0888889366
Tra cứu thông tin hợp đồng
timeline_post_file64dcf0668ce6f-photo-1436450412740-6b988f486c6b.jpg

Thực tiễn thực hiện pháp luật về hợp đồng theo mẫu tại Việt Nam

3.1. Thực tiễn thực hiện pháp luật về hợp đồng theo mẫu tại Việt Nam 

3.1.1. Thực tiễn hoạt động kiểm soát hợp đồng theo mẫu của các cơ quan quản lý nhà nước 

3.1.1.1. Đối với hoạt động đăng ký hợp đồng theo mẫu 

Hoạt động đăng ký hợp đồng theo mẫu là một trong những hoạt động mang tính chất tiền kiểm để có thể phát hiện ra các vi phạm trong quá trình xây dựng hợp đồng theo mẫu của các doanh nghiệp với người tiêu dùng, đồng thời cũng đóng vai trò là yêu cầu bắt buộc về mặt hình thức đối với các doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực bắt buộc phải đăng ký theo Quyết định số 02/2012/QĐ-TTg và các văn bản sửa đổi Quyết định này.   

Theo số liệu tổng hợp của Báo cáo thường niên từ năm 2012 đến nay của Cục CT & BVNTD – Bộ công thương, từ năm 2012 đến năm 2016, số lượng hồ sơ mà Cục tiếp nhận đăng ký hợp đồng theo mẫu có xu hướng tăng dần, từ 110 hồ sơ đăng ký năm 2012 đạt đến con số cao điểm nhất là 1342 hồ sơ vào năm 2016, tăng hơn 10 lần. Từ năm 2017 cho đến năm 2020, số hồ sơ đăng ký có xu hướng giảm dần với lần lượt là 857, 539, 254 và 205 hồ sơ. Sở dĩ có sự sụt giảm này vào những năm gần đây là do các lĩnh vực có số lượng đăng ký hồ sơ lớn nhất bao gồm ngân hàng và bảo hiểm nhân thọ đã không còn nằm trong danh mục bắt buộc phải đăng ký theo Quyết định số 38/2018/QĐ-TTg và Quyết định số 25/2019/QĐ-TTg. Đồng thời cùng với sự tăng nhanh về số lượng hồ sơ đăng ký, hoạt động tương tác của Cục CT & BVNTD với các doanh nghiệp liên quan đến nội dung hồ sơ cũng đã được cải thiện tương đối khi không chỉ đơn thuần đưa ra thông báo không chấp nhận hồ sơ mà còn được chi tiết hóa các nội dung chưa phù hợp với quy định pháp luật và đưa ra hướng sửa đổi, điều chỉnh để làm cơ sở cho doanh nghiệp có thể tự hoàn thiện hồ sơ. Trong số các hồ sơ tiếp nhận đăng ký, tỉ lệ chấp nhận hồ sơ thấp nhất vào năm 2015 với 23.04% (174/755) và cao nhất vào năm 2014 với 59.79% (116/194), còn lại các năm khác chủ yếu dao động trong khoảng 28 – 50%. 

Trong khi đó ở các Sở công thương tại địa phương, từ năm 2012 cho đến hết năm 2017, số lượng hồ sơ tiến hành đăng ký đạt 1309 hồ sơ, tức là chỉ bằng khoảng 1/3 cho với số lượng hồ sơ đăng ký tại Trung ương cùng thời gian. Tuy nhiên, tỷ lệ chấp nhận đăng ký đối với hồ sơ của các doanh nghiệp là rất cao khi phê duyệt 1087 hồ sơ, chiếm xấp xỉ 83% trong tổng số hồ sơ đăng ký. 

Như vậy, chỉ riêng số lượng tiếp nhận hồ sơ theo mẫu đăng ký giữa các cơ quan quản lý nhà nước cấp Trung ương và địa phương đã cho thấy một sự chênh lệch vô cùng lớn khi số lượng của Cục nhiều gấp vài trăm lần trung bình số lượng tiếp nhận của mỗi Sở. Nhiều trường hợp doanh nghiệp trong lĩnh vực mua bán chung cư mặc dù chỉ triển khai hoạt động trên một tỉnh hoặc thành phố và hoàn toàn có thể đăng ký tại Sở Công thương nhưng do Sở chưa triển khai thủ tục này nên đành phải đăng ký tại Cục CT & BVNTD. Hơn nữa, còn diễn ra nhiều trường hợp Sở và Cục còn mâu thuẫn với nhau về những nội dung nhất định trong hồ sơ đăng ký, có khi bị Cục từ chối hồ sơ nhưng lại được Sở chấp nhận. Điều này dẫn đến thực trạng là tỉ lệ phê duyệt hồ sơ đăng ký lại có sự chênh lệch theo hướng ngược lại khi tỉ lệ chấp nhận của các cơ quan địa phương trung bình cao gấp 2 – 3 lần tỉ lệ của cơ quan Trung ương, nhưng thực tế vẫn còn phát hiện ra rất nhiều các điều khoản chưa tuân thủ quy định của pháp luật mặc dù hồ sơ đăng ký đã được Sở công thương phê duyệt.   

3.1.1.2. Đối với hoạt động thanh kiểm tra về việc thực hiện hợp đồng theo mẫu 

Nhìn chung, theo thực tế triển khai ở cả Cục CT & BVNTD cũng như các Sở công thương tại địa phương, hoạt động quản lý nhà nước về hợp đồng theo mẫu chủ yếu được thực hiện đối với các doanh nghiệp thuộc nhóm phải đăng ký hợp đồng theo mẫu thông qua việc tiếp nhận hồ sơ đăng ký, còn lại việc kiểm soát đối với nhóm không bắt buộc phải đăng ký để phát hiện các vi phạm chưa thực sự được chú trọng. Kể từ năm 2013 đến năm 2017, Cục CT & BVNTD mới chỉ tiến hành kiểm tra tổng cộng 69 doanh nghiệp liên quan đến hoạt động chấp hành đăng ký hợp đồng theo mẫu, trong đó có 36 doanh nghiệp đã tuân thủ và các doanh nghiệp còn lại chưa thực hiện nghiêm túc các nghĩa vụ theo hợp đồng cũng như chưa tiến hành nghĩa vụ đăng ký. Trong đó, Cục đã tiến hành xử phạt hành chính 5 doanh nghiệp với mức phạt từ 60.000.000 – 80.000.000 đồng và đình chỉ ký kết hợp đồng với người tiêu dùng từ 1 – 2 tháng, còn 28 doanh nghiệp chỉ bị nhắc nhở và yêu cầu khắc phục vi phạm. Ngoài ra, theo thông tin từ Phòng kiểm soát hợp đồng theo mẫu của Cục CT & BVNTD, cho đến thời điểm hiện tại thì số lượng tổng cộng các doanh nghiệp bị xử phạt hành chính do vi phạm các quy định về hợp đồng theo mẫu là rất thấp, bao gồm 5 doanh nghiệp bị Cục quản lý thị trường xử phạt và chưa đến 20 doanh nghiệp bị Cục CT & BVNTD xử phạt với mức phạt trung bình khoảng 100.000.000 đồng/doanh nghiệp. 

Bên cạnh đó, trong thời đại internet ngày một phát triển rộng rãi, các hoạt động kinh doanh trực tuyến trên các trang thương mại điện tử cũng trở nên phổ biến hơn, từ đó cũng đặt ra các thách thức đối với pháp luật để bảo vệ các khách hàng trong quá trình giao kết hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch chung với các doanh nghiệp trong lĩnh vực này. Các doanh nghiệp thương mại điện tử thường ban hành các hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch chung dưới các dạng như: Điều khoản, điều kiện sử dụng website, ứng dụng; Điều khoản chung; Chính sách bán hàng; Chính sách bảo mật, chính sách quyền riêng tư; Chính sách bảo hành; Chính sách vận chuyển... Theo kết quả tổng hợp của Cục CT & BVNTD trong khoảng thời gian từ đầu năm 2019 đến 3/2020 dựa trên rà soát hơn 40 tài liệu thu thập của các doanh nghiệp thương mại điện tử có quy mô lớn, phạm vi hoạt động trên toàn quốc cũng như có số lượng khách hàng lớn và phổ biến, Báo cáo cho biết đã phát hiện ra hơn 500 điểm tồn tại trong các tài liệu của doanh nghiệp không phù hợp với quy định của pháp luật, gần như toàn bộ các tài liệu này đều có chứa đựng các điều khoản chưa tuân thủ quy định, cụ thể: 

  • Khoảng 30% tài liệu có trên 30 điểm chưa tuân thủ;
  • Khoảng 35% tài liệu có từ 20 – 30 điểm chưa tuân thủ;
  • Khoảng 35% tài liệu có dưới 20 điểm chưa tuân thủ.

Trong đó, các dạng điều khoản chưa tuân thủ quy định về hình thức hợp đồng theo mẫu phải rõ ràng, cụ thể chiếm khoảng 53% tổng số điểm chưa tuân thủ, các điều khoản chưa tuân thủ về nội dung theo khoản 1 Điều 16 LBVQLNTD chiếm 26% tổng số điểm chưa tuân thủ. Như vậy, số lượng các vi phạm về nội dung và hình thức đối với hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch chung của các doanh nghiệp thương mại điện tử chiếm tổng cộng xấp xỉ 79% tổng số vi phạm nói chung, cho thấy đây là những dạng vi phạm chủ yếu đối với quyền lợi của người tiêu dùng khi giao kết hợp đồng theo mẫu với những doanh nghiệp này. 

3.1.2. Thực tiễn thực hiện pháp luật về hợp đồng theo mẫu của các doanh nghiệp cung cấp hàng hóa, dịch vụ 

Nói chung, hoạt động áp dụng pháp luật về hợp đồng theo mẫu được thực hiện bởi các doanh nghiệp cung cấp hàng hóa, dịch vụ tại rất nhiều lĩnh vực khác nhau. Trong quá trình triển khai, mặc dù mỗi lĩnh vực các doanh nghiệp sẽ có những cách thức soạn thảo, xây dựng nội dung khác nhau cho phù hợp với đặc thù của từng lĩnh vực, tuy nhiên điểm chung của nhiều doanh nghiệp là vẫn còn tồn tại rất nhiều các vi 

phạm các quy định pháp luật về hợp đồng theo mẫu, được phân tích cụ thể dưới đây. 

3.1.2.1. Công ty TNHH Hàng không Tre Việt (Bamboo Airways) 

Trong lĩnh vực hàng không, Bamboo Airways dù là hãng hàng không có tuổi đời còn non trẻ nhưng đến thời điểm này đã nắm giữ một tỷ lệ không nhỏ với xấp xỉ 20% thị phần nội địa. Hoạt động vận chuyển hành khách bằng đường hàng không mà một trong những nội dung bắt buộc phải đăng ký hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch chung và nếu nhìn vào khía cạnh này, Điều lệ vận chuyển được công bố trên website[6] của Bamboo Airways là tương đối chi tiết bao gồm 17 điều khoản với độ dài tương ứng 32 trang. Như vậy, chỉ xét riêng về mặt hình thức thì có thể thấy rằng 

Điều lệ vận chuyển này sẽ dễ dàng làm nản lòng những hành khách có nhu cầu tìm hiểu về nội dung, nhất là những người không có chuyên môn về mặt pháp lý. Việc quy định chi tiết, cụ thể sẽ giúp giảm các nguy cơ, rủi ro về mặt pháp lý nhưng không nên đánh đồng điều này với sự dài dòng, phức tạp. Điều lệ đôi khi sử dụng thuật ngữ hán việt trong trường hợp không cần thiết, ví dụ như “Chi hoàn” trong khi hoàn toàn có thể sử dụng từ ngữ dễ hiểu hơn là “hoàn vé” để không gây khó hiểu cho người đọc. Ngoài ra, cách diễn đạt trong Điều lệ đôi khi khá rườm rà và phức tạp hóa không cần thiết, ví dụ như quy định tại Điều 4.3 của Điều lệ vận chuyển của Bamboo Airways về thuế, phí, lệ phí: “Hành khách phải thanh toán các khoản thuế, phí và lệ phí quy định bởi chính phủ hoặc cơ quan thẩm quyền khác hoặc bởi đơn vị điều hành sân bay của sân bay hoặc bởi chúng tôi hoặc Hãng vận chuyển khác”

Về mặt nội dung, có tương đối nhiều các điều khoản trong các Điều lệ vận chuyển của những hãng hàng không này vi phạm các quy định tại Điều 16 của LBVQLNTD 2010. Trong Điều lệ vận chuyển của Bamboo Airways, tại Điều 6.6.1 về dịch vụ đặc biệt có ghi nhận như sau: “Chúng tôi cố gắng đảm bảo cung cấp các dịch vụ đặc biệt mà Hành khách yêu cầu khi đặt chỗ theo khả năng cung cấp của Chúng tôi. Chúng tôi sẽ thông báo cho Hành khách trong trường hợp Chúng tôi không cung cấp được dịch vụ đặc biệt theo yêu cầu của Hành khách. Yêu cầu dịch vụ đặc biệt của Hành khách sẽ được xác nhận ngay hoặc được xác nhận sau khi Chúng tôi kiểm tra các Điều kiện vận chuyển hoặc sau khi Hành khách hoàn thành các thủ tục theo điều kiện chấp nhận vận chuyển. Tuy nhiên, Chúng tôi không chịu trách nhiệm với Hành khách về những tổn thất, chi phí, vi phạm hợp đồng hoặc các Thiệt hại khác nếu Chúng tôi không thể cung cấp được dịch vụ theo yêu cầu đã đặt trước của Hành khách hoặc trong trường hợp Chúng tôi không có xác nhận về khả năng cung cấp của Chúng tôi khi Hành khách đặt chỗ”. Trong trường hợp này, có thể hiểu rằng Bamboo Airways đã loại trừ trách nhiệm của mình đối với hành khách nếu không cung cấp được dịch vụ theo yêu cầu của hành khách, kể cả khi trước đó Bamboo Airways đã có xác nhận rằng sẽ cung cấp được các dịch vụ này. Điều này dẫn đến vấn đề là xác nhận trước đó của Bamboo Airways hoàn toàn vô nghĩa và dù thế nào cũng không ràng buộc được trách nhiệm của hãng hàng không này với các thiệt hại xảy ra, cho dù hành khách vì tin tưởng vào xác nhận của Bamboo Airways mà chuẩn bị các điều kiện để sử dụng dịch vụ nhưng cuối cùng bị thiệt hại vì không được sử dụng dịch vụ. 


Theo Trần Ngọc Hiệp

Link: Tại đây

 

avatar
Lã Thị Ái Vi
850 ngày trước
Thực tiễn thực hiện pháp luật về hợp đồng theo mẫu tại Việt Nam
3.1. Thực tiễn thực hiện pháp luật về hợp đồng theo mẫu tại Việt Nam 3.1.1. Thực tiễn hoạt động kiểm soát hợp đồng theo mẫu của các cơ quan quản lý nhà nước 3.1.1.1. Đối với hoạt động đăng ký hợp đồng theo mẫu Hoạt động đăng ký hợp đồng theo mẫu là một trong những hoạt động mang tính chất tiền kiểm để có thể phát hiện ra các vi phạm trong quá trình xây dựng hợp đồng theo mẫu của các doanh nghiệp với người tiêu dùng, đồng thời cũng đóng vai trò là yêu cầu bắt buộc về mặt hình thức đối với các doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực bắt buộc phải đăng ký theo Quyết định số 02/2012/QĐ-TTg và các văn bản sửa đổi Quyết định này.   Theo số liệu tổng hợp của Báo cáo thường niên từ năm 2012 đến nay của Cục CT & BVNTD – Bộ công thương, từ năm 2012 đến năm 2016, số lượng hồ sơ mà Cục tiếp nhận đăng ký hợp đồng theo mẫu có xu hướng tăng dần, từ 110 hồ sơ đăng ký năm 2012 đạt đến con số cao điểm nhất là 1342 hồ sơ vào năm 2016, tăng hơn 10 lần. Từ năm 2017 cho đến năm 2020, số hồ sơ đăng ký có xu hướng giảm dần với lần lượt là 857, 539, 254 và 205 hồ sơ. Sở dĩ có sự sụt giảm này vào những năm gần đây là do các lĩnh vực có số lượng đăng ký hồ sơ lớn nhất bao gồm ngân hàng và bảo hiểm nhân thọ đã không còn nằm trong danh mục bắt buộc phải đăng ký theo Quyết định số 38/2018/QĐ-TTg và Quyết định số 25/2019/QĐ-TTg. Đồng thời cùng với sự tăng nhanh về số lượng hồ sơ đăng ký, hoạt động tương tác của Cục CT & BVNTD với các doanh nghiệp liên quan đến nội dung hồ sơ cũng đã được cải thiện tương đối khi không chỉ đơn thuần đưa ra thông báo không chấp nhận hồ sơ mà còn được chi tiết hóa các nội dung chưa phù hợp với quy định pháp luật và đưa ra hướng sửa đổi, điều chỉnh để làm cơ sở cho doanh nghiệp có thể tự hoàn thiện hồ sơ. Trong số các hồ sơ tiếp nhận đăng ký, tỉ lệ chấp nhận hồ sơ thấp nhất vào năm 2015 với 23.04% (174/755) và cao nhất vào năm 2014 với 59.79% (116/194), còn lại các năm khác chủ yếu dao động trong khoảng 28 – 50%. Trong khi đó ở các Sở công thương tại địa phương, từ năm 2012 cho đến hết năm 2017, số lượng hồ sơ tiến hành đăng ký đạt 1309 hồ sơ, tức là chỉ bằng khoảng 1/3 cho với số lượng hồ sơ đăng ký tại Trung ương cùng thời gian. Tuy nhiên, tỷ lệ chấp nhận đăng ký đối với hồ sơ của các doanh nghiệp là rất cao khi phê duyệt 1087 hồ sơ, chiếm xấp xỉ 83% trong tổng số hồ sơ đăng ký. Như vậy, chỉ riêng số lượng tiếp nhận hồ sơ theo mẫu đăng ký giữa các cơ quan quản lý nhà nước cấp Trung ương và địa phương đã cho thấy một sự chênh lệch vô cùng lớn khi số lượng của Cục nhiều gấp vài trăm lần trung bình số lượng tiếp nhận của mỗi Sở. Nhiều trường hợp doanh nghiệp trong lĩnh vực mua bán chung cư mặc dù chỉ triển khai hoạt động trên một tỉnh hoặc thành phố và hoàn toàn có thể đăng ký tại Sở Công thương nhưng do Sở chưa triển khai thủ tục này nên đành phải đăng ký tại Cục CT & BVNTD. Hơn nữa, còn diễn ra nhiều trường hợp Sở và Cục còn mâu thuẫn với nhau về những nội dung nhất định trong hồ sơ đăng ký, có khi bị Cục từ chối hồ sơ nhưng lại được Sở chấp nhận. Điều này dẫn đến thực trạng là tỉ lệ phê duyệt hồ sơ đăng ký lại có sự chênh lệch theo hướng ngược lại khi tỉ lệ chấp nhận của các cơ quan địa phương trung bình cao gấp 2 – 3 lần tỉ lệ của cơ quan Trung ương, nhưng thực tế vẫn còn phát hiện ra rất nhiều các điều khoản chưa tuân thủ quy định của pháp luật mặc dù hồ sơ đăng ký đã được Sở công thương phê duyệt.   3.1.1.2. Đối với hoạt động thanh kiểm tra về việc thực hiện hợp đồng theo mẫu Nhìn chung, theo thực tế triển khai ở cả Cục CT & BVNTD cũng như các Sở công thương tại địa phương, hoạt động quản lý nhà nước về hợp đồng theo mẫu chủ yếu được thực hiện đối với các doanh nghiệp thuộc nhóm phải đăng ký hợp đồng theo mẫu thông qua việc tiếp nhận hồ sơ đăng ký, còn lại việc kiểm soát đối với nhóm không bắt buộc phải đăng ký để phát hiện các vi phạm chưa thực sự được chú trọng. Kể từ năm 2013 đến năm 2017, Cục CT & BVNTD mới chỉ tiến hành kiểm tra tổng cộng 69 doanh nghiệp liên quan đến hoạt động chấp hành đăng ký hợp đồng theo mẫu, trong đó có 36 doanh nghiệp đã tuân thủ và các doanh nghiệp còn lại chưa thực hiện nghiêm túc các nghĩa vụ theo hợp đồng cũng như chưa tiến hành nghĩa vụ đăng ký. Trong đó, Cục đã tiến hành xử phạt hành chính 5 doanh nghiệp với mức phạt từ 60.000.000 – 80.000.000 đồng và đình chỉ ký kết hợp đồng với người tiêu dùng từ 1 – 2 tháng, còn 28 doanh nghiệp chỉ bị nhắc nhở và yêu cầu khắc phục vi phạm. Ngoài ra, theo thông tin từ Phòng kiểm soát hợp đồng theo mẫu của Cục CT & BVNTD, cho đến thời điểm hiện tại thì số lượng tổng cộng các doanh nghiệp bị xử phạt hành chính do vi phạm các quy định về hợp đồng theo mẫu là rất thấp, bao gồm 5 doanh nghiệp bị Cục quản lý thị trường xử phạt và chưa đến 20 doanh nghiệp bị Cục CT & BVNTD xử phạt với mức phạt trung bình khoảng 100.000.000 đồng/doanh nghiệp. Bên cạnh đó, trong thời đại internet ngày một phát triển rộng rãi, các hoạt động kinh doanh trực tuyến trên các trang thương mại điện tử cũng trở nên phổ biến hơn, từ đó cũng đặt ra các thách thức đối với pháp luật để bảo vệ các khách hàng trong quá trình giao kết hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch chung với các doanh nghiệp trong lĩnh vực này. Các doanh nghiệp thương mại điện tử thường ban hành các hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch chung dưới các dạng như: Điều khoản, điều kiện sử dụng website, ứng dụng; Điều khoản chung; Chính sách bán hàng; Chính sách bảo mật, chính sách quyền riêng tư; Chính sách bảo hành; Chính sách vận chuyển... Theo kết quả tổng hợp của Cục CT & BVNTD trong khoảng thời gian từ đầu năm 2019 đến 3/2020 dựa trên rà soát hơn 40 tài liệu thu thập của các doanh nghiệp thương mại điện tử có quy mô lớn, phạm vi hoạt động trên toàn quốc cũng như có số lượng khách hàng lớn và phổ biến, Báo cáo cho biết đã phát hiện ra hơn 500 điểm tồn tại trong các tài liệu của doanh nghiệp không phù hợp với quy định của pháp luật, gần như toàn bộ các tài liệu này đều có chứa đựng các điều khoản chưa tuân thủ quy định, cụ thể: Khoảng 30% tài liệu có trên 30 điểm chưa tuân thủ;Khoảng 35% tài liệu có từ 20 – 30 điểm chưa tuân thủ;Khoảng 35% tài liệu có dưới 20 điểm chưa tuân thủ.Trong đó, các dạng điều khoản chưa tuân thủ quy định về hình thức hợp đồng theo mẫu phải rõ ràng, cụ thể chiếm khoảng 53% tổng số điểm chưa tuân thủ, các điều khoản chưa tuân thủ về nội dung theo khoản 1 Điều 16 LBVQLNTD chiếm 26% tổng số điểm chưa tuân thủ. Như vậy, số lượng các vi phạm về nội dung và hình thức đối với hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch chung của các doanh nghiệp thương mại điện tử chiếm tổng cộng xấp xỉ 79% tổng số vi phạm nói chung, cho thấy đây là những dạng vi phạm chủ yếu đối với quyền lợi của người tiêu dùng khi giao kết hợp đồng theo mẫu với những doanh nghiệp này. 3.1.2. Thực tiễn thực hiện pháp luật về hợp đồng theo mẫu của các doanh nghiệp cung cấp hàng hóa, dịch vụ Nói chung, hoạt động áp dụng pháp luật về hợp đồng theo mẫu được thực hiện bởi các doanh nghiệp cung cấp hàng hóa, dịch vụ tại rất nhiều lĩnh vực khác nhau. Trong quá trình triển khai, mặc dù mỗi lĩnh vực các doanh nghiệp sẽ có những cách thức soạn thảo, xây dựng nội dung khác nhau cho phù hợp với đặc thù của từng lĩnh vực, tuy nhiên điểm chung của nhiều doanh nghiệp là vẫn còn tồn tại rất nhiều các vi phạm các quy định pháp luật về hợp đồng theo mẫu, được phân tích cụ thể dưới đây. 3.1.2.1. Công ty TNHH Hàng không Tre Việt (Bamboo Airways) Trong lĩnh vực hàng không, Bamboo Airways dù là hãng hàng không có tuổi đời còn non trẻ nhưng đến thời điểm này đã nắm giữ một tỷ lệ không nhỏ với xấp xỉ 20% thị phần nội địa. Hoạt động vận chuyển hành khách bằng đường hàng không mà một trong những nội dung bắt buộc phải đăng ký hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch chung và nếu nhìn vào khía cạnh này, Điều lệ vận chuyển được công bố trên website[6] của Bamboo Airways là tương đối chi tiết bao gồm 17 điều khoản với độ dài tương ứng 32 trang. Như vậy, chỉ xét riêng về mặt hình thức thì có thể thấy rằng Điều lệ vận chuyển này sẽ dễ dàng làm nản lòng những hành khách có nhu cầu tìm hiểu về nội dung, nhất là những người không có chuyên môn về mặt pháp lý. Việc quy định chi tiết, cụ thể sẽ giúp giảm các nguy cơ, rủi ro về mặt pháp lý nhưng không nên đánh đồng điều này với sự dài dòng, phức tạp. Điều lệ đôi khi sử dụng thuật ngữ hán việt trong trường hợp không cần thiết, ví dụ như “Chi hoàn” trong khi hoàn toàn có thể sử dụng từ ngữ dễ hiểu hơn là “hoàn vé” để không gây khó hiểu cho người đọc. Ngoài ra, cách diễn đạt trong Điều lệ đôi khi khá rườm rà và phức tạp hóa không cần thiết, ví dụ như quy định tại Điều 4.3 của Điều lệ vận chuyển của Bamboo Airways về thuế, phí, lệ phí: “Hành khách phải thanh toán các khoản thuế, phí và lệ phí quy định bởi chính phủ hoặc cơ quan thẩm quyền khác hoặc bởi đơn vị điều hành sân bay của sân bay hoặc bởi chúng tôi hoặc Hãng vận chuyển khác”. Về mặt nội dung, có tương đối nhiều các điều khoản trong các Điều lệ vận chuyển của những hãng hàng không này vi phạm các quy định tại Điều 16 của LBVQLNTD 2010. Trong Điều lệ vận chuyển của Bamboo Airways, tại Điều 6.6.1 về dịch vụ đặc biệt có ghi nhận như sau: “Chúng tôi cố gắng đảm bảo cung cấp các dịch vụ đặc biệt mà Hành khách yêu cầu khi đặt chỗ theo khả năng cung cấp của Chúng tôi. Chúng tôi sẽ thông báo cho Hành khách trong trường hợp Chúng tôi không cung cấp được dịch vụ đặc biệt theo yêu cầu của Hành khách. Yêu cầu dịch vụ đặc biệt của Hành khách sẽ được xác nhận ngay hoặc được xác nhận sau khi Chúng tôi kiểm tra các Điều kiện vận chuyển hoặc sau khi Hành khách hoàn thành các thủ tục theo điều kiện chấp nhận vận chuyển. Tuy nhiên, Chúng tôi không chịu trách nhiệm với Hành khách về những tổn thất, chi phí, vi phạm hợp đồng hoặc các Thiệt hại khác nếu Chúng tôi không thể cung cấp được dịch vụ theo yêu cầu đã đặt trước của Hành khách hoặc trong trường hợp Chúng tôi không có xác nhận về khả năng cung cấp của Chúng tôi khi Hành khách đặt chỗ”. Trong trường hợp này, có thể hiểu rằng Bamboo Airways đã loại trừ trách nhiệm của mình đối với hành khách nếu không cung cấp được dịch vụ theo yêu cầu của hành khách, kể cả khi trước đó Bamboo Airways đã có xác nhận rằng sẽ cung cấp được các dịch vụ này. Điều này dẫn đến vấn đề là xác nhận trước đó của Bamboo Airways hoàn toàn vô nghĩa và dù thế nào cũng không ràng buộc được trách nhiệm của hãng hàng không này với các thiệt hại xảy ra, cho dù hành khách vì tin tưởng vào xác nhận của Bamboo Airways mà chuẩn bị các điều kiện để sử dụng dịch vụ nhưng cuối cùng bị thiệt hại vì không được sử dụng dịch vụ. Theo Trần Ngọc HiệpLink: Tại đây