩu qua biên giới
3.1.4. Một số bất cập, hạn chế của pháp luật hải quan Việt Nam về kiểm soát hàng hóa nhập khẩu qua biên giới
Thứ nhất, pháp luật hải quan quy định về kiểm soát hàng hóa nhập khẩu qua biên giới vẫn còn chưa đảm bảo yếu tố đồng bộ và hài hòa với pháp luật quốc tế
Một là, nội hàm khái niệm về kiểm soát hải quan chưa đáp ứng được chuẩn mực theo Công ước Kyoto sửa đổi. Theo quy định tại Công ước Kyoto về đơn giản hóa, hài hòa hóa thủ tục hải quan thì kiểm soát hải quan là các biện pháp được cơ quan hải quan tiến hành nhằm bảo đảm thực thi pháp luật hải quan. Theo quy định pháp luật hiện hành, Khoản 11 Điều 4 Luật hải quan 2014 [61]: “Kiểm soát hải quan là biện pháp tuần tra, điều tra, xác minh hoặc biện pháp nghiệp vụ khác do cơ quan hải quan áp dụng để phòng, chống buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới và hành vi khác vi phạm pháp luật về hải quan”. Như vậy, xét về nội hàm thì kiểm soát hải quan theo quy định trong công ước Kyoto được hiểu như kiểm soát hàng hóa bao gồm các biện pháp thích hợp nhằm đảm bảo hiệu quả trong thực thi pháp luật hải quan. Vì nội hàm còn chưa tương thích với pháp luật quốc tế nên chưa tạo được cơ sở pháp lý vững chắc khi thực thi pháp luật xuất nhập khẩu qua biên giới theo pháp luật hải quan hiện nay.
Hai là, quy định về địa bàn kiểm soát hàng hóa nhập khẩu qua biên giới chưa tương thích với Công ước Kyoto
Khoản 13 Điều 4 Luật hải quan 2014 [61] quy định: “Lãnh thổ hải quan gồm những khu vực trong lãnh thổ, vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam nơi Luật hải quan được áp dụng”. Còn tại Chương II, Công ước Kyoto sửa đổi, bổ sung năm 1999 nêu rõ: Lãnh thổ Hải quan là lãnh thổ trong đó Luật Hải quan của một Bên tham gia được áp dụng. Theo quy định trên, cách tiếp cận theo góc độ pháp lý về lãnh thổ hải quan trong Công ước Kyoto sửa đổi đơn giản và theo hướng rộng hơn.
Thứ hai, pháp luật điều chỉnh quy định về nội dung kiểm soát hàng hóa nhập khẩu qua biên giới theo pháp luật hải quan còn bất cập
Một là, quy định pháp luật hải quan về kiểm soát xuất xứ gây khó khăn cho cơ quan hải quan trong việc xác định hành vi vi phạm và xử lý vi phạm.
Hiện nay, căn cứ các quy định theo quy định của pháp luật hải quan và pháp luật thương mại ở Việt Nam, cách ghi xuất xứ hàng hóa được quy định như sau: ghi "sản xuất tại" hoặc "chế tạo tại" hoặc "xuất xứ" kèm tên nước hay vùng lãnh thổ sản xuất ra hàng hóa đó. Tại Khoản 1,2 Điều 15 Nghị định 43/2017/NĐ-CP của Chính phủ về nhãn hàng hóa quy định về xuất xứ hàng hóa: “Tổ chức, cá nhân sản xuất, nhập khẩu tự xác định và ghi xuất xứ đối với hàng hóa của mình nhưng phải bảo đảm trung thực, chính xác, tuân thủ các quy định của pháp luật về xuất xứ hàng hóa hoặc các Hiệp định mà Việt Nam đã tham gia hoặc ký kết; Cách ghi xuất xứ hàng hóa được quy định như sau: Ghi cụm từ “sản xuất tại” hoặc “chế tạo tại”, “nước sản xuất”, “xuất xứ” hoặc “sản xuất bởi” kèm tên nước hoặc vùng lãnh thổ sản xuất ra hàng hóa đó. Thực tế một số lô hàng nhập khẩu thấy rằng việc ghi xuất xứ bằng tiếng Anh trên hàng hóa không thống nhất, như: Made in/by; Produced in/by; Manufactured in/by; Technology of; Designed by... kèm tên nước và tên của cơ sở sản xuất hoặc doanh nghiệp nước ngoài.
Hai là, bất cập trong quy định liên quan đến trị giá hải quan
* Quy định về tiêu chí liên quan đến hàng hóa nhập khẩu tại Khoản 1, 2 Điều 24 Thông tư số 39/2015/TT - BTC ngày 25/03/2015 [11] còn chưa rõ ràng.
Quy định về tiêu chí xây dựng, bổ sung, sửa đổi mặt hàng trong Danh mục hàng hóa XK, NK rủi ro về trị giá, tại Khoản 2 Điều 24 Thông tư số 39/2015/TT - BTC ngày 25/03/2015: “Đối với hàng hóa NK: Hàng hóa có thuế suất thuế nhập khẩu cao; Hàng hóa chiếm tỷ trọng lớn trong tổng kim ngạch hàng hóa nhập khẩu; Hàng hóa có tần suất vi phạm cao về trị giá hải quan trong khoảng thời gian đánh giá; Hàng hóa có rủi ro khai không đúng trị giá giao dịch nhằm mục đích gian lận thuế, trốn thuế nhập khẩu; Hàng hóa có rủi ro khai giảm trị giá nhập khẩu để bán phá giá hàng hóa vào thị trường nội địa Việt Nam”. Quy định về các tiêu chí này chưa thể hiện rõ thế nào là hàng hóa có kim ngạch NK lớn, lớn là bao nhiêu hoặc hàng hóa được đánh giá có tần suất vi phạm cao, có mức độ rủi ro cao trong xác định trị giá hải quan chưa được quy định rõ ràng. Đối với hàng NK, mới chỉ có tiêu chí xây dựng, bổ sung, sửa đổi đối với hàng hóa có rủi ro khai giảm trị giá NK, trường hợp hàng hóa có rủi ro khai tăng trị giá NK chưa được quy định.
* Quy định về kiểm tra trị giá hải quan tại Khoản 1, Điều 25, Thông tư số 38/2015/TT – BTC ngày 25/03/2015: “Cơ quan hải quan thực hiện kiểm tra trị giá hải quan do người khai hải quan khai trên tờ khai hải quan để xác định các trường hợp có đủ cơ sở bác bỏ trị giá khai báo và các trường hợp có nghi vấn về trị giá khai báo nhưng chưa đủ cơ sở bác bỏ”. Theo quy định này, cơ quan hải quan chỉ kiểm tra trị giá trên tờ khai hải quan, không kiểm tra trên tờ khai trị giá hải quan kể cả trong trường hợp phải khai trên tờ khai trị giá hải quan.
Tại điểm a, Khoản 1, Điều 25 lại quy định: “Hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu có đủ cơ sở bác bỏ trị giá khai báo nếu thuộc một trong các trường hợp sau: “Người khai hải quan không kê khai hoặc kê khai không đúng, không đủ các chỉ tiêu liên quan đến trị giá hải quan trên tờ khai hàng hóa xuất khẩu; tờ khai hàng hóa nhập khẩu hoặc tờ khai trị giá (nếu có)”... Việc kiểm tra trị giá sẽ được thực hiện trên tờ khai hải quan và trên tờ khai trị giá (nếu có) đối với các trường hợp phải khai trị giá hải quan trên tờ khai trị giá .
* Quy định về kiểm tra trị giá hải quan đối với hàng hóa XK, NK có nghi vấn về trị giá khai báo nhưng chưa đủ cơ sở bác bỏ, tại Điểm b, Khoản 1, Điều 25 Thông tư số 38/2015/TT – BTC ngày 25/03/201: “Hàng hóa XK, NK có nghi vấn về trị giá khai báo nhưng chưa đủ cơ sở bác bỏ là trường hợp trị giá khai báo thấp hơn thông tin rủi ro về trị giá tại cơ sở dữ liệu giá theo quy định của Tổng cục hải quan” [10]. Quy định này mới chỉ dừng lại ở việc kiểm tra trị giá đối với các trường hợp có nghi vấn trị giá khai báo thấp hơn thông tin rủi ro về trị giá tại cơ sở dữ liệu giá, chưa có quy định đối với các trường hợp khai tăng trị giá hải quan, có nghĩa là doanh nghiệp khai trị giá hải quan cao hơn so với thông tin rủi ro về trị giá tại cơ sở dữ liệu trị giá. Thực tế, có trường hợp gian lận thương mại qua trị giá hải quan thông qua hình thức khai tăng trị giá hải quan nhằm mục đích chuyển lậu lợi nhuận vốn đầu tư ra nước ngoài, chuyển giá, trốn thuế thu nhập...
Theo: Trần Viết Long
Link luận án: Tại đây