0888889366
Tra cứu thông tin hợp đồng
timeline_post_file64dcf2d286274-photo-1521587760476-6c12a4b040da.jpg

Khái niệm, đặc điểm của quảng cáo thương mại trên mạng xã hội

2.1. Khái niệm, đặc điểm của quảng cáo thương mại trên mạng xã hội 

2.1.1. Khái niệm và đặc điểm của quảng cáo thương mại 

Ở Việt Nam, khái niệm QCTM lần đầu tiên được ghi nhận tại Điều 102 LTM 2005, QCTM là: “Hoạt động xúc tiến thương mại của thương nhân để giới thiệu với khách hàng về hoạt động kinh doanh hàng hoá, dịch vụ của mình”. Năm 2012 Quốc hội ban hành LQC 2012, thay thế cho Pháp lệnh quảng cáo 2001. LQC 2012 không đưa ra định nghĩa QCTM mà chỉ đưa ra định nghĩa cho khái niệm “quảng cáo” nói chung tại Khoản 1 Điều 2 của Luật này, theo đó “Quảng cáo là việc sử dụng các phương tiện nhằm giới thiệu đến công chúng sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ có mục đích sinh lợi; sản phẩm, dịch vụ không có mục đích sinh lợi; tổ chức, cá nhân kinh doanh sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ được giới thiệu, trừ tin thời sự; chính sách xã hội; thông tin cá nhân”. Có thể thấy, đối tượng của hoạt động QCTM là hoạt động kinh doanh hàng hoá, dịch vụ có khả năng mang lại lợi nhuận cho tổ chức, cá nhân có mục đích sinh lợi, đây cũng là bản chất của hoạt động QCTM. Nội dung của hoạt động QCTM xét về nghiệp vụ là một trong những hoạt động xúc tiến thương mại, thông qua việc sử dụng các phương tiện quảng cáo khác nhau để giới thiệu cho khách hàng về các sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp. 

Đều là một trong những hoạt động xúc tiến thương mại, QCTM có điểm khác biệt và giao thoa với hoạt động trưng bày, giới thiệu hàng hóa. Trong QCTM, những thông điệp quảng cáo được thể hiện bằng các hình thức như hình ảnh, âm thanh, tiếng nói, chữ viết… để truyền đạt nội dung thông điệp quảng cáo (bao gồm những nội dung giới thiệu về hàng hóa, dịch vụ mà thương nhân cung ứng). Khác với QCTM, trưng bày, giới thiệu hàng hóa là hoạt động xúc tiến thương mại của thương nhân dùng hàng hóa, dịch vụ và tài liệu về hàng hóa, dịch vụ để giới thiệu với khách hàng về hàng hóa, dịch vụ đó. 

 Sự khác biệt giữa 2 hoạt động này là: (i) Trưng bày, giới thiệu hàng hóa có ý nghĩa thông tin đến khách hàng bằng chính hàng hóa, dịch vụ và tài liệu về hàng hóa, dịch vụ đó, trong khi QCTM lại sử dụng hình ảnh, âm thanh, tiếng nói… để truyền đạt nội dung quảng cáo về hàng hóa, dịch vụ. (ii) Trưng bày, giới thiệu hàng hóa được tiến hành thông qua các cách thức như: Mở phòng trưng bày, giới thiệu hàng hóa, dịch vụ; Tổ chức trưng bày, giới thiệu hàng hóa, dịch vụ tại các hội chợ, triển lãm; Tổ chức hội nghị, hội thảo có trưng bày, giới thiệu hàng hóa, dịch vụ; Trưng bày, giới thiệu hàng hóa, dịch vụ trên internet và các hình thức khác theo quy định pháp luật. QCTM được thể hiện qua các phương tiện quảng cáo như trên báo chí, trên tin nhắn điện thoại, thư điện tử, trên mạng xã hội… Tuy QCTM và trưng bày giới thiệu hàng hóa khác nhau về cách thức tiến hành nhưng xét về bản chất, trưng bày và giới thiệu hàng hóa là một trong những cách thức của QCTM. 

Từ khái niệm về QCTM nêu trên, có thể thấy QCTM có những đặc điểm sau đây: 

Thứ nhất: QCTM trước hết là một hoạt động xúc tiến thương mại. QCTM là hoạt động thương mại mang tính bổ trợ, được thực hiện không phải để trực tiếp tiêu thụ hàng hóa, dịch vụ mà chỉ đóng vai trò thúc đẩy nhóm hành vi mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ thương mại được thực hiện thường xuyên, liên tục. Chỉ khi thương nhân tiến hành hoạt động kinh doanh dịch vụ quảng cáo, thương nhân mới có lợi nhuận trực tiếp, còn lại đa phần các hoạt động QCTM không mang lại lợi nhuận trực tiếp cho thương nhân, tuy nhiên hoạt động này mang tính bổ trợ, thúc đẩy việc trao đổi, mua bán hàng hoá trên thị trường để làm cầu nối cho hoạt động mua bán. Nhờ hoạt động QCTM, người tiếp nhận quảng cáo có kênh để tìm hiểu và tiếp cận thông tin, thương nhân sẽ bán được nhiều hàng hóa, cung ứng được nhiều dịch vụ hơn, từ đó lợi nhuận mà thương nhân thu được cũng sẽ tăng lên. QCTM là hoạt động nhằm giới thiệu hàng hóa, dịch vụ thông qua sản phẩm và phương tiện quảng cáo để xúc tiến thương mại. 

Thứ hai: QCTM là hoạt động của thương nhân. Trong hoạt động QCTM, chủ thể thực hiện quảng cáo chính là thương nhân. Thương nhân có thể là các doanh nghiệp thuộc mọi hình thức như công ty trách nhiệm hữu hạn, Công ty cổ phần, … Với tư cách là chủ thể kinh doanh, thương nhân thực hiện QCTM để hỗ trợ cho hoạt động kinh doanh của mình hoặc thực hiện dịch vụ quảng cáo cho thương nhân khác theo hợp đồng để tìm kiếm lợi nhuận. Nói cách khác, trong hoạt động QCTM, thương nhân có thể tự mình thực hiện các công việc cần thiết để quảng cáo hoặc thuê dịch vụ quảng cáo của thương nhân khác thông qua hợp đồng dịch vụ. Đặc điểm này giúp phân biệt QCTM với các hoạt động thông tin, cổ động do cơ quan Nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức xã hội… thực hiện nhằm tuyên truyền về đường lối, chủ trương, chính sách kinh tế – xã hội của Đảng và Nhà nước. Về cách thức, QCTM được thương nhân sử dụng bằng nhiều cách thức khác nhau, với phương thức và phương tiện quảng cáo khác nhau để chuyển thông tin về hàng hóa, dịch vụ đến khách hàng. Các hình thức, phương thức QCTM có thể là phương thức quảng cáo truyền thống như quảng cáo bằng bảng, băng rôn, truyền hình… hoặc bằng các phương tiện điện tử như báo điện tử, thư điện tử, điện thoại, email, mạng xã hội… Trong QCTM trên mạng xã hội, việc thực hiện hoạt động QCTM trên mạng xã hội có những đặc điểm cơ bản trên đây. Bên cạnh đó, QCTM trên mạng xã hội cũng có nhiều đặc điểm đặc trưng khác biệt. 

Thứ ba: QCTM thể hiện bản chất của hoạt động quảng cáo nói chung

Bản chất của hoạt động quảng cáo nói chung là sử dụng thông tin về hàng hoá, dịch vụ hoặc về chính người kinh doanh hàng hóa, dịch vụ để quảng bá về hàng hoá dịch vụ đến với khách hàng (là đối tượng tác động của quảng cáo). 

Tóm lại, QCTM được thể hiện qua ba (03) đặc điểm: (i) Hoạt động xúc tiến thương mại; (ii) Hoạt động của thương nhân và (iii) Sử dụng thông tin về hàng hóa, dịch vụ của thương nhân để quảng cáo hàng hóa, dịch vụ đến với khách hàng. 

2.1.2. Khái niệm và đặc điểm của mạng xã hội 

Theo quy định tại Khoản 22 Điều 3 Nghị định số 72/2013 NĐ-CP, “Mạng xã hội là hệ thống cung cấp cho cộng đồng người sử dụng mạng các dịch vụ lưu trữ, cung cấp, sử dụng, tìm kiếm, chia sẻ và trao đổi thông tin với nhau. Bao gồm dịch vụ tạo trang thông tin điện tử cá nhân, diễn đàn (forum), trò chuyện (chat) trực tiếp, chia sẻ âm thanh, hình ảnh và các hình thức dịch vụ tương tự khác”. Mạng xã hội có số lượng người dùng mang tính “phổ cập” với số lượng thông tin được đăng tải rất “khổng lồ”. 

Khác với trang thông tin điện tử tổng hợp, những thông tin đăng tải trên mạng xã hội không hoàn toàn mang tính chính thống. Trong khi trang thông tin điện tử tổng hợp là sản phẩm thông tin có tính chất báo chí của cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, cung cấp thông tin tổng hợp trên cơ sở đăng đường dẫn truy cập tới nguồn tin báo chí hoặc trích dẫn nguyên văn, chính xác nguồn tin báo chí theo quy định của pháp luật về sở hữu trí tuệ. Nguồn tin phải trích từ các trang báo chí đã được cơ quan có liên quan cho phép trích nguồn. Bên cạnh đó, trong khi cơ quan chủ quản của mạng xã hội là các tổ chức, cá nhân trong nước, tổ chức cá nhân nước ngoài, thì cơ quan chủ quản của trang thông tin điện tử tổng hợp là tổ chức, cá nhân Việt Nam. Các nền tảng mạng xã hội như Facebook, Youtube, Zalo… không phải là cơ quan báo chí, trang thông tin điện tử. Vì vậy, ngoài việc chịu sự điều chỉnh của pháp luật thương mại, LQC, QCTM trên mạng xã hội còn chịu sự điều chỉnh của các quy định quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet và thông tin mạng. 

Có thể kể đến một số mạng xã hội nước ngoài có người dùng Việt Nam như[1]: Facebook, Youtube, Twitter, Tiktok… Ngoài ra, các mạng xã hội trong nước do người Việt Nam sáng lập như Zalo, Gapo, Mocha, Biztime… cũng là những mạng xã hội được người Việt Nam sử dụng. 

Từ khái niệm mạng xã hội nói trên, có thể thấy mạng xã hội có các đặc điểm quan trọng là: 

Thứ nhất: Mạng xã hội có tính tương tác cao. Người dùng mạng xã hội có thể chia sẻ thông tin dưới dạng video, hình ảnh, bản ghi âm, bài viết do người dùng sáng tạo ra đến tất cả cộng đồng thông qua mạng xã hội. Đây là mạng lưới gắn kết hiệu quả những người có cùng sở thích, cùng quan điểm hoặc thậm chí cùng nhu cầu tìm kiếm thông tin. Qua đó, người dùng mạng xã hội có thể thực hiện các cuộc thăm dò thị trường, nắm bắt thị hiếu người tiêu dùng về nhu cầu sử dụng hàng hóa, dịch vụ để tiếp tục nâng cao hiệu quả quảng bá sản phẩm. 

Thứ hai: Mạng xã hội có tính lan truyền. Đây là môi trường chia sẻ, tìm kiếm và trao đổi thông tin không bị giới hạn về thời gian và không gian. Lợi thế về tính lan truyền của mạng xã hội giúp cho việc trao đổi thông tin đa chiều của mạng xã hội diễn ra dễ dàng hơn, tuy nhiên hậu quả của đặc điểm này dẫn đến nguy cơ xâm hại quyền đối với thông tin/dữ liệu cá nhân của người tiếp nhận thông tin quảng cáo qua mạng xã hội. 

Đặc điểm này của mạng xã hội ảnh hưởng đến pháp luật về QCTM trên mạng xã hội (trong trường hợp chủ thể quảng cáo lựa chọn mạng xã hội làm phương tiện quảng cáo). Tính lan truyền và tính tương tác cao của mạng xã hội đặt ra các vấn đề về kiểm soát thông tin trong các sản phẩm quảng cáo. Ngoài ra, việc xác định nghĩa vụ đóng thuế, nghĩa vụ bảo mật thông tin người tiếp nhận quảng cáo của chủ thể quảng cáo trên mạng xã hội cũng gặp nhiều khó khăn, bởi lẽ chủ thể quảng cáo trên mạng xã hội còn bao gồm các đơn vị cung cấp dịch vụ quảng cáo xuyên biên giới, các chủ thể này thường đặt máy chủ ở nước ngoài. Vì vậy, pháp luật cần có những thay đổi để vừa phù hợp với tốc độ phát triển và lan truyền thông tin mạng, vừa ràng buộc trách nhiệm của chủ thể quảng cáo, vừa không ảnh hưởng đến tự do dòng chảy dữ liệu và sự phát triển nền kinh tế số. 

Thứ ba: Mạng xã hội có tính cá nhân hóa. Người tham gia mạng xã hội phải có tài khoản riêng và hồ sơ riêng, được kết nối với các tài khoản cá nhân, tổ chức khác khi tương tác với nhau. Chủ các tài khoản mạng xã hội có thể lưu thông tin bài viết, video mà mình tiếp cận được dưới dạng chế độ riêng tư để sử dụng khi cần thiết mà không bắt buộc phải để ở chế độ công khai. Tính cá nhân hóa còn thể hiện ở ý chí của người đăng bài viết, đăng video trên trang cá nhân hoặc trên các tài khoản mạng xã hội. 

Đặc điểm này của mạng xã hội ảnh hưởng đến pháp luật về thương mại điện tử nói chung và pháp luật về QCTM trên mạng xã hội nói riêng trong việc xác định trách nhiệm của cá nhân, chủ các tài khoản mạng xã hội. Với cơ chế cá nhân hóa, cá nhân được quyền tự do phát ngôn, đăng bài phản hồi về chất lượng sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ mà không có bất kỳ một cơ chế quản lý nào trên mạng xã hội. Đặc điểm này dẫn đến hậu quả là những thông tin được các chủ tài khoản mạng xã hội đăng tải chưa thực sự được kiểm soát, nhiều video, bài đăng trên trang cá nhân của người dùng xuất phát từ ý chí tự phát của người dùng mạng xã hội. Chính vì vậy, nhiều thông tin về hàng hóa, dịch vụ không rõ nguồn gốc và không xác thực được tính chính xác của thông tin. Chính vì vậy, vấn đề đặt ra là pháp luật cần hoàn thiện các quy định có liên quan đến xác định trách nhiệm, quyền và nghĩa vụ của cá nhân là chủ các tài khoản mạng xã hội khi tham gia quảng cáo trên mạng xã hội. 

Thứ tư: Mạng xã hội có nhiều dạng thức và tính năng khác nhau. Mạng xã hội có thể được trang bị thêm nhiều công cụ mới, và có thể vận hành trên tất cả các nền tảng như máy tính để bàn, máy tính xách tay, máy tính bảng hay điện thoại thông minh. Mạng xã hội có nhiều tính năng đa dạng như bình luận, chia sẻ, lưu trữ địa chỉ, lưu trữ video, chức năng thu thập ý kiến đánh giá của người dùng, trả lời riêng tư thông qua hộp tin nhắn... Mỗi mạng xã hội khác nhau sẽ có tính năng tương tác khác nhau tùy theo chính sách hướng đến đối tượng người dùng truy cập. 

Tính năng này ảnh hưởng đến pháp luật về QCTM trên mạng xã hội. Khi những phản hồi, đánh giá từ những người chưa từng sử dụng hàng hóa, dịch vụ lên trang cá nhân nhưng những thông tin đó chưa được kiểm chứng, điều này đặt ra yêu cầu cần kiểm soát hành vi quảng cáo của chủ thể là cá nhân trên mạng xã hội. 

Theo Võ Thị Thanh Linh

Link: Tại đây

avatar
Lã Thị Ái Vi
850 ngày trước
Khái niệm, đặc điểm của quảng cáo thương mại trên mạng xã hội
2.1. Khái niệm, đặc điểm của quảng cáo thương mại trên mạng xã hội 2.1.1. Khái niệm và đặc điểm của quảng cáo thương mại Ở Việt Nam, khái niệm QCTM lần đầu tiên được ghi nhận tại Điều 102 LTM 2005, QCTM là: “Hoạt động xúc tiến thương mại của thương nhân để giới thiệu với khách hàng về hoạt động kinh doanh hàng hoá, dịch vụ của mình”. Năm 2012 Quốc hội ban hành LQC 2012, thay thế cho Pháp lệnh quảng cáo 2001. LQC 2012 không đưa ra định nghĩa QCTM mà chỉ đưa ra định nghĩa cho khái niệm “quảng cáo” nói chung tại Khoản 1 Điều 2 của Luật này, theo đó “Quảng cáo là việc sử dụng các phương tiện nhằm giới thiệu đến công chúng sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ có mục đích sinh lợi; sản phẩm, dịch vụ không có mục đích sinh lợi; tổ chức, cá nhân kinh doanh sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ được giới thiệu, trừ tin thời sự; chính sách xã hội; thông tin cá nhân”. Có thể thấy, đối tượng của hoạt động QCTM là hoạt động kinh doanh hàng hoá, dịch vụ có khả năng mang lại lợi nhuận cho tổ chức, cá nhân có mục đích sinh lợi, đây cũng là bản chất của hoạt động QCTM. Nội dung của hoạt động QCTM xét về nghiệp vụ là một trong những hoạt động xúc tiến thương mại, thông qua việc sử dụng các phương tiện quảng cáo khác nhau để giới thiệu cho khách hàng về các sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp. Đều là một trong những hoạt động xúc tiến thương mại, QCTM có điểm khác biệt và giao thoa với hoạt động trưng bày, giới thiệu hàng hóa. Trong QCTM, những thông điệp quảng cáo được thể hiện bằng các hình thức như hình ảnh, âm thanh, tiếng nói, chữ viết… để truyền đạt nội dung thông điệp quảng cáo (bao gồm những nội dung giới thiệu về hàng hóa, dịch vụ mà thương nhân cung ứng). Khác với QCTM, trưng bày, giới thiệu hàng hóa là hoạt động xúc tiến thương mại của thương nhân dùng hàng hóa, dịch vụ và tài liệu về hàng hóa, dịch vụ để giới thiệu với khách hàng về hàng hóa, dịch vụ đó.  Sự khác biệt giữa 2 hoạt động này là: (i) Trưng bày, giới thiệu hàng hóa có ý nghĩa thông tin đến khách hàng bằng chính hàng hóa, dịch vụ và tài liệu về hàng hóa, dịch vụ đó, trong khi QCTM lại sử dụng hình ảnh, âm thanh, tiếng nói… để truyền đạt nội dung quảng cáo về hàng hóa, dịch vụ. (ii) Trưng bày, giới thiệu hàng hóa được tiến hành thông qua các cách thức như: Mở phòng trưng bày, giới thiệu hàng hóa, dịch vụ; Tổ chức trưng bày, giới thiệu hàng hóa, dịch vụ tại các hội chợ, triển lãm; Tổ chức hội nghị, hội thảo có trưng bày, giới thiệu hàng hóa, dịch vụ; Trưng bày, giới thiệu hàng hóa, dịch vụ trên internet và các hình thức khác theo quy định pháp luật. QCTM được thể hiện qua các phương tiện quảng cáo như trên báo chí, trên tin nhắn điện thoại, thư điện tử, trên mạng xã hội… Tuy QCTM và trưng bày giới thiệu hàng hóa khác nhau về cách thức tiến hành nhưng xét về bản chất, trưng bày và giới thiệu hàng hóa là một trong những cách thức của QCTM. Từ khái niệm về QCTM nêu trên, có thể thấy QCTM có những đặc điểm sau đây: Thứ nhất: QCTM trước hết là một hoạt động xúc tiến thương mại. QCTM là hoạt động thương mại mang tính bổ trợ, được thực hiện không phải để trực tiếp tiêu thụ hàng hóa, dịch vụ mà chỉ đóng vai trò thúc đẩy nhóm hành vi mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ thương mại được thực hiện thường xuyên, liên tục. Chỉ khi thương nhân tiến hành hoạt động kinh doanh dịch vụ quảng cáo, thương nhân mới có lợi nhuận trực tiếp, còn lại đa phần các hoạt động QCTM không mang lại lợi nhuận trực tiếp cho thương nhân, tuy nhiên hoạt động này mang tính bổ trợ, thúc đẩy việc trao đổi, mua bán hàng hoá trên thị trường để làm cầu nối cho hoạt động mua bán. Nhờ hoạt động QCTM, người tiếp nhận quảng cáo có kênh để tìm hiểu và tiếp cận thông tin, thương nhân sẽ bán được nhiều hàng hóa, cung ứng được nhiều dịch vụ hơn, từ đó lợi nhuận mà thương nhân thu được cũng sẽ tăng lên. QCTM là hoạt động nhằm giới thiệu hàng hóa, dịch vụ thông qua sản phẩm và phương tiện quảng cáo để xúc tiến thương mại. Thứ hai: QCTM là hoạt động của thương nhân. Trong hoạt động QCTM, chủ thể thực hiện quảng cáo chính là thương nhân. Thương nhân có thể là các doanh nghiệp thuộc mọi hình thức như công ty trách nhiệm hữu hạn, Công ty cổ phần, … Với tư cách là chủ thể kinh doanh, thương nhân thực hiện QCTM để hỗ trợ cho hoạt động kinh doanh của mình hoặc thực hiện dịch vụ quảng cáo cho thương nhân khác theo hợp đồng để tìm kiếm lợi nhuận. Nói cách khác, trong hoạt động QCTM, thương nhân có thể tự mình thực hiện các công việc cần thiết để quảng cáo hoặc thuê dịch vụ quảng cáo của thương nhân khác thông qua hợp đồng dịch vụ. Đặc điểm này giúp phân biệt QCTM với các hoạt động thông tin, cổ động do cơ quan Nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức xã hội… thực hiện nhằm tuyên truyền về đường lối, chủ trương, chính sách kinh tế – xã hội của Đảng và Nhà nước. Về cách thức, QCTM được thương nhân sử dụng bằng nhiều cách thức khác nhau, với phương thức và phương tiện quảng cáo khác nhau để chuyển thông tin về hàng hóa, dịch vụ đến khách hàng. Các hình thức, phương thức QCTM có thể là phương thức quảng cáo truyền thống như quảng cáo bằng bảng, băng rôn, truyền hình… hoặc bằng các phương tiện điện tử như báo điện tử, thư điện tử, điện thoại, email, mạng xã hội… Trong QCTM trên mạng xã hội, việc thực hiện hoạt động QCTM trên mạng xã hội có những đặc điểm cơ bản trên đây. Bên cạnh đó, QCTM trên mạng xã hội cũng có nhiều đặc điểm đặc trưng khác biệt. Thứ ba: QCTM thể hiện bản chất của hoạt động quảng cáo nói chung. Bản chất của hoạt động quảng cáo nói chung là sử dụng thông tin về hàng hoá, dịch vụ hoặc về chính người kinh doanh hàng hóa, dịch vụ để quảng bá về hàng hoá dịch vụ đến với khách hàng (là đối tượng tác động của quảng cáo). Tóm lại, QCTM được thể hiện qua ba (03) đặc điểm: (i) Hoạt động xúc tiến thương mại; (ii) Hoạt động của thương nhân và (iii) Sử dụng thông tin về hàng hóa, dịch vụ của thương nhân để quảng cáo hàng hóa, dịch vụ đến với khách hàng. 2.1.2. Khái niệm và đặc điểm của mạng xã hội Theo quy định tại Khoản 22 Điều 3 Nghị định số 72/2013 NĐ-CP, “Mạng xã hội là hệ thống cung cấp cho cộng đồng người sử dụng mạng các dịch vụ lưu trữ, cung cấp, sử dụng, tìm kiếm, chia sẻ và trao đổi thông tin với nhau. Bao gồm dịch vụ tạo trang thông tin điện tử cá nhân, diễn đàn (forum), trò chuyện (chat) trực tiếp, chia sẻ âm thanh, hình ảnh và các hình thức dịch vụ tương tự khác”. Mạng xã hội có số lượng người dùng mang tính “phổ cập” với số lượng thông tin được đăng tải rất “khổng lồ”. Khác với trang thông tin điện tử tổng hợp, những thông tin đăng tải trên mạng xã hội không hoàn toàn mang tính chính thống. Trong khi trang thông tin điện tử tổng hợp là sản phẩm thông tin có tính chất báo chí của cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, cung cấp thông tin tổng hợp trên cơ sở đăng đường dẫn truy cập tới nguồn tin báo chí hoặc trích dẫn nguyên văn, chính xác nguồn tin báo chí theo quy định của pháp luật về sở hữu trí tuệ. Nguồn tin phải trích từ các trang báo chí đã được cơ quan có liên quan cho phép trích nguồn. Bên cạnh đó, trong khi cơ quan chủ quản của mạng xã hội là các tổ chức, cá nhân trong nước, tổ chức cá nhân nước ngoài, thì cơ quan chủ quản của trang thông tin điện tử tổng hợp là tổ chức, cá nhân Việt Nam. Các nền tảng mạng xã hội như Facebook, Youtube, Zalo… không phải là cơ quan báo chí, trang thông tin điện tử. Vì vậy, ngoài việc chịu sự điều chỉnh của pháp luật thương mại, LQC, QCTM trên mạng xã hội còn chịu sự điều chỉnh của các quy định quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet và thông tin mạng. Có thể kể đến một số mạng xã hội nước ngoài có người dùng Việt Nam như[1]: Facebook, Youtube, Twitter, Tiktok… Ngoài ra, các mạng xã hội trong nước do người Việt Nam sáng lập như Zalo, Gapo, Mocha, Biztime… cũng là những mạng xã hội được người Việt Nam sử dụng. Từ khái niệm mạng xã hội nói trên, có thể thấy mạng xã hội có các đặc điểm quan trọng là: Thứ nhất: Mạng xã hội có tính tương tác cao. Người dùng mạng xã hội có thể chia sẻ thông tin dưới dạng video, hình ảnh, bản ghi âm, bài viết do người dùng sáng tạo ra đến tất cả cộng đồng thông qua mạng xã hội. Đây là mạng lưới gắn kết hiệu quả những người có cùng sở thích, cùng quan điểm hoặc thậm chí cùng nhu cầu tìm kiếm thông tin. Qua đó, người dùng mạng xã hội có thể thực hiện các cuộc thăm dò thị trường, nắm bắt thị hiếu người tiêu dùng về nhu cầu sử dụng hàng hóa, dịch vụ để tiếp tục nâng cao hiệu quả quảng bá sản phẩm. Thứ hai: Mạng xã hội có tính lan truyền. Đây là môi trường chia sẻ, tìm kiếm và trao đổi thông tin không bị giới hạn về thời gian và không gian. Lợi thế về tính lan truyền của mạng xã hội giúp cho việc trao đổi thông tin đa chiều của mạng xã hội diễn ra dễ dàng hơn, tuy nhiên hậu quả của đặc điểm này dẫn đến nguy cơ xâm hại quyền đối với thông tin/dữ liệu cá nhân của người tiếp nhận thông tin quảng cáo qua mạng xã hội. Đặc điểm này của mạng xã hội ảnh hưởng đến pháp luật về QCTM trên mạng xã hội (trong trường hợp chủ thể quảng cáo lựa chọn mạng xã hội làm phương tiện quảng cáo). Tính lan truyền và tính tương tác cao của mạng xã hội đặt ra các vấn đề về kiểm soát thông tin trong các sản phẩm quảng cáo. Ngoài ra, việc xác định nghĩa vụ đóng thuế, nghĩa vụ bảo mật thông tin người tiếp nhận quảng cáo của chủ thể quảng cáo trên mạng xã hội cũng gặp nhiều khó khăn, bởi lẽ chủ thể quảng cáo trên mạng xã hội còn bao gồm các đơn vị cung cấp dịch vụ quảng cáo xuyên biên giới, các chủ thể này thường đặt máy chủ ở nước ngoài. Vì vậy, pháp luật cần có những thay đổi để vừa phù hợp với tốc độ phát triển và lan truyền thông tin mạng, vừa ràng buộc trách nhiệm của chủ thể quảng cáo, vừa không ảnh hưởng đến tự do dòng chảy dữ liệu và sự phát triển nền kinh tế số. Thứ ba: Mạng xã hội có tính cá nhân hóa. Người tham gia mạng xã hội phải có tài khoản riêng và hồ sơ riêng, được kết nối với các tài khoản cá nhân, tổ chức khác khi tương tác với nhau. Chủ các tài khoản mạng xã hội có thể lưu thông tin bài viết, video mà mình tiếp cận được dưới dạng chế độ riêng tư để sử dụng khi cần thiết mà không bắt buộc phải để ở chế độ công khai. Tính cá nhân hóa còn thể hiện ở ý chí của người đăng bài viết, đăng video trên trang cá nhân hoặc trên các tài khoản mạng xã hội. Đặc điểm này của mạng xã hội ảnh hưởng đến pháp luật về thương mại điện tử nói chung và pháp luật về QCTM trên mạng xã hội nói riêng trong việc xác định trách nhiệm của cá nhân, chủ các tài khoản mạng xã hội. Với cơ chế cá nhân hóa, cá nhân được quyền tự do phát ngôn, đăng bài phản hồi về chất lượng sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ mà không có bất kỳ một cơ chế quản lý nào trên mạng xã hội. Đặc điểm này dẫn đến hậu quả là những thông tin được các chủ tài khoản mạng xã hội đăng tải chưa thực sự được kiểm soát, nhiều video, bài đăng trên trang cá nhân của người dùng xuất phát từ ý chí tự phát của người dùng mạng xã hội. Chính vì vậy, nhiều thông tin về hàng hóa, dịch vụ không rõ nguồn gốc và không xác thực được tính chính xác của thông tin. Chính vì vậy, vấn đề đặt ra là pháp luật cần hoàn thiện các quy định có liên quan đến xác định trách nhiệm, quyền và nghĩa vụ của cá nhân là chủ các tài khoản mạng xã hội khi tham gia quảng cáo trên mạng xã hội. Thứ tư: Mạng xã hội có nhiều dạng thức và tính năng khác nhau. Mạng xã hội có thể được trang bị thêm nhiều công cụ mới, và có thể vận hành trên tất cả các nền tảng như máy tính để bàn, máy tính xách tay, máy tính bảng hay điện thoại thông minh. Mạng xã hội có nhiều tính năng đa dạng như bình luận, chia sẻ, lưu trữ địa chỉ, lưu trữ video, chức năng thu thập ý kiến đánh giá của người dùng, trả lời riêng tư thông qua hộp tin nhắn... Mỗi mạng xã hội khác nhau sẽ có tính năng tương tác khác nhau tùy theo chính sách hướng đến đối tượng người dùng truy cập. Tính năng này ảnh hưởng đến pháp luật về QCTM trên mạng xã hội. Khi những phản hồi, đánh giá từ những người chưa từng sử dụng hàng hóa, dịch vụ lên trang cá nhân nhưng những thông tin đó chưa được kiểm chứng, điều này đặt ra yêu cầu cần kiểm soát hành vi quảng cáo của chủ thể là cá nhân trên mạng xã hội. Theo Võ Thị Thanh LinhLink: Tại đây