0888889366
Tra cứu thông tin hợp đồng
timeline_post_file64d8f77711174-istockphoto-1427972250-170667a.jpg

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT VIỄN THÔNG

1.2. Những vấn đề lý luận về pháp luật viễn thông

1.2.1. Khái niệm pháp luật viễn thông

Ở cấp độ thứ nhất (theo nghĩa rộng), pháp luật viễn thông gồm nhiều chế định được quy định ở những văn bản pháp luật khác nhau (văn bản quy phạm luật chung) như Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư, Luật Thương mại v.v... cũng như các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. 

Ở cấp độ thứ hai (theo nghĩa hẹp), pháp luật viễn thông là một trong những pháp luật chuyên ngành bao gồm những quy định, chế định trực tiếp điều chỉnh những quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt động viễn thông. 

Trong luận án này, khái niệm pháp luật viễn thông được tiếp cận ở cấp độ thứ hai. Theo cách tiếp cận này, pháp luật viễn thông là tổng hợp các quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt động viễn thông nhằm duy trì, phát triển bền vững và lành mạnh thị trường viễn thông, qua đó bảo vệ lợi ích của các bên tham gia hoạt động viễn thông.

Hoạt động viễn thông (Điều 1 Luật Viễn thông năm 2009) bao gồm các hoạt động đầu tư, kinh doanh viễn thông; viễn thông công ích; quản lý viễn thông; xây dựng công trình viễn thông; quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động viễn thông. 

Như vậy, “Pháp luật viễn thông là tổng hợp các quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt động đầu tư, kinh doanh viễn thông; quản lý viễn thông; xây dựng hạ tầng, công trình viễn thông; quản lý hệ thống thông tin trên các mạng viễn thông; quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động viễn thông”.

1.2.2. Đặc điểm pháp luật viễn thông

Pháp luật viễn thông có 03 đặc điểm chủ yếu sau:

Thứ nhất, pháp luật viễn thông là lĩnh vực pháp luật dịch vụ mà các quy phạm mang tính kỹ thuật chuyên ngành, chuyên môn rất cao. Pháp luật viễn thông có tính đặc thù, riêng biệt, với các quy định có tính chuyên môn, kỹ thuật cao mà không phải ai cũng có thể hiểu và nắm bắt được. Pháp luật viễn thông quy định về tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật nhằm quản lý các đối tượng trong hoạt động kinh tế - xã hội tuân thủ để bảo đảm an toàn cho người sử dụng dịch vụ, bảo vệ lợi ích và an ninh quốc gia, quyền lợi của người tiêu dùng và các yêu cầu thiết yếu khác.

Thứ hai, pháp luật viễn thông là lĩnh vực pháp luật mang tính liên ngành, có mối quan hệ với các lĩnh vực pháp luật khác như: Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp, Luật Sở hữu trí tuệ, Luật Giao dịch điện tử, Luật An ninh mạng, Luật Thương mại… Pháp luật viễn thông gồm 04 nhóm vấn đề lớn: pháp luật về kinh doanh dịch vụ viễn thông; pháp luật về cấp phép viễn thông; pháp luật về kỹ thuật, nghiệp vụ viễn thông và pháp luật về quản lý thông tin trên mạng viễn thông. Những quy định pháp luật này nhằm duy trì, phát triển bền vững và lành mạnh thị trường viễn thông, qua đó bảo vệ lợi ích của các bên tham gia hoạt động viễn thông.

Thứ ba, pháp luật viễn thông là lĩnh vực pháp luật ngày càng được quốc tế hoá nhanh chóng. Với tính chất không biên giới của thông tin, việc quản lý thông tin trên các mạng viễn thông vô cùng khó khăn. Để giải quyết vấn đề này, Việt Nam tham gia các tổ chức quốc tế chuyên ngành thông tin và truyền thống như ITU, APT, ICANN, v.v.. và một số FTA thế hệ mới, trong đó nổi bật là Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương và Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu. Chính vì vậy, pháp luật viễn thông chịu sự ảnh hưởng với các quy định mang tính thông lệ quốc tế, bên cạnh đó, hệ thống viễn thông có mức độ thay đổi công nghệ rất nhanh với sự xuất hiện của nhiều phương thức cung cấp thông tin mới, đặc biệt là mô hình mạng xã hội như Facebook, Tiktok, v.v… đòi hỏi pháp luật viễn thông phải thường xuyên được chỉnh sửa để phù hợp.

1.2.3. Nội dung pháp luật viễn thông

Pháp luật viễn thông bao gồm 04 nội dung sau:

Thứ nhất, các quy định về kinh doanh dịch vụ viễn thông. Quy định kinh doanh dịch vụ viễn thông nằm trong tổng thể các quy định về kinh doanh, chịu ảnh hưởng bởi các học thuyết về quyền tự do kinh doanh, tự do lựa chọn mô hình, quy mô kinh doanh, quyền tự do lựa chọn hình thức, cách thức huy động vốn, quyền tự do hợp đồng, quyền tự do cạnh tranh, tự do lựa chọn cách thức giải quyết tranh chấp. 

Nội dung quy định về kinh doanh dịch vụ viễn thông bao gồm: hình thức kinh doanh viễn thông, quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia hoạt động viễn thông, sở hữu trong kinh doanh viễn thông, đầu tư trong kinh doanh viễn thông, cạnh tranh trong kinh doanh viễn thông, v.v...Trong đó, dựa trên hình thức kinh doanh viễn thông bao gồm kinh doanh dịch vụ viễn thông hoặc kinh doanh hàng hoá viễn thông mà quy định về quyền, nghĩa vụ các bên, quy định về sở hữu trong kinh doanh cũng có những điểm khác biệt.

Thứ hai, các quy định về cấp phép viễn thông. Dịch vụ viễn thông là dịch vụ phức tạp cần thiết phải có sự quản lý, điều tiết hoạt động kinh doanh của Nhà nước. Nhà nước thông qua quy định về điều kiện kinh doanh để kiểm soát, điều chỉnh các hoạt động của doanh nghiệp viễn thông nhằm định hướng sự phát triển viễn thông phù hợp chủ trương, chính sách của quốc gia. Quy định về cấp phép viễn thông gồm các nội dung về nguyên tắc cấp phép trong viễn thông, thẩm quyền, điều kiện, quy trình thủ tục cấp phép viễn thông cũng như các thủ tục gia hạn, sửa đổi, bổ sung, thu hồi giấy phép viễn thông.

Thứ ba, các quy định về kỹ thuật, nghiệp vụ viễn thông. Đây là các quy định mang tính chuyên ngành, đặc thù trong lĩnh vực viễn thông như viễn thông công ích; kết nối, chia sẻ cơ sở hạ tầng viễn thông; tài nguyên viễn thông; giá cước viễn thông; quản lý tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, chất lượng dịch vụ viễn thông và công trình viễn thông, v.v...

Thứ tư, các quy định về quản lý thông tin trên mạng viễn thông và bảo vệ thông tin, dữ liệu người sử dụng dịch vụ viễn thông. Với sự phát triển mạnh của công nghệ thông tin toàn cầu, tính không biên giới của thông tin được lan truyền trên các mạng viễn thông, trong những năm trở lại đây, vấn đề quản lý thông tin ở Việt Nam đang có những diễn biến phức tạp, bên cạnh những thông tin chính thống, thông tin tốt còn rất nhiều thông tin mang tính gián điệp, khủng bố, kích động biểu tình, bạo loạn, thông tin xấu, độc hại tác động vào hoạt động của cả hệ thống chính trị nội bộ, thậm chí can thiệp vào chính sách, pháp luật của quốc gia.

Chính vì vậy nội dung quản lý thông tin trên mạng viễn thông rất phức tạp và đa dạng. Nội dung các quy định đảm bảo các tổ chức cá nhân không đưa thông tin xấu, thông tin có tính kích động, xuyên tạc, vu khống, xúc phạm uy tín của tổ chức, danh dự, nhân phẩm của cá nhân. Đây là nhiệm vụ vô cùng khó khăn của cơ quan quản lý nhà nước nói chung và cơ quan quản lý nhà nước về viễn thông nói riêng.

Theo: Đỗ Xuân Minh

Link luận án: Tại Đây

avatar
Thanh Huyền
853 ngày trước
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT VIỄN THÔNG
1.2. Những vấn đề lý luận về pháp luật viễn thông1.2.1. Khái niệm pháp luật viễn thôngỞ cấp độ thứ nhất (theo nghĩa rộng), pháp luật viễn thông gồm nhiều chế định được quy định ở những văn bản pháp luật khác nhau (văn bản quy phạm luật chung) như Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư, Luật Thương mại v.v... cũng như các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Ở cấp độ thứ hai (theo nghĩa hẹp), pháp luật viễn thông là một trong những pháp luật chuyên ngành bao gồm những quy định, chế định trực tiếp điều chỉnh những quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt động viễn thông. Trong luận án này, khái niệm pháp luật viễn thông được tiếp cận ở cấp độ thứ hai. Theo cách tiếp cận này, pháp luật viễn thông là tổng hợp các quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt động viễn thông nhằm duy trì, phát triển bền vững và lành mạnh thị trường viễn thông, qua đó bảo vệ lợi ích của các bên tham gia hoạt động viễn thông.Hoạt động viễn thông (Điều 1 Luật Viễn thông năm 2009) bao gồm các hoạt động đầu tư, kinh doanh viễn thông; viễn thông công ích; quản lý viễn thông; xây dựng công trình viễn thông; quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động viễn thông. Như vậy, “Pháp luật viễn thông là tổng hợp các quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt động đầu tư, kinh doanh viễn thông; quản lý viễn thông; xây dựng hạ tầng, công trình viễn thông; quản lý hệ thống thông tin trên các mạng viễn thông; quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động viễn thông”.1.2.2. Đặc điểm pháp luật viễn thôngPháp luật viễn thông có 03 đặc điểm chủ yếu sau:Thứ nhất, pháp luật viễn thông là lĩnh vực pháp luật dịch vụ mà các quy phạm mang tính kỹ thuật chuyên ngành, chuyên môn rất cao. Pháp luật viễn thông có tính đặc thù, riêng biệt, với các quy định có tính chuyên môn, kỹ thuật cao mà không phải ai cũng có thể hiểu và nắm bắt được. Pháp luật viễn thông quy định về tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật nhằm quản lý các đối tượng trong hoạt động kinh tế - xã hội tuân thủ để bảo đảm an toàn cho người sử dụng dịch vụ, bảo vệ lợi ích và an ninh quốc gia, quyền lợi của người tiêu dùng và các yêu cầu thiết yếu khác.Thứ hai, pháp luật viễn thông là lĩnh vực pháp luật mang tính liên ngành, có mối quan hệ với các lĩnh vực pháp luật khác như: Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp, Luật Sở hữu trí tuệ, Luật Giao dịch điện tử, Luật An ninh mạng, Luật Thương mại… Pháp luật viễn thông gồm 04 nhóm vấn đề lớn: pháp luật về kinh doanh dịch vụ viễn thông; pháp luật về cấp phép viễn thông; pháp luật về kỹ thuật, nghiệp vụ viễn thông và pháp luật về quản lý thông tin trên mạng viễn thông. Những quy định pháp luật này nhằm duy trì, phát triển bền vững và lành mạnh thị trường viễn thông, qua đó bảo vệ lợi ích của các bên tham gia hoạt động viễn thông.Thứ ba, pháp luật viễn thông là lĩnh vực pháp luật ngày càng được quốc tế hoá nhanh chóng. Với tính chất không biên giới của thông tin, việc quản lý thông tin trên các mạng viễn thông vô cùng khó khăn. Để giải quyết vấn đề này, Việt Nam tham gia các tổ chức quốc tế chuyên ngành thông tin và truyền thống như ITU, APT, ICANN, v.v.. và một số FTA thế hệ mới, trong đó nổi bật là Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương và Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu. Chính vì vậy, pháp luật viễn thông chịu sự ảnh hưởng với các quy định mang tính thông lệ quốc tế, bên cạnh đó, hệ thống viễn thông có mức độ thay đổi công nghệ rất nhanh với sự xuất hiện của nhiều phương thức cung cấp thông tin mới, đặc biệt là mô hình mạng xã hội như Facebook, Tiktok, v.v… đòi hỏi pháp luật viễn thông phải thường xuyên được chỉnh sửa để phù hợp.1.2.3. Nội dung pháp luật viễn thôngPháp luật viễn thông bao gồm 04 nội dung sau:Thứ nhất, các quy định về kinh doanh dịch vụ viễn thông. Quy định kinh doanh dịch vụ viễn thông nằm trong tổng thể các quy định về kinh doanh, chịu ảnh hưởng bởi các học thuyết về quyền tự do kinh doanh, tự do lựa chọn mô hình, quy mô kinh doanh, quyền tự do lựa chọn hình thức, cách thức huy động vốn, quyền tự do hợp đồng, quyền tự do cạnh tranh, tự do lựa chọn cách thức giải quyết tranh chấp. Nội dung quy định về kinh doanh dịch vụ viễn thông bao gồm: hình thức kinh doanh viễn thông, quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia hoạt động viễn thông, sở hữu trong kinh doanh viễn thông, đầu tư trong kinh doanh viễn thông, cạnh tranh trong kinh doanh viễn thông, v.v...Trong đó, dựa trên hình thức kinh doanh viễn thông bao gồm kinh doanh dịch vụ viễn thông hoặc kinh doanh hàng hoá viễn thông mà quy định về quyền, nghĩa vụ các bên, quy định về sở hữu trong kinh doanh cũng có những điểm khác biệt.Thứ hai, các quy định về cấp phép viễn thông. Dịch vụ viễn thông là dịch vụ phức tạp cần thiết phải có sự quản lý, điều tiết hoạt động kinh doanh của Nhà nước. Nhà nước thông qua quy định về điều kiện kinh doanh để kiểm soát, điều chỉnh các hoạt động của doanh nghiệp viễn thông nhằm định hướng sự phát triển viễn thông phù hợp chủ trương, chính sách của quốc gia. Quy định về cấp phép viễn thông gồm các nội dung về nguyên tắc cấp phép trong viễn thông, thẩm quyền, điều kiện, quy trình thủ tục cấp phép viễn thông cũng như các thủ tục gia hạn, sửa đổi, bổ sung, thu hồi giấy phép viễn thông.Thứ ba, các quy định về kỹ thuật, nghiệp vụ viễn thông. Đây là các quy định mang tính chuyên ngành, đặc thù trong lĩnh vực viễn thông như viễn thông công ích; kết nối, chia sẻ cơ sở hạ tầng viễn thông; tài nguyên viễn thông; giá cước viễn thông; quản lý tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, chất lượng dịch vụ viễn thông và công trình viễn thông, v.v...Thứ tư, các quy định về quản lý thông tin trên mạng viễn thông và bảo vệ thông tin, dữ liệu người sử dụng dịch vụ viễn thông. Với sự phát triển mạnh của công nghệ thông tin toàn cầu, tính không biên giới của thông tin được lan truyền trên các mạng viễn thông, trong những năm trở lại đây, vấn đề quản lý thông tin ở Việt Nam đang có những diễn biến phức tạp, bên cạnh những thông tin chính thống, thông tin tốt còn rất nhiều thông tin mang tính gián điệp, khủng bố, kích động biểu tình, bạo loạn, thông tin xấu, độc hại tác động vào hoạt động của cả hệ thống chính trị nội bộ, thậm chí can thiệp vào chính sách, pháp luật của quốc gia.Chính vì vậy nội dung quản lý thông tin trên mạng viễn thông rất phức tạp và đa dạng. Nội dung các quy định đảm bảo các tổ chức cá nhân không đưa thông tin xấu, thông tin có tính kích động, xuyên tạc, vu khống, xúc phạm uy tín của tổ chức, danh dự, nhân phẩm của cá nhân. Đây là nhiệm vụ vô cùng khó khăn của cơ quan quản lý nhà nước nói chung và cơ quan quản lý nhà nước về viễn thông nói riêng.Theo: Đỗ Xuân MinhLink luận án: Tại Đây