0888889366
Tra cứu thông tin hợp đồng
timeline_post_file64dafff32df3f-photo-1436450412740-6b988f486c6b.jpg

Nghĩa vụ “hài hòa hóa” với các tiêu chuẩn quốc tế của vệ sinh an toàn thực phẩm

3.1.2. Nghĩa vụ “hài hòa hóa” với các tiêu chuẩn quốc tế 

3.1.2.1. Các biện pháp vệ sinh an toàn thực phẩm dựa trên và tuân thủ các tiêu chuẩn quốc tế 

a. Các biện pháp vệ sinh an toàn thực phẩm dựa trên các tiêu chuẩn quốc tế 

Lựa chọn đầu tiên cho các Thành viên, theo Điều 3.1 Hiệp định SPS, là ban hành các biện pháp SPS của họ dựa trên các tiêu chuẩn, hướng dẫn hoặc khuyến nghị quốc tế. Câu hỏi đặt ra là liệu điều này có yêu cầu các Thành viên phải “tuân thủ” các tiêu chuẩn của họ theo các tiêu chuẩn quốc tế (như đã được nhận định trong Ban hội thẩm trong vụ tranh chấp EC - Hormones) hay không? Trong tranh chấp EC – Hormones, Ban hội thẩm tiếp tục tuyên bố rằng nếu “dựa trên” (based on) một tiêu chuẩn quốc tế, biện pháp phải đạt được mức độ bảo vệ tương đương với tiêu chuẩn đó, một kết luận được cho là ngụ ý trong Điều 3.3 Hiệp định SPS.

AB bác bỏ nhận định trên của Ban hội thẩm và cho rằng ý nghĩa đơn giản của các thuật ngữ “dựa trên” và “tuân thủ” là khác nhau. “Dựa trên” là dựa vào “quan điểm” khác hoặc có “nền tảng” hoặc “xây dựng” hoặc “được hỗ trợ bởi” các hướng dẫn, khuyến nghị, tiêu chuẩn quốc tế.315 Ngược lại, AB nhận định rằng “tuân thủ” đòi hỏi nhiều hơn, đó là các biện pháp SPS “tuân thủ với”, “từ bỏ hoặc thể hiện sự tuân thủ” với các hướng dẫn, khuyến nghị, tiêu chuẩn quốc tế với điều kiện hoặc tương ứng “theo hình thức hoặc cách thức”, hoặc theo “hình thức hoặc tính chất” mà tiêu chuẩn, hướng dẫn, khuyến nghị quốc tế thể hiện. AB tiếp tục nhận định: “Một biện pháp “tuân thủ” và kết hợp một tiêu chuẩn Codex là, tất nhiên, “dựa trên” tiêu chuẩn đó. Tuy nhiên, một biện pháp “dựa trên” cùng một tiêu chuẩn có thể không “tuân thủ” với tiêu chuẩn đó, vì chỉ có một phần của các yếu tố của tiêu chuẩn mới được đưa vào biện pháp này.”

            AB lưu ý thực tế là 2 thuật ngữ được sử dụng trong các điều khoản khác nhau nên nhằm mục đích khác nhau. AB cũng chỉ ra rằng giải thích của Ban hội thẩm là trái với mục tiêu của Điều 3.1 Hiệp định SPS, đó là “hài hòa hóa các biện pháp SPS trên phạm vi rộng nhất có thể”.

 Bên cạnh việc nhận định yêu cầu biện pháp SPS “dựa trên” một tiêu chuẩn quốc tế không phải là tương đương với yêu cầu phải “tuân thủ” một tiêu chuẩn quốc tế đó, AB đã làm rõ thêm rằng một biện pháp “dựa trên” tiêu chuẩn quốc tế “có thể áp dụng một số, không nhất thiết phải tất cả, các yếu tố của tiêu chuẩn quốc tế.” Mối quan hệ được yêu cầu giữa biện pháp SPS và tiêu chuẩn quốc tế để biện pháp “dựa trên” tiêu chuẩn này vẫn chưa rõ ràng. Để được coi là “dựa trên” một tiêu chuẩn quốc tế, biện pháp SPS  phải không chỉ ban hành ít nhất một số yếu tố của tiêu chuẩn quốc tế mà còn dẫn đến cùng một mức độ bảo vệ.321 

 Giải thích do AB đưa ra trong vụ tranh chấp EC - Hormones đã làm rõ rằng lệnh cấm EC rõ ràng không dựa trên các tiêu chuẩn CAC đã có vì không chấp nhận bất kỳ yếu tố nào của các tiêu chuẩn CAC. Như đã nêu ở trên, CAC đã không quy định về ADIs hoặc MRLs cho bất kỳ hormone tự nhiên nào liên quan, điều này không cần thiết vì CAC đã xác định chúng là an toàn khi sử dụng phù hợp với thực hành thú y tốt và đã ấn định một số ADIs và MRLs cho 2 loại hormone tổng hợp. AB tiếp tục phân tích biện pháp của EC theo yêu cầu của Điều 3.3 Hiệp định SPS đối với các biện pháp không “dựa trên” các tiêu chuẩn quốc tế.

 Câu hỏi đặt ra là sẽ có những hậu quả gì khi lựa chọn theo Điều 3.1 Hiệp định SPS. AB đã làm rõ những hậu quả này. Theo Điều 3.1 Hiệp định SPS, một Thành viên có thể lựa chọn để thiết lập một biện pháp SPS “dựa trên” tiêu chuẩn quốc tế liên quan đang có hiệu lực. Thành viên áp dụng biện pháp này không được hưởng lợi từ giả định tính phù hợp được quy định tại Điều 3.2 Hiệp định SPS; nhưng Thành viên khiếu nại vẫn chịu trách nhiệm chứng minh, bằng cách chứng tỏ một tình huống vi phạm hiển nhiên với Điều 3.1 Hiệp định SPS hoặc bất kỳ điều khoản liên quan khác của Hiệp định SPS hoặc của GATT 1994.

 David R. Hurst lập luận một biện pháp “dựa trên” tiêu chuẩn quốc tế sẽ được coi là tự động “dựa trên” đánh giá rủi ro (theo tiêu chuẩn do cơ quan thiết lập tiêu chuẩn quốc tế có liên quan thiết lập), biện pháp này nên được coi là phù hợp với Điều 5.1 - 5.3 Hiệp định SPS. Do đó, việc đánh giá xem liệu các yêu cầu nghiêm ngặt đối với đánh giá rủi ro đã được đáp ứng hay không là không cần thiết. Mặc dù không cung cấp “nơi trú ẩn an toàn” cho các biện pháp SPS (như trường hợp của Điều 3.2 Hiệp định SPS), lựa chọn theo Điều 3.1 Hiệp định SPS có thể tránh các biện pháp SPS “dựa trên” các tiêu chuẩn, hướng dẫn, khuyến nghị quốc tế khỏi các yêu cầu khoa học nghiêm ngặt của Hiệp định. Điều này phù hợp với yêu cầu trong Điều 3.3 Hiệp định SPS về sự biện minh khoa học đối với các biện pháp SPS không “dựa trên” các tiêu chuẩn quốc tế. Các biện pháp SPS “dựa trên” các tiêu chuẩn quốc tế liên quan sẽ chỉ dễ bị cáo buộc vi phạm bởi các phản đối liên quan đến thương mại, chẳng hạn như các yêu cầu không phân biệt và tính cần thiết của Hiệp định, và các quy tắc về thủ tục.Cách tiếp cận này của David R. Hurst được hỗ trợ một phần bởi những nhận định của các Ban hội thẩm trong vụ tranh chấp Hoa Kỳ - Tiếp tục đình chỉCanada - Tiếp tục đình chỉ

Do đó, một Thành viên ban hành các biện pháp SPS của mình chỉ “dựa trên” các tiêu chuẩn, hướng dẫn, khuyến nghị quốc tế, mà không “tuân thủ” các quy định này thì không được hưởng giả định các biện pháp của mình tuân thủ với Hiệp định SPS và GATT 1994, nhưng cũng không chịu thêm sự bất lợi nào từ nghĩa vụ chứng minh khi có Thành viên WTO khác khởi kiện biện pháp tại cơ quan giải quyết tranh chấp WTO. Theo tác giả, cách giải thích trên của AB là hợp lý vì cần có lợi thế cho một Thành viên lựa chọn phương án “dựa trên” thay vì ban hành biện pháp SPS cao hơn các tiêu chuẩn, hướng dẫn, khuyến nghị quốc tế (theo Điều 3.3 Hiệp định SPS).  

b.Các biện pháp vệ sinh an toàn thực phẩm tuân thủ các tiêu chuẩn quốc tế 

 Lựa chọn thứ hai của một Thành viên là ban hành một biện pháp SPS “tuân thủ” với tiêu chuẩn, hướng dẫn hoặc khuyến nghị quốc tế có liên quan theo Điều 3.2 Hiệp định SPS. Do đó cần phải xem xét những yêu cầu cần thiết để một biện pháp “tuân thủ với” (conforms to) một tiêu chuẩn quốc tế. Vấn đề này đã được AB trong vụ tranh chấp EC - Hormones. AB cho rằng “một biện pháp sẽ thể hiện được tiêu chuẩn quốc tế một cách hoàn chỉnh và, vì mục đích thực tiễn, biến nó thành một tiêu chuẩn riêng của quốc gia.” Biện pháp này do đó phải thể hiện đầy đủ tiêu chuẩn quốc tế. Điều này dường như có nghĩa là các biện pháp và tiêu chuẩn quốc tế phải giống hệt nhau ở cả hình thức và mức độ bảo vệ hướng đến. 

 Hiệp định SPS thúc đẩy các biện pháp “tuân thủ” các tiêu chuẩn, hướng dẫn, khuyến nghị quốc tế bằng cách xem các biện pháp này là cần thiết để bảo vệ cuộc sống hoặc sức khỏe con người, động vật hoặc thực vật và bằng cách giả định phù hợp với Hiệp định SPS và GATT 1994. Trong vụ EC – Hormones, AB đề cập các hệ quả của giả định tính phù hợp theo Điều 3.2 Hiệp định SPS, “Việc giả định tính phù hợp với các quy định liên quan của Hiệp định SPS phát sinh theo Điều 3.2 đối với các biện pháp “tuân thủ với” các tiêu chuẩn quốc tế có thể là động cơ khuyến khích các Thành viên thực hiện các biện pháp SPS của họ với các tiêu chuẩn đó.

 Đáng lưu ý là trong EC - Hormones AB cho rằng giả định về sự tuân thủ theo Điều 3.2 Hiệp định SPS có thể bị bác bỏ. AB tuyên bố: “Một biện pháp như vậy được hưởng lợi từ một giả định (mặc dù có thể bác bỏ) rằng nó phù hợp với các điều khoản liên quan của Hiệp định SPS và GATT 1994”. Theo tác giả, nhận định của AB đã lấy đi nhiều lợi thế cho các biện pháp tuân thủ với các tiêu chuẩn quốc tế. Điều này sẽ không có ý nghĩa thúc đẩy sự hài hòa, trái với mục tiêu rõ ràng của Hiệp định SPS là “tiếp tục sử dụng các biện pháp kiểm dịch động - thực vật giữa các Thành viên, dựa trên các tiêu chuẩn quốc tế ...”.

3.1.2.2. Các biện pháp vệ sinh an toàn thực phẩm có mức bảo vệ cao hơn các tiêu chuẩn quốc tế 

 Lựa chọn thứ ba dành cho các Thành viên là ban hành các biện pháp SPS cung cấp mức độ bảo vệ cao hơn các biện pháp “dựa trên” các tiêu chuẩn có liên quan. Quy định này thừa nhận quyền của các Thành viên lựa chọn mức độ bảo vệ riêng của họ. Điều này được thể hiện rõ ràng trong tuyên bố đầu tiên, đoạn 6 Hiệp định SPS cho thấy “không yêu cầu các Thành viên thay đổi mức độ bảo vệ thích hợp đối với cuộc sống và sức khỏe con người, động vật hoặc thực vật”. 

 Trong vụ tranh chấp EC - Hormones, Ban hội thẩm xem Điều 3.3 Hiệp định SPS là “ngoại lệ đối với nghĩa vụ chung trong Điều 3.1 Hiệp định SPS.” Vì vậy, Ban hội thẩm nêu rõ nếu một nguyên đơn cho thấy một tiêu chuẩn quốc tế có liên quan tồn tại và biện pháp SPS tranh chấp không “dựa trên” tiêu chuẩn quốc tế, gánh nặng chứng minh chuyển sang bị đơn để chứng minh rằng Thành viên này đã đáp ứng các yêu cầu của Điều 3.3. Trong vụ tranh chấp EC – Hormones, AB đã làm rõ mối quan hệ giữa Điều 3.3 và Điều 3.1 và 3.2 Hiệp định SPS như sau: 

Dường như Ban hội thẩm hiểu sai mối quan hệ giữa các Điều 3.1, 3.2 và 3.3 Hiệp định SPS, ... khác biệt định tính so với mối quan hệ giữa, ví dụ, các Điều I hoặc III và Điều XX của GATT 1994. Điều 3.1 của Hiệp định SPS đơn giản loại trừ khỏi phạm vi áp dụng các loại tình huống được quy định tại Điều 3.3 của Hiệp định đó, tức là khi một Thành viên dự kiến cho mình một mức độ bảo vệ vệ sinh cao hơn mức đạt được bằng một biện pháp “dựa trên” một tiêu chuẩn quốc tế.”

 Điều quan trọng là AB đã nhận định trong vụ tranh chấp EC - Hormones rằng “quyền của một Thành viên để thiết lập mức bảo vệ riêng theo Điều 3.3 Hiệp định SPS là một quyền tự chủ và không phải là “ngoại lệ” từ “nghĩa vụ chung” theo Điều 3.1”. Theo tác giả, giải thích của AB phù hợp với cách tiếp cận của Hiệp định SPS mình cho đến thời điểm đó như một quốc gia khác đã nộp đơn khiếu nại và thành lập một trường hợp phù hợp. Như vậy, không có gánh nặng ban đầu dựa trên quy định. (Xem Joanne Scott (2004), “International Trade and Environmental Governance: Relating Rules (and Standards) in the EU and the WTO”, European Journal of International Law 15, tr. 310) là tôn trọng quyền của một Thành viên lựa chọn mức độ bảo vệ phù hợp với các ưu tiên chính sách của họ. 

 Tuy nhiên, AB công nhận, quyền của một Thành viên để xác định mức độ bảo vệ riêng của mình không phải là một “quyền tuyệt đối hoặc vô điều kiện” (absolute or unqualified right). Thay vào đó, Điều 3.3 Hiệp định SPS đưa ra 2 điều kiện liên quan đến khoa học. Hoặc phải có sự biện minh khoa học đối với các biện pháp, hoặc phải là kết quả của mức độ bảo vệ cao hơn do Thành viên chọn theo Điều 5.1 - 5.8 Hiệp định SPS. Trong cả 2 trường hợp, các biện pháp phải phù hợp với tất cả các điều khoản khác của Hiệp định SPS. Chú thích Điều 3.3 Hiệp định SPS đã làm rõ rằng có một “sự biện minh khoa học” (scientific justification) tồn tại: 

“... Nếu trên cơ sở kiểm tra và đánh giá các thông tin khoa học sẵn có phù hợp với các quy định liên quan của Hiệp định này, một Thành viên xác định rằng các tiêu chuẩn, hướng dẫn hoặc khuyến nghị quốc tế có liên quan không đủ để đạt được mức độ thích hợp của bảo vệ vệ sinh động - thực vật”.

 Sự khác biệt trong Điều 3.3 Hiệp định SPS giữa 2 tình huống có thể tạo ra các vấn đề về giải thích. Trong vụ tranh chấp EC - Hormones, EC đã lập luận rằng có “sự biện minh khoa học” cho các biện pháp của mình, vì vậy EC không cần phải phù hợp với Điều 5.1 - 5.8 Hiệp định SPS, mà yêu cầu này chỉ được đặt cho tình huống thứ hai. AB cho rằng sự khác biệt giữa 2 tình huống được xác định trong Điều 3.3 Hiệp định SPS. Trong thực tế, cả 2 tình huống đòi hỏi một đánh giá rủi ro phù hợp với Điều 5 Hiệp định SPS. AB nhận định như sau: 

Việc sử dụng các phân biệt hoặc chỉ ra rằng 2 tình huống được dự định. Đó là việc xây dựng hoặc duy trì các biện pháp SPS dẫn đến mức độ bảo vệ cao hơn: 

(a) “Nếu có một sự biện minh khoa học”; Hoặc (b) “như một hệ quả của mức độ ... bảo vệ mà Thành viên xác định phù hợp với các quy định tương ứng của các khoản từ 1 đến 8 của Điều 5”. 

Đúng là tình huống (a) không nói đến các Điều từ 5.1 đến 5.8 Hiệp định SPS. Tuy nhiên, cần lưu ý 2 điểm. Thứ nhất, câu cuối cùng của Điều 3.3 yêu cầu “tất cả các biện pháp dẫn đến mức bảo vệ ... mức cao hơn” nghĩa là các biện pháp thuộc tình huống (a) cũng như những vấn đề nằm trong tình huống (b) , “không trái với các điều khoản khác của Hiệp định SPS”. “Bất kỳ điều khoản nào khác của Hiệp định này” bao gồm Điều 5. Thứ hai, chú thích cho Điều 3.3 Hiệp định SPS, khi gắn liền với câu cuối, định nghĩa “sự biện minh khoa học” như là một “kiểm tra và đánh giá các thông tin khoa học hiện có phù hợp với các quy định có liên quan các điều khoản của Hiệp định này ...”. Việc kiểm tra và đánh giá này dường như tham gia vào bản chất của đánh giá rủi ro được yêu cầu trong Điều 5.1 Hiệp định SPS và được định nghĩa trong đoạn 4, Phụ lục A Hiệp định SPS.”

 Trong vụ Nhật Bản - Các sản phẩm nông nghiệp II, AB lại phải đối mặt với câu hỏi về những gì Thành viên cần phải trình bày khi tuyên bố có “biện minh khoa học” cho một biện pháp có mức bảo vệ cao hơn các tiêu chuẩn, hướng dẫn, khuyến nghị quốc tế. AB nhận định như sau: “Theo chúng tôi, có một “biện minh khoa học” đối với một biện pháp SPS, theo nghĩa của Điều 3.3, nếu có một mối quan hệ hợp lý giữa biện pháp SPS và thông tin khoa học sẵn có.”Nhận định này làm rõ mối quan hệ bắt buộc giữa biện pháp SPS và thông tin khoa học (dưới hình thức đánh giá rủi ro).

3.1.2.3. Các biện pháp vệ sinh an toàn thực phẩm có mức bảo vệ thấp hơn các tiêu chuẩn quốc tế 

 Các biện pháp không “dựa trên” các tiêu chuẩn quốc tế không gồm các biện pháp có mức bảo vệ cao hơn các tiêu chuẩn, hướng dẫn, khuyến nghị quốc tế; mà cả những biện pháp SPS cung cấp một mức độ bảo vệ thấp hơn. Tuy nhiên, Điều 3 Hiệp định SPS không giải quyết rõ ràng tình huống này. Điều 3.1 Hiệp định SPS yêu cầu một Thành viên ban hành các biện pháp “dựa trên” các tiêu chuẩn quốc tế, tức là đạt được cùng một mức độ bảo vệ, trừ khi được quy định tại Điều 3.3 Hiệp định SPS. Điều 3.3 Hiệp định SPS cho phép các biện pháp SPS tạo ra mức độ bảo vệ cao hơn trong điều kiện nhất định. Do đó, dường như Điều 3 yêu cầu các Thành viên phải duy trì mức bảo vệ SPS tối thiểu được phản ánh trong các tiêu chuẩn quốc tế có liên quan, đồng thời cho phép mức độ bảo vệ cao hơn nhưng không nói đến mức bảo vệ thấp hơn.

  Do đó, vấn đề được đặt ra liệu Điều 3 Hiệp định SPS có sử dụng các tiêu chuẩn quốc tế “chỉ như là một công cụ để nới lỏng các quy định quốc gia vượt xa các tiêu chuẩn quốc tế ... hay những tiêu chuẩn đó có thể được viện dẫn để thắt chặt các quy định của quốc gia đối với các nước có mức độ thấp hơn mức tối thiểu tiêu chuẩn quốc tế”.[31] Nói cách khác, các tiêu chuẩn quốc tế chỉ được coi như là một mức trần mà các biện pháp SPS sẽ cần có sự biện minh khoa học hay chúng cũng là một mức sàn mà không có biện pháp nào có thể cung cấp mức bảo vệ dưới mức của các tiêu chuẩn, hướng dẫn, khuyến nghị có liên quan? 

 Việc thúc đẩy mức bảo vệ sức khỏe tối thiểu là điều cần thiết đặc biệt trong bối cảnh “khủng hoảng” an toàn thực phẩm như hiện nay, vì sức khỏe, tính mạng con người luôn là tài sản vô giá, không có gì có thể đánh đổi (kể cả lợi ích kinh tế). Tuy nhiên, nếu Điều 3 Hiệp định SPS yêu cầu mức tối thiểu về bảo vệ SPS ở tất cả các Thành viên “dựa trên” các tiêu chuẩn quốc tế thì sẽ có những vấn đề về tính hợp pháp của các tiêu chuẩn quốc tế được sử dụng cho mục đích này và vai trò của WTO trong việc yêu cầu tuân thủ. 

Một số học giả cho rằng nếu hiểu Điều 3 Hiệp định SPS theo cách các tiêu chuẩn, hướng dẫn, khuyến nghị quốc tế đặt ra mức sàn trong việc bảo vệ sức khỏe thì việc nhằm đạt được mục tiêu này thông qua WTO (đặc biệt là Hiệp định SPS) có thể dẫn đến các kết quả không mong muốn. Bởi vì, nhiệm vụ của WTO chỉ giới hạn ở các nguyên tắc liên quan đến các rào cản thương mại và không mở rộng tới việc thúc đẩy trực tiếp các mục tiêu y tế, sức khỏe. Nhiệm vụ này là để các tổ chức quốc tế khác thiết lập cho mục đích này, chẳng hạn như Tổ chức Y tế thế giới. 

Tuy nhiên, các tổ chức nhân quyền thuộc Liên hợp quốc đòi hỏi phải có các nguyên tắc và nghĩa vụ về quyền con người (bao gồm cả quyền được chăm sóc sức khỏe) trong các cuộc đàm phán trong tương lai của WTO. Các học giả đã chỉ ra rằng WTO không nên duy trì lý thuyết rằng chính sách thương mại không liên quan đến nhân quyền, mà thay vào đó chấp nhận chính sách thương mại bị ràng buộc bởi các  chuẩn, hướng dẫn hoặc khuyến nghị quốc tế sẽ không không phù hợp với bất kỳ điều khoản nào khác của Hiệp định này”. Việc tham chiếu đến các biện pháp SPS dẫn đến một mức độ bảo hộ khác với các tiêu chuẩn quốc tế không hạn chế mức độ bảo vệ cao hơn nhưng bao gồm các biện pháp dẫn đến mức độ bảo vệ thấp hơn, do đó ngầm thừa nhận khả năng này. 

nguyên tắc và nghĩa vụ cơ bản về nhân quyền phát sinh từ các nghĩa vụ ràng buộc pháp luật về quyền con người của các Thành viên WTO. Điều này đòi hỏi,  trong việc thực hiện nhiệm vụ của mình, WTO cần phải có đầy đủ các mối liên quan đến quyền con người, bao gồm quyền phát triển, quyền được chăm sóc sức khỏe và quyền được cung cấp thực phẩm an toàn. Điều này không có nghĩa là WTO nên vượt quá nhiệm vụ của mình và trở thành cơ quan quản lý SPS toàn cầu.Thay vào đó, các quy định của WTO, trong phạm vi thẩm quyền, phải là áp dụng theo một cách góp phần bảo vệ chứ không làm suy yếu nhân quyền. Mục tiêu này được phản ánh trong cách tiếp cận thận trọng của Hiệp định SPS đối với không gian chính sách của các Thành viên, trong đó khuyến khích hài hòa hóa trong việc bảo vệ SPS, đồng thời thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thông qua thương mại. 

 Pauwelyn lưu ý rằng việc xem xét các tiêu chuẩn quốc tế theo các tiêu chuẩn tối thiểu bắt buộc sẽ có “kết quả kỳ quặc” (odd result) rằng WTO sẽ yêu cầu một bị đơn hạn chế thương mại hơn nữa (tức là áp dụng các yêu cầu SPS nghiêm ngặt hơn). Thật khó để tưởng tượng một Thành viên phản đối một bên khác trong một diễn đàn thương mại về mức bảo vệ sức khỏe quá thấp đối với công dân của mình, một tình huống có thể không có những ảnh hưởng tiêu cực đến thương mại của các Thành viên khác. Ngoài ra, cần lưu ý rằng AB trong vụ tranh chấp EC - Hormones đã bác bỏ cách giải thích của Ban hội thẩm theo Điều 3.1 Hiệp định SPS theo cách các tiêu chuẩn quốc tế có tính ràng buộc.Ngoài ra, cần lưu ý rằng sự tôn trọng quyền tự chủ của các Thành viên được thể hiện trong các điều khoản về hài hòa hóa trong Hiệp định SPS, bằng cách không yêu cầu họ thay đổi mức độ bảo vệ thích hợp của họ (mức bảo vệ này không giới hạn ở những thay đổi dưới mức của các tiêu chuẩn, hướng dẫn, khuyến nghị quốc tế).352 Do đó, có thể kết luận rằng Điều 3 Hiệp định SPS không áp đặt mức bảo vệ SPS tối thiểu đối với các Thành viên WTO dựa trên các tiêu chuẩn quốc tế. 
 

Theo Nguyễn Thị Thu Thảo

Link: Tại đây

avatar
Lã Thị Ái Vi
851 ngày trước
Nghĩa vụ “hài hòa hóa” với các tiêu chuẩn quốc tế của vệ sinh an toàn thực phẩm
3.1.2. Nghĩa vụ “hài hòa hóa” với các tiêu chuẩn quốc tế 3.1.2.1. Các biện pháp vệ sinh an toàn thực phẩm dựa trên và tuân thủ các tiêu chuẩn quốc tế a. Các biện pháp vệ sinh an toàn thực phẩm dựa trên các tiêu chuẩn quốc tế Lựa chọn đầu tiên cho các Thành viên, theo Điều 3.1 Hiệp định SPS, là ban hành các biện pháp SPS của họ dựa trên các tiêu chuẩn, hướng dẫn hoặc khuyến nghị quốc tế. Câu hỏi đặt ra là liệu điều này có yêu cầu các Thành viên phải “tuân thủ” các tiêu chuẩn của họ theo các tiêu chuẩn quốc tế (như đã được nhận định trong Ban hội thẩm trong vụ tranh chấp EC - Hormones) hay không? Trong tranh chấp EC – Hormones, Ban hội thẩm tiếp tục tuyên bố rằng nếu “dựa trên” (based on) một tiêu chuẩn quốc tế, biện pháp phải đạt được mức độ bảo vệ tương đương với tiêu chuẩn đó, một kết luận được cho là ngụ ý trong Điều 3.3 Hiệp định SPS.AB bác bỏ nhận định trên của Ban hội thẩm và cho rằng ý nghĩa đơn giản của các thuật ngữ “dựa trên” và “tuân thủ” là khác nhau. “Dựa trên” là dựa vào “quan điểm” khác hoặc có “nền tảng” hoặc “xây dựng” hoặc “được hỗ trợ bởi” các hướng dẫn, khuyến nghị, tiêu chuẩn quốc tế.315 Ngược lại, AB nhận định rằng “tuân thủ” đòi hỏi nhiều hơn, đó là các biện pháp SPS “tuân thủ với”, “từ bỏ hoặc thể hiện sự tuân thủ” với các hướng dẫn, khuyến nghị, tiêu chuẩn quốc tế với điều kiện hoặc tương ứng “theo hình thức hoặc cách thức”, hoặc theo “hình thức hoặc tính chất” mà tiêu chuẩn, hướng dẫn, khuyến nghị quốc tế thể hiện. AB tiếp tục nhận định: “Một biện pháp “tuân thủ” và kết hợp một tiêu chuẩn Codex là, tất nhiên, “dựa trên” tiêu chuẩn đó. Tuy nhiên, một biện pháp “dựa trên” cùng một tiêu chuẩn có thể không “tuân thủ” với tiêu chuẩn đó, vì chỉ có một phần của các yếu tố của tiêu chuẩn mới được đưa vào biện pháp này.”            AB lưu ý thực tế là 2 thuật ngữ được sử dụng trong các điều khoản khác nhau nên nhằm mục đích khác nhau. AB cũng chỉ ra rằng giải thích của Ban hội thẩm là trái với mục tiêu của Điều 3.1 Hiệp định SPS, đó là “hài hòa hóa các biện pháp SPS trên phạm vi rộng nhất có thể”. Bên cạnh việc nhận định yêu cầu biện pháp SPS “dựa trên” một tiêu chuẩn quốc tế không phải là tương đương với yêu cầu phải “tuân thủ” một tiêu chuẩn quốc tế đó, AB đã làm rõ thêm rằng một biện pháp “dựa trên” tiêu chuẩn quốc tế “có thể áp dụng một số, không nhất thiết phải tất cả, các yếu tố của tiêu chuẩn quốc tế.” Mối quan hệ được yêu cầu giữa biện pháp SPS và tiêu chuẩn quốc tế để biện pháp “dựa trên” tiêu chuẩn này vẫn chưa rõ ràng. Để được coi là “dựa trên” một tiêu chuẩn quốc tế, biện pháp SPS  phải không chỉ ban hành ít nhất một số yếu tố của tiêu chuẩn quốc tế mà còn dẫn đến cùng một mức độ bảo vệ.321  Giải thích do AB đưa ra trong vụ tranh chấp EC - Hormones đã làm rõ rằng lệnh cấm EC rõ ràng không dựa trên các tiêu chuẩn CAC đã có vì không chấp nhận bất kỳ yếu tố nào của các tiêu chuẩn CAC. Như đã nêu ở trên, CAC đã không quy định về ADIs hoặc MRLs cho bất kỳ hormone tự nhiên nào liên quan, điều này không cần thiết vì CAC đã xác định chúng là an toàn khi sử dụng phù hợp với thực hành thú y tốt và đã ấn định một số ADIs và MRLs cho 2 loại hormone tổng hợp. AB tiếp tục phân tích biện pháp của EC theo yêu cầu của Điều 3.3 Hiệp định SPS đối với các biện pháp không “dựa trên” các tiêu chuẩn quốc tế. Câu hỏi đặt ra là sẽ có những hậu quả gì khi lựa chọn theo Điều 3.1 Hiệp định SPS. AB đã làm rõ những hậu quả này. Theo Điều 3.1 Hiệp định SPS, một Thành viên có thể lựa chọn để thiết lập một biện pháp SPS “dựa trên” tiêu chuẩn quốc tế liên quan đang có hiệu lực. Thành viên áp dụng biện pháp này không được hưởng lợi từ giả định tính phù hợp được quy định tại Điều 3.2 Hiệp định SPS; nhưng Thành viên khiếu nại vẫn chịu trách nhiệm chứng minh, bằng cách chứng tỏ một tình huống vi phạm hiển nhiên với Điều 3.1 Hiệp định SPS hoặc bất kỳ điều khoản liên quan khác của Hiệp định SPS hoặc của GATT 1994. David R. Hurst lập luận một biện pháp “dựa trên” tiêu chuẩn quốc tế sẽ được coi là tự động “dựa trên” đánh giá rủi ro (theo tiêu chuẩn do cơ quan thiết lập tiêu chuẩn quốc tế có liên quan thiết lập), biện pháp này nên được coi là phù hợp với Điều 5.1 - 5.3 Hiệp định SPS. Do đó, việc đánh giá xem liệu các yêu cầu nghiêm ngặt đối với đánh giá rủi ro đã được đáp ứng hay không là không cần thiết. Mặc dù không cung cấp “nơi trú ẩn an toàn” cho các biện pháp SPS (như trường hợp của Điều 3.2 Hiệp định SPS), lựa chọn theo Điều 3.1 Hiệp định SPS có thể tránh các biện pháp SPS “dựa trên” các tiêu chuẩn, hướng dẫn, khuyến nghị quốc tế khỏi các yêu cầu khoa học nghiêm ngặt của Hiệp định. Điều này phù hợp với yêu cầu trong Điều 3.3 Hiệp định SPS về sự biện minh khoa học đối với các biện pháp SPS không “dựa trên” các tiêu chuẩn quốc tế. Các biện pháp SPS “dựa trên” các tiêu chuẩn quốc tế liên quan sẽ chỉ dễ bị cáo buộc vi phạm bởi các phản đối liên quan đến thương mại, chẳng hạn như các yêu cầu không phân biệt và tính cần thiết của Hiệp định, và các quy tắc về thủ tục.Cách tiếp cận này của David R. Hurst được hỗ trợ một phần bởi những nhận định của các Ban hội thẩm trong vụ tranh chấp Hoa Kỳ - Tiếp tục đình chỉ và Canada - Tiếp tục đình chỉDo đó, một Thành viên ban hành các biện pháp SPS của mình chỉ “dựa trên” các tiêu chuẩn, hướng dẫn, khuyến nghị quốc tế, mà không “tuân thủ” các quy định này thì không được hưởng giả định các biện pháp của mình tuân thủ với Hiệp định SPS và GATT 1994, nhưng cũng không chịu thêm sự bất lợi nào từ nghĩa vụ chứng minh khi có Thành viên WTO khác khởi kiện biện pháp tại cơ quan giải quyết tranh chấp WTO. Theo tác giả, cách giải thích trên của AB là hợp lý vì cần có lợi thế cho một Thành viên lựa chọn phương án “dựa trên” thay vì ban hành biện pháp SPS cao hơn các tiêu chuẩn, hướng dẫn, khuyến nghị quốc tế (theo Điều 3.3 Hiệp định SPS).  b.Các biện pháp vệ sinh an toàn thực phẩm tuân thủ các tiêu chuẩn quốc tế  Lựa chọn thứ hai của một Thành viên là ban hành một biện pháp SPS “tuân thủ” với tiêu chuẩn, hướng dẫn hoặc khuyến nghị quốc tế có liên quan theo Điều 3.2 Hiệp định SPS. Do đó cần phải xem xét những yêu cầu cần thiết để một biện pháp “tuân thủ với” (conforms to) một tiêu chuẩn quốc tế. Vấn đề này đã được AB trong vụ tranh chấp EC - Hormones. AB cho rằng “một biện pháp sẽ thể hiện được tiêu chuẩn quốc tế một cách hoàn chỉnh và, vì mục đích thực tiễn, biến nó thành một tiêu chuẩn riêng của quốc gia.” Biện pháp này do đó phải thể hiện đầy đủ tiêu chuẩn quốc tế. Điều này dường như có nghĩa là các biện pháp và tiêu chuẩn quốc tế phải giống hệt nhau ở cả hình thức và mức độ bảo vệ hướng đến.  Hiệp định SPS thúc đẩy các biện pháp “tuân thủ” các tiêu chuẩn, hướng dẫn, khuyến nghị quốc tế bằng cách xem các biện pháp này là cần thiết để bảo vệ cuộc sống hoặc sức khỏe con người, động vật hoặc thực vật và bằng cách giả định phù hợp với Hiệp định SPS và GATT 1994. Trong vụ EC – Hormones, AB đề cập các hệ quả của giả định tính phù hợp theo Điều 3.2 Hiệp định SPS, “Việc giả định tính phù hợp với các quy định liên quan của Hiệp định SPS phát sinh theo Điều 3.2 đối với các biện pháp “tuân thủ với” các tiêu chuẩn quốc tế có thể là động cơ khuyến khích các Thành viên thực hiện các biện pháp SPS của họ với các tiêu chuẩn đó.” Đáng lưu ý là trong EC - Hormones AB cho rằng giả định về sự tuân thủ theo Điều 3.2 Hiệp định SPS có thể bị bác bỏ. AB tuyên bố: “Một biện pháp như vậy được hưởng lợi từ một giả định (mặc dù có thể bác bỏ) rằng nó phù hợp với các điều khoản liên quan của Hiệp định SPS và GATT 1994”. Theo tác giả, nhận định của AB đã lấy đi nhiều lợi thế cho các biện pháp tuân thủ với các tiêu chuẩn quốc tế. Điều này sẽ không có ý nghĩa thúc đẩy sự hài hòa, trái với mục tiêu rõ ràng của Hiệp định SPS là “tiếp tục sử dụng các biện pháp kiểm dịch động - thực vật giữa các Thành viên, dựa trên các tiêu chuẩn quốc tế ...”.3.1.2.2. Các biện pháp vệ sinh an toàn thực phẩm có mức bảo vệ cao hơn các tiêu chuẩn quốc tế  Lựa chọn thứ ba dành cho các Thành viên là ban hành các biện pháp SPS cung cấp mức độ bảo vệ cao hơn các biện pháp “dựa trên” các tiêu chuẩn có liên quan. Quy định này thừa nhận quyền của các Thành viên lựa chọn mức độ bảo vệ riêng của họ. Điều này được thể hiện rõ ràng trong tuyên bố đầu tiên, đoạn 6 Hiệp định SPS cho thấy “không yêu cầu các Thành viên thay đổi mức độ bảo vệ thích hợp đối với cuộc sống và sức khỏe con người, động vật hoặc thực vật”.  Trong vụ tranh chấp EC - Hormones, Ban hội thẩm xem Điều 3.3 Hiệp định SPS là “ngoại lệ đối với nghĩa vụ chung trong Điều 3.1 Hiệp định SPS.” Vì vậy, Ban hội thẩm nêu rõ nếu một nguyên đơn cho thấy một tiêu chuẩn quốc tế có liên quan tồn tại và biện pháp SPS tranh chấp không “dựa trên” tiêu chuẩn quốc tế, gánh nặng chứng minh chuyển sang bị đơn để chứng minh rằng Thành viên này đã đáp ứng các yêu cầu của Điều 3.3. Trong vụ tranh chấp EC – Hormones, AB đã làm rõ mối quan hệ giữa Điều 3.3 và Điều 3.1 và 3.2 Hiệp định SPS như sau: “Dường như Ban hội thẩm hiểu sai mối quan hệ giữa các Điều 3.1, 3.2 và 3.3 Hiệp định SPS, ... khác biệt định tính so với mối quan hệ giữa, ví dụ, các Điều I hoặc III và Điều XX của GATT 1994. Điều 3.1 của Hiệp định SPS đơn giản loại trừ khỏi phạm vi áp dụng các loại tình huống được quy định tại Điều 3.3 của Hiệp định đó, tức là khi một Thành viên dự kiến cho mình một mức độ bảo vệ vệ sinh cao hơn mức đạt được bằng một biện pháp “dựa trên” một tiêu chuẩn quốc tế.” Điều quan trọng là AB đã nhận định trong vụ tranh chấp EC - Hormones rằng “quyền của một Thành viên để thiết lập mức bảo vệ riêng theo Điều 3.3 Hiệp định SPS là một quyền tự chủ và không phải là “ngoại lệ” từ “nghĩa vụ chung” theo Điều 3.1”. Theo tác giả, giải thích của AB phù hợp với cách tiếp cận của Hiệp định SPS mình cho đến thời điểm đó như một quốc gia khác đã nộp đơn khiếu nại và thành lập một trường hợp phù hợp. Như vậy, không có gánh nặng ban đầu dựa trên quy định. (Xem Joanne Scott (2004), “International Trade and Environmental Governance: Relating Rules (and Standards) in the EU and the WTO”, European Journal of International Law 15, tr. 310) là tôn trọng quyền của một Thành viên lựa chọn mức độ bảo vệ phù hợp với các ưu tiên chính sách của họ.  Tuy nhiên, AB công nhận, quyền của một Thành viên để xác định mức độ bảo vệ riêng của mình không phải là một “quyền tuyệt đối hoặc vô điều kiện” (absolute or unqualified right). Thay vào đó, Điều 3.3 Hiệp định SPS đưa ra 2 điều kiện liên quan đến khoa học. Hoặc phải có sự biện minh khoa học đối với các biện pháp, hoặc phải là kết quả của mức độ bảo vệ cao hơn do Thành viên chọn theo Điều 5.1 - 5.8 Hiệp định SPS. Trong cả 2 trường hợp, các biện pháp phải phù hợp với tất cả các điều khoản khác của Hiệp định SPS. Chú thích Điều 3.3 Hiệp định SPS đã làm rõ rằng có một “sự biện minh khoa học” (scientific justification) tồn tại: “... Nếu trên cơ sở kiểm tra và đánh giá các thông tin khoa học sẵn có phù hợp với các quy định liên quan của Hiệp định này, một Thành viên xác định rằng các tiêu chuẩn, hướng dẫn hoặc khuyến nghị quốc tế có liên quan không đủ để đạt được mức độ thích hợp của bảo vệ vệ sinh động - thực vật”. Sự khác biệt trong Điều 3.3 Hiệp định SPS giữa 2 tình huống có thể tạo ra các vấn đề về giải thích. Trong vụ tranh chấp EC - Hormones, EC đã lập luận rằng có “sự biện minh khoa học” cho các biện pháp của mình, vì vậy EC không cần phải phù hợp với Điều 5.1 - 5.8 Hiệp định SPS, mà yêu cầu này chỉ được đặt cho tình huống thứ hai. AB cho rằng sự khác biệt giữa 2 tình huống được xác định trong Điều 3.3 Hiệp định SPS. Trong thực tế, cả 2 tình huống đòi hỏi một đánh giá rủi ro phù hợp với Điều 5 Hiệp định SPS. AB nhận định như sau: “Việc sử dụng các phân biệt hoặc chỉ ra rằng 2 tình huống được dự định. Đó là việc xây dựng hoặc duy trì các biện pháp SPS dẫn đến mức độ bảo vệ cao hơn: (a) “Nếu có một sự biện minh khoa học”; Hoặc (b) “như một hệ quả của mức độ ... bảo vệ mà Thành viên xác định phù hợp với các quy định tương ứng của các khoản từ 1 đến 8 của Điều 5”. Đúng là tình huống (a) không nói đến các Điều từ 5.1 đến 5.8 Hiệp định SPS. Tuy nhiên, cần lưu ý 2 điểm. Thứ nhất, câu cuối cùng của Điều 3.3 yêu cầu “tất cả các biện pháp dẫn đến mức bảo vệ ... mức cao hơn” nghĩa là các biện pháp thuộc tình huống (a) cũng như những vấn đề nằm trong tình huống (b) , “không trái với các điều khoản khác của Hiệp định SPS”. “Bất kỳ điều khoản nào khác của Hiệp định này” bao gồm Điều 5. Thứ hai, chú thích cho Điều 3.3 Hiệp định SPS, khi gắn liền với câu cuối, định nghĩa “sự biện minh khoa học” như là một “kiểm tra và đánh giá các thông tin khoa học hiện có phù hợp với các quy định có liên quan các điều khoản của Hiệp định này ...”. Việc kiểm tra và đánh giá này dường như tham gia vào bản chất của đánh giá rủi ro được yêu cầu trong Điều 5.1 Hiệp định SPS và được định nghĩa trong đoạn 4, Phụ lục A Hiệp định SPS.” Trong vụ Nhật Bản - Các sản phẩm nông nghiệp II, AB lại phải đối mặt với câu hỏi về những gì Thành viên cần phải trình bày khi tuyên bố có “biện minh khoa học” cho một biện pháp có mức bảo vệ cao hơn các tiêu chuẩn, hướng dẫn, khuyến nghị quốc tế. AB nhận định như sau: “Theo chúng tôi, có một “biện minh khoa học” đối với một biện pháp SPS, theo nghĩa của Điều 3.3, nếu có một mối quan hệ hợp lý giữa biện pháp SPS và thông tin khoa học sẵn có.”Nhận định này làm rõ mối quan hệ bắt buộc giữa biện pháp SPS và thông tin khoa học (dưới hình thức đánh giá rủi ro).3.1.2.3. Các biện pháp vệ sinh an toàn thực phẩm có mức bảo vệ thấp hơn các tiêu chuẩn quốc tế  Các biện pháp không “dựa trên” các tiêu chuẩn quốc tế không gồm các biện pháp có mức bảo vệ cao hơn các tiêu chuẩn, hướng dẫn, khuyến nghị quốc tế; mà cả những biện pháp SPS cung cấp một mức độ bảo vệ thấp hơn. Tuy nhiên, Điều 3 Hiệp định SPS không giải quyết rõ ràng tình huống này. Điều 3.1 Hiệp định SPS yêu cầu một Thành viên ban hành các biện pháp “dựa trên” các tiêu chuẩn quốc tế, tức là đạt được cùng một mức độ bảo vệ, trừ khi được quy định tại Điều 3.3 Hiệp định SPS. Điều 3.3 Hiệp định SPS cho phép các biện pháp SPS tạo ra mức độ bảo vệ cao hơn trong điều kiện nhất định. Do đó, dường như Điều 3 yêu cầu các Thành viên phải duy trì mức bảo vệ SPS tối thiểu được phản ánh trong các tiêu chuẩn quốc tế có liên quan, đồng thời cho phép mức độ bảo vệ cao hơn nhưng không nói đến mức bảo vệ thấp hơn.  Do đó, vấn đề được đặt ra liệu Điều 3 Hiệp định SPS có sử dụng các tiêu chuẩn quốc tế “chỉ như là một công cụ để nới lỏng các quy định quốc gia vượt xa các tiêu chuẩn quốc tế ... hay những tiêu chuẩn đó có thể được viện dẫn để thắt chặt các quy định của quốc gia đối với các nước có mức độ thấp hơn mức tối thiểu tiêu chuẩn quốc tế”.[31] Nói cách khác, các tiêu chuẩn quốc tế chỉ được coi như là một mức trần mà các biện pháp SPS sẽ cần có sự biện minh khoa học hay chúng cũng là một mức sàn mà không có biện pháp nào có thể cung cấp mức bảo vệ dưới mức của các tiêu chuẩn, hướng dẫn, khuyến nghị có liên quan?  Việc thúc đẩy mức bảo vệ sức khỏe tối thiểu là điều cần thiết đặc biệt trong bối cảnh “khủng hoảng” an toàn thực phẩm như hiện nay, vì sức khỏe, tính mạng con người luôn là tài sản vô giá, không có gì có thể đánh đổi (kể cả lợi ích kinh tế). Tuy nhiên, nếu Điều 3 Hiệp định SPS yêu cầu mức tối thiểu về bảo vệ SPS ở tất cả các Thành viên “dựa trên” các tiêu chuẩn quốc tế thì sẽ có những vấn đề về tính hợp pháp của các tiêu chuẩn quốc tế được sử dụng cho mục đích này và vai trò của WTO trong việc yêu cầu tuân thủ. Một số học giả cho rằng nếu hiểu Điều 3 Hiệp định SPS theo cách các tiêu chuẩn, hướng dẫn, khuyến nghị quốc tế đặt ra mức sàn trong việc bảo vệ sức khỏe thì việc nhằm đạt được mục tiêu này thông qua WTO (đặc biệt là Hiệp định SPS) có thể dẫn đến các kết quả không mong muốn. Bởi vì, nhiệm vụ của WTO chỉ giới hạn ở các nguyên tắc liên quan đến các rào cản thương mại và không mở rộng tới việc thúc đẩy trực tiếp các mục tiêu y tế, sức khỏe. Nhiệm vụ này là để các tổ chức quốc tế khác thiết lập cho mục đích này, chẳng hạn như Tổ chức Y tế thế giới. Tuy nhiên, các tổ chức nhân quyền thuộc Liên hợp quốc đòi hỏi phải có các nguyên tắc và nghĩa vụ về quyền con người (bao gồm cả quyền được chăm sóc sức khỏe) trong các cuộc đàm phán trong tương lai của WTO. Các học giả đã chỉ ra rằng WTO không nên duy trì lý thuyết rằng chính sách thương mại không liên quan đến nhân quyền, mà thay vào đó chấp nhận chính sách thương mại bị ràng buộc bởi các  chuẩn, hướng dẫn hoặc khuyến nghị quốc tế sẽ không không phù hợp với bất kỳ điều khoản nào khác của Hiệp định này”. Việc tham chiếu đến các biện pháp SPS dẫn đến một mức độ bảo hộ khác với các tiêu chuẩn quốc tế không hạn chế mức độ bảo vệ cao hơn nhưng bao gồm các biện pháp dẫn đến mức độ bảo vệ thấp hơn, do đó ngầm thừa nhận khả năng này. nguyên tắc và nghĩa vụ cơ bản về nhân quyền phát sinh từ các nghĩa vụ ràng buộc pháp luật về quyền con người của các Thành viên WTO. Điều này đòi hỏi,  trong việc thực hiện nhiệm vụ của mình, WTO cần phải có đầy đủ các mối liên quan đến quyền con người, bao gồm quyền phát triển, quyền được chăm sóc sức khỏe và quyền được cung cấp thực phẩm an toàn. Điều này không có nghĩa là WTO nên vượt quá nhiệm vụ của mình và trở thành cơ quan quản lý SPS toàn cầu.Thay vào đó, các quy định của WTO, trong phạm vi thẩm quyền, phải là áp dụng theo một cách góp phần bảo vệ chứ không làm suy yếu nhân quyền. Mục tiêu này được phản ánh trong cách tiếp cận thận trọng của Hiệp định SPS đối với không gian chính sách của các Thành viên, trong đó khuyến khích hài hòa hóa trong việc bảo vệ SPS, đồng thời thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thông qua thương mại.  Pauwelyn lưu ý rằng việc xem xét các tiêu chuẩn quốc tế theo các tiêu chuẩn tối thiểu bắt buộc sẽ có “kết quả kỳ quặc” (odd result) rằng WTO sẽ yêu cầu một bị đơn hạn chế thương mại hơn nữa (tức là áp dụng các yêu cầu SPS nghiêm ngặt hơn). Thật khó để tưởng tượng một Thành viên phản đối một bên khác trong một diễn đàn thương mại về mức bảo vệ sức khỏe quá thấp đối với công dân của mình, một tình huống có thể không có những ảnh hưởng tiêu cực đến thương mại của các Thành viên khác. Ngoài ra, cần lưu ý rằng AB trong vụ tranh chấp EC - Hormones đã bác bỏ cách giải thích của Ban hội thẩm theo Điều 3.1 Hiệp định SPS theo cách các tiêu chuẩn quốc tế có tính ràng buộc.Ngoài ra, cần lưu ý rằng sự tôn trọng quyền tự chủ của các Thành viên được thể hiện trong các điều khoản về hài hòa hóa trong Hiệp định SPS, bằng cách không yêu cầu họ thay đổi mức độ bảo vệ thích hợp của họ (mức bảo vệ này không giới hạn ở những thay đổi dưới mức của các tiêu chuẩn, hướng dẫn, khuyến nghị quốc tế).352 Do đó, có thể kết luận rằng Điều 3 Hiệp định SPS không áp đặt mức bảo vệ SPS tối thiểu đối với các Thành viên WTO dựa trên các tiêu chuẩn quốc tế.  Theo Nguyễn Thị Thu ThảoLink: Tại đây