MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ VIỄN THÔNG
3.2. Một số giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện pháp luật về viễn thông
3.2.1. Hoàn thiện các quy định về kinh doanh viễn thông
Tăng cường, khuyến khích sự tham gia của thành phần kinh tế tư nhân vào hoạt động viễn thông và kinh doanh viễn thông
Hiện nay Luật Viễn thông và các văn bản hướng dẫn thi hành tuy đã cho phép mọi thành phần kinh tế được tham gia kinh doanh dịch vụ viễn thông, trong đó có cả lĩnh vực thiết lập hạ tầng mạng viễn thông. Tuy nhiên thực tế thì chỉ vẫn các doanh nghiệp Nhà nước hoặc doanh nghiệp Nhà nước nắm cổ phần chi phối tham gia cung cấp dịch vụ viễn thông có hạ tầng mạng.
Một trong những biện pháp cần được triển khai sớm là hoàn thiện các văn bản về cổ phần hoá trong lĩnh vực viễn thông và cổ phần hoá một số doanh nghiệp viễn thông nhà nước, phát hành một phần cổ phiếu ra công chúng, thu hút các cá nhân và doanh nghiệp tham gia đầu tư. Như vậy vừa đảm bảo thực hiện đúng các cam kết mở cửa thị trường, vừa thu hút được các nguồn lực đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng viễn thông, góp phần thúc đẩy sự phát triển nhanh chóng của hệ thống hạ tầng viễn thông trên cả nước.
Quản lý và điều tiết thị trường bán buôn trong kinh doanh viễn thông
Để mở cửa thị trường và thúc đẩy cạnh tranh, Luật Viễn thông 2009 đã có quy định về quyền và nghĩa vụ của các doanh nghiệp có hạ tầng mạng trong việc cho doanh nghiệp viễn thông khác thuê cơ sở hạ tầng viễn thông để cung cấp dịch vụ và đã xuất hiện thị trường bán buôn.
Tuy nhiên do tài nguyên viễn thông là hữu hạn, chi phí đầu tư thiết lập hạ tầng yêu cầu mức đầu tư lớn, chỉ có một số ít doanh nghiệp đủ khả năng thiết lập mạng và cung cấp dịch vụ viễn thông nên sau hơn 10 năm thi hành luật thì 03 doanh nghiệp mạng di động ảo - doanh nghiệp không sở hữu quyền sử dụng tần số đàm phán thành công giá mua buôn lưu lượng (mất đến vài năm). Thị trường mạng di động ảo theo đó không phát triển, dịch vụ cung cấp tới người sử dụng bị hạn chế một phần, chưa thúc đẩy phát triển dịch vụ mới.
Do vậy cần sửa đổi, bổ sung quy định về trách nhiệm của doanh nghiệp sở hữu hạ tầng viễn thông trong việc công bố giá bán buôn lưu lượng, giá cho thuê hạ tầng và bổ sung quy định cơ quan quản lý nhà nước thực hiện công bố giá bán lẻ trung bình trên thị trường để làm giá tham chiếu và nguyên tắc xác định tỷ lệ chênh lệch giữa giá bán buôn - bán lẻ của doanh nghiệp viễn thông có hạ tầng theo thông lệ quốc tế.
Quản lý và phát triển dịch vụ thông tin vệ tinh
Luật Viễn thông 2009 chưa có quy định cụ thể về kinh doanh dịch vụ vệ tinh, mới chỉ nêu nguyên tắc theo các cam kết quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Hiện nay xuất hiện vệ tinh chùm hoàn toàn có đủ khả năng cung cấp dịch vụ viễn thông vào Việt Nam, nếu không có các quy định quản lý đối với loại hình dịch vụ này sẽ tiềm ẩn nguy cơ không đảm an toàn, an ninh trong cung ứng và sử dụng dịch vụ vệ tinh chùm. Bên cạnh đó từ năm 2010 đến nay đã các cam kết quốc tế được ký kết như CPTPP, EVFTA… chưa được nội luật hóa.
Do vậy, cần sửa đổi, bổ sung điều khoản nội luật hóa một số quy định kỹ thuật trong các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên để đảm bảo vấn đề an toàn, an ninh và đưa ra các nguyên tắc chung liên quan đến dịch vụ vệ tinh và giao Chính phủ quy định chi tiết để đảm bảo tính linh hoạt về độ mở cửa thị trường và có sự phân biệt theo loại hình dịch vụ cơ bản hay giá trị gia tăng, cụ thể là bổ sung điều khoản về nguyên tắc quy định nội luật hóa các cam kết quốc tế trong Luật Viễn thông để quy định cụ thể ở Nghị định hướng dẫn. Chính phủ quy định chi tiết việc kinh doanh viễn thông theo các cam kết quốc tế.
Cạnh tranh trong kinh doanh dịch vụ viễn thông
Bên cạnh việc bổ sung, hoàn thiện các quy định về xác định thị trường và cách thức quản lý cạnh tranh trên thị trường viễn thông để từ đó xác định doanh nghiệp thống lĩnh thị trường, có chính sách quản lý doanh nghiệp thống lĩnh thị trường nhất là trên thị trường bán buôn và hoạt động quản lý phù hợp với từng thị trường thì cũng cần bổ sung, hoàn thiện các quy định về khuyến mại chuyên ngành về dịch vụ viễn thông nhất là dịch vụ viễn thông di động.
Đồng thời cũng cần thấy rằng, hiện nay thị trường viễn thông Việt Nam đang có mức độ cạnh tranh khá gay gắt tuy nhiên Luật Viễn thông và các văn bản hướng dẫn quy định quản lý cạnh tranh trong kinh doanh dịch vụ viễn thông chưa rõ ràng về thẩm quyền giữa Bộ Công thương và Bộ TTTT, về thủ tục cũng như quy trình phối hợp giải quyết vụ việc cạnh tranh trong kinh doanh dịch vụ viễn thông, v.v… Do đó cần sớm hoàn thiện và quy định rõ ràng về thẩm quyền giải quyết vụ việc cạnh tranh và quy trình phối hợp với giữa các cơ quan liên quan.
Bổ sung thành phần trung tâm dữ liệu vào cơ sở hạ tầng viễn thông và quy định về quản lý kinh doanh dịch vụ trung tâm dữ liệu
Cần bổ sung quy định quản lý trung tâm dữ liệu theo hướng:
+ Bổ sung khái niệm kinh doanh dịch vụ trung tâm dữ liệu là hoạt động thiết lập trung tâm dữ liệu để cung cấp các dịch vụ nhằm mục đích sinh lợi.
+ Bổ sung các dịch vụ trung tâm dữ liệu gồm các dịch vụ:
(i)Dịch vụ cho thuê máy chủ là dịch vụ cung cấp cho khách hàng máy chủ cùng các thiết bị và cơ sở hạ tầng thông tin sẵn có của trung tâm dữ liệu để sử dụng riêng;
(i) Dịch vụ cho thuê chỗ tại trung tâm dữ liệu là dịch vụ cung cấp không gian cho phép khách hàng tự thiết kế, lắp đặt máy chủ và/hoặc các thiết bị lưu trữ khác;
(i) Dịch vụ cho thuê chỗ lưu trữ dữ liệu là dịch vụ cung cấp không gian lưu trữ cho tổ chức, cá nhân;
(i) Dịch vụ cung cấp hạ tầng (hạ tầng vật lý và hạ tầng ảo) cho điện toán đám mây là dịch vụ cung cấp tài nguyên máy chủ, dung lượng lưu trữ (storage), kết nối mạng (network) và cung cấp cho người dùng khả năng tạo dựng, quản lý và vận hành các ứng dụng).
Bổ sung quy định về kinh doanh dịch vụ trung tâm dữ liệu theo hướng:
+ Luật hóa các thành phần liên quan đến dịch vụ trung tâm dữ liệu: trung tâm dữ liệu, kinh doanh dịch vụ trung tâm dữ liệu, thương nhân kinh doanh dịch vụ trung tâm dữ liệu, kinh doanh lại dịch vụ trung tâm dữ liệu, phân loại các dịch vụ trung tâm dữ liệu, nhằm xác định phạm vi, đối tượng áp dụng của chính sách.
+ Thiết lập các quy định về điều kiện kinh doanh dịch vụ trung tâm dữ liệu nhằm điều chỉnh hoạt động kinh doanh dịch vụ trung tâm dữ liệu và là công cụ giúp cơ quan quản lý nhà nước thực hiện các biện pháp kiểm tra, đánh giá, theo dõi thị trường dịch vụ trung tâm dữ liệu. Đồng thời, thúc đẩy phát triển thị trường dịch vụ trung tâm dữ liệu, bảo đảm chất lượng, an toàn thông tin, dữ liệu của dịch vụ trung tâm dữ liệu.
+ Thiết lập các quy định về các hợp đồng nội dung tối thiểu phải có trong hợp đồng hoặc thỏa thuận cung cấp dịch vụ trung tâm dữ liệu nhằm xác định chủ thể các bên tham gia kinh doanh, sử dụng dịch vụ trung tâm dữ liệu và là công cụ phục vụ công tác quản lý nhà nước.
+ Quy định về quyền và nghĩa vụ của các bên trong quá trình cung cấp, sử dụng dịch vụ trung tâm dữ liệu nhằm xác định rõ nghĩa vụ, trách nhiệm của các bên trong quá trình cung cấp, sử dụng dịch vụ trung tâm dữ liệu.
+ Điều khoản chuyển tiếp: thời hạn chuẩn bị cho các tổ chức, doanh nghiệp triển khai các biện pháp tuân thủ quy định pháp luật nhằm hỗ trợ doanh nghiệp trong quá trình chuẩn bị cập nhật, thực hiện theo quy định chính sách mới.
3.2.2. Hoàn thiện các quy định về cấp phép viễn thông
Hoàn thiện pháp luật về cấp phép kinh doanh dịch vụ viễn thông nhằm
(1) Quy định rõ điều kiện cấp phép phù hợp với từng loại hình hoạt động viễn thông của doanh nghiệp;
(2) Tăng hiệu quả thực thi đối với việc thiết lập mạng có sử dụng tài nguyên tần số; hạn chế tình trạng các doanh nghiệp hoạt động không hiệu quả tham gia thị trường;
(3) Đơn giản hóa thủ tục hành chính trong việc cấp phép cho doanh nghiệp, nâng cao hiệu quả công tác quản lý cấp phép đối với các doanh nghiệp viễn thông có hạ tầng mạng;
(4) Tăng khả năng tiếp cận dịch vụ và bảo vệ quyền lợi của người sử dụng;
(5) Tháo gỡ vướng mắc, khó khăn trong việc cấp phép cho doanh nghiệp thiết lập hạ tầng mạng; nâng cao chất lượng doanh nghiệp gia nhập thị trường.
Mặc dù Luật Viễn thông và các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn quy định khá chi tiết về nguyên tắc, thẩm quyền và điều kiện, quy trình, thủ tục cấp phép viễn thông song các quy định về cấp phép viễn thông cần tiếp tục hoàn thiện, cụ thể:
Thứ nhất, một số điều kiện cấp phép khá chung chung và rất khó định lượng như có đủ khả năng tài chính, tổ chức bộ máy và nhân lực phù hợp với quy mô của dự án hay có phương án kỹ thuật, phương án kinh doanh khả thi phù hợp với chiến lược, quy hoạch phát triển viễn thông quốc gia, các quy định về tài nguyên viễn thông, kết nối, giá cước, tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, chất lượng mạng và dịch vụ viễn thông hoặc có biện pháp bảo đảm an toàn cơ sở hạ tầng viễn thông và an ninh thông tin, v.v... Do đó cần tiếp tục hoàn thiện, quy định rõ ràng, minh bạch hơn các điều kiện cấp phép viễn thông.
Thứ hai, sửa đổi, bổ sung các quy định về điều kiện tài chính, cụ thể là thay vốn pháp định trong điều kiện cấp Giấy phép thiết lập mạng bằng hình thức phù hợp như vốn điều lệ đồng thời sửa đổi quy định cam kết đầu tư bằng tiền thay bằng các cam kết về triển khai mạng lưới, chất lượng dịch vụ.
Thứ ba, pháp luật viễn thông hiện hành có quy định về việc mua bán, chuyển nhượng tài nguyên viễn thông nhưng không quy định rõ về việc liệu doanh nghiệp viễn thông có thể mua, chuyển giao hay bán lại các giấy phép viễn thông cho các công ty khác hay góp vốn bằng giấy phép đó hay không.
Thứ tư, hiện nay các chế tài cho các hành vi vi phạm về cấp phép trong lĩnh vực viễn thông chưa được quy định rõ ràng, đầy đủ điều này làm cho tính hiệu lực, thực thi của pháp luật viễn thông nói chung và quy định về cấp phép viễn thông nói riêng chưa cao.
Theo: Đỗ Xuân Minh
Link luận án: Tại đây