Chủ thể tham gia hoạt động quảng cáo trên mạng xã hội
3.1. Chủ thể tham gia hoạt động quảng cáo trên mạng xã hội
3.1.1. Quy định của pháp luật hiện hành về chủ thể quảng cáo thương mại trên mạng xã hội
QCTM trên mạng xã hội cũng là một trong các hình thức quảng cáo thương mại, do đó chủ thể tham gia cũng bao gồm 6 nhóm chủ thể theo quy định của pháp luật, bao gồm: Người quảng cáo; Người kinh doanh dịch vụ quảng cáo; Người phát hành quảng cáo; Người chuyển tải sản phẩm quảng cáo; Người tiếp nhận quảng cáo; Nhà nước (là chủ thể quản lý). Tuy vậy, do đặc thù của mạng xã hội nói chung nên ở mỗi nhóm chủ thể sẽ không bao gồm các đối tượng được LQC 2012 liệt kê, mà chỉ bao gồm một vài đối tượng cụ thể. Ví dụ, người phát hành QCTM trên mạng xã hội là các chủ sở hữu các mạng xã hội (ví dụ Youtube có công ty chủ quản là Google LLC, Facebook có công ty chủ quản là Facebook Ads…) hoặc các tổ chức, cá nhân thực hiện quảng cáo; Người chuyển tải sản phẩm QCTM trên mạng xã hội là những người thể hiện quảng cáo thông qua bài đăng, các video… để đánh giá về chất lượng hàng hóa, sản phẩm, dịch vụ đến công chứng, thông thường là những người nổi tiếng, người có tầm ảnh hưởng. Nội dung sau đây làm rõ vai trò (tư cách pháp lý), quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong mối quan hệ pháp luật với các chủ thể khác.
3.1.1.1. Người quảng cáo
LTM 2005 không đưa ra định nghĩa về người quảng cáo. Khoản 5 Điều 2 LQC 2012 thì “Người quảng cáo là tổ chức, cá nhân có yêu cầu quảng cáo sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ của mình hoặc bản thân tổ chức, cá nhân đó”.
Người quảng cáo trên mạng xã hội bao gồm tổ chức và cả cá nhân. Đối với nhóm chủ thể là cá nhân, đây có thể là người có sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ và tự quảng cáo trên trang cá nhân của mình hoặc thông qua dịch vụ quảng cáo của các nền tảng mạng xã hội. Đối với nhóm chủ thể là doanh nghiệp quảng cáo, pháp luật Việt Nam chia thành hai nhóm chính là doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài. Điểm chung là khi các thương nhân này thực hiện hoạt động QCTM thì đều là doanh nghiệp QCTM, tức là người quảng cáo.
Hoạt động quảng cáo trên mạng xã hội làm phát sinh những quan hệ pháp luật giữa người quảng cáo và người kinh doanh dịch vụ quảng cáo, giữa người quảng cáo và người phát hành quảng cáo, giữa người quảng cáo và người tiếp nhận quảng cáo.
Ở mỗi mối quan hệ pháp luật, người quảng cáo có vai trò khác nhau. Các chủ thể khi xác lập quan hệ pháp luật sẽ có quyền và nghĩa vụ qua lại với nhau. Ví dụ, khi người quảng cáo trực tiếp đưa thông tin quảng cáo đến người tiếp nhận quảng cáo trên mạng xã hội, chủ thể này cần đảm bảo các thông tin quảng cáo chính xác, trung thực, tuân thủ các quy định về quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật nhằm đảm bảo quyền lợi người tiếp nhận quảng cáo. Ngoài ra, mối quan hệ pháp luật giữa người quảng cáo và người kinh doanh dịch vụ quảng cáo phát sinh khi người quảng cáo ký hợp đồng thuê người kinh doanh dịch vụ quảng cáo. Trong trường hợp này, người quảng cáo có nghĩa vụ cung cấp thông tin chính xác về hàng hóa, dịch vụ cho người kinh doanh dịch vụ quảng cáo. Việc tham gia vào mối quan hệ pháp luật cụ thể sẽ làm phát sinh nghĩa vụ, trách nhiệm của chủ thể đó đối với Nhà nước trong việc quản lý Nhà nước về vấn đề bảo mật thông tin người tiếp nhận quảng cáo, nghĩa vụ cung cấp thông tin quảng cáo trên mạng xã hội hoặc nghĩa vụ thuế đối với Nhà nước.
Mối quan hệ giữa người quảng cáo với các nhóm chủ thể là người kinh doanh dịch vụ quảng cáo, người phát hành quảng cáo, người tiếp nhận quảng cáo dẫn đến nhu cầu điều chỉnh mối quan hệ pháp luật giữa các chủ thể này. Việc tham gia vào quan hệ pháp luật về quảng cáo trên mạng xã hội của người quảng cáo sẽ làm phát sinh các nghĩa vụ về tài chính đối với Nhà nước.
3.1.1.2. Người kinh doanh dịch vụ quảng cáo thương mại
Trong hoạt động QCTM trên mạng xã hội, chủ thể này được quy định tại khoản 6 Điều 2 LQC 2012 là “tổ chức, cá nhân thực hiện một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình quảng cáo theo hợp đồng cung ứng dịch vụ quảng cáo với người quảng cáo”. LTM 2005 quy định “kinh doanh dịch vụ quảng cáo thương mại là hoạt động thương mại của thương nhân để thực hiện việc QCTM cho thương nhân khác.Theo khái niệm này, người kinh doanh dịch vụ quảng cáo phải là thương nhân, được thành lập và đăng ký cung cấp dịch vụ QCTM.
Người kinh doanh dịch vụ quảng cáo có trên mạng xã hội có thể đảm nhiệm các công đoạn khác nhau của quá trình quảng cáo (ví dụ như đăng tải các thông điệp quảng cáo của người quảng cáo trên các phương tiện khác nhau ở các “vị trí đẹp” của các nền tảng công nghệ như trò chơi, video hoặc các ứng dụng khác). Chủ thể này có thể đảm nhiệm luôn vai trò của người phát hành quảng cáo, hoặc người chuyển tải sản phẩm quảng cáo.
Về nghĩa vụ, chủ thể này có nghĩa vụ thực hiện đúng hợp đồng cung ứng dịch vụ quảng cáo với người quảng cáo, thực hiện nghĩa vụ tài chính với Nhà nước. Đồng thời, phải có trách nhiệm ngăn chặn, gỡ bỏ thông tin vi phạm theo yêu cầu của cơ quan chức năng. Với vai trò là trung gian giữa người quảng cáo và người tiếp nhận quảng cáo, giữa người quảng cáo và người phát hành quảng cáo, người kinh doanh dịch vụ quảng cáo có nghĩa vụ đảm bảo việc cung cấp thông tin quảng cáo chính xác, bên cạnh đó còn phải có nghĩa vụ bảo mật thông tin của người tiếp nhận quảng cáo.
Trên thực tế tại Việt Nam, người kinh doanh dịch vụ quảng cáo gồm có hai nhóm. Một là, doanh nghiệp Việt Nam có đăng ký ngành nghề kinh doanh dịch vụ quảng cáo; Hai là, doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ quảng cáo xuyên biên giới có phát sinh doanh thu tại Việt Nam, đây là loại chủ thể đặc biệt.
Người kinh doanh dịch vụ quảng cáo trên mạng xã hội còn thể hiện dưới hình thức là “mạng lưới quảng cáo”. Mạng lưới quảng cáo bao gồm 2 nhóm, nhóm 1 là các doanh nghiệp có đăng ký kinh doanh dịch vụ quảng cáo (đây chính là người kinh doanh dịch vụ quảng cáo), nhóm 2 là các mạng lưới quảng cáo có thể chỉ phân phối lại quảng cáo từ người quảng cáo sang người phát hành quảng cáo, hoặc làm nhiều việc hơn vừa là người thực hiện quảng cáo, vừa phân phối quảng cáo, vừa phát hành quảng cáo. Ví dụ: Người phát hành quảng cáo đăng ký vào Google Adsense (mạng lưới quảng cáo của Google) để lấy mã quảng cáo và đặt vào các trang web hay trang thông tin cá nhân của mình, từ đó các mã quảng cáo ngẫu nhiên theo thuật toán nhất định của Google sẽ xuất hiện trên các trang web hay trang cá nhân của người phân phối quảng cáo89.
Như vậy, người kinh doanh dịch vụ quảng cáo còn bao gồm chủ thể là các doanh nghiệp nước ngoài thực hiện quảng cáo xuyên biên giới có phát sinh doanh thu quảng cáo tại Việt Nam. Đây là “các trang thông tin điện tử hoạt động từ máy chủ đặt tại nước ngoàicung cấp thông tin quảng cáo cho người sử dụng trên lãnh thổ Việt Nam”, ví dụ Facebook, Google hoạt động QCTM tại Việt Nam. Hoạt động quảng cáo được tiến hành bởi các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ quảng cáo (thông qua mạng lưới quảng cáo) có quốc tịch nước ngoài một cách trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua một doanh nghiệp quảng cáo khác có quốc tịch Việt Nam, việc truyền tải thông điệp quảng cáo một cách xuyên biên giới. Theo đó, tổ chức, cá nhân nước ngoài sẽ tiến hành hoạt động quảng cáo trực tuyến xuyên biên giới cho sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ của tổ chức, cá nhân Việt Nam (hoặc nước ngoài). Hiện nay, LQC 2012, LTM 2005 là các văn bản pháp luật điều chỉnh về hoạt động QCTM, cùng với đó là các văn bản hướng dẫn thi hành như: Nghị định số 181/2013/NĐ-CP, Nghị định số 158/2013/NĐ-CP, Nghị định số 28/2017/NĐ-CP, Nghị định số 38/2021/NĐ-CP,Nghị định số 72/2013/NĐ-CP.
Việc tìm hiểu chủ thể là người kinh doanh dịch vụ QCTM trên mạng xã hội nhằm mục đích xác định nghĩa vụ của chủ thể này trong việc cung cấp thông tin QCTM trên mạng xã hội, nghĩa vụ bảo mật thông tin người tiếp nhận quảng cáo và cả nghĩa vụ đóng thuế cho Nhà nước, đây được coi là nghĩa vụ đặc trưng của doanh nghiệp quảng cáo trong thời đại quảng cáo số.
3.1.1.3. Người phát hành quảng cáo
Người phát hành QCTM theo quy định tại Khoản 7 Điều 2 LQC 2012 là “cá nhân, tổ chức dùng phương tiện quảng cáo thuộc trách nhiệm quản lý của mình để giới thiệu sản phẩm quảng cáo đến công chúng, bao gồm cơ quan báo chí, nhà xuất bản, chủ trang thông tin điện tử, người tổ chức chương trình văn hóa, thể thao và tổ chức, cá nhân sử dụng phương tiện quảng cáo khác”. Điều 115 LTM 2005 quy định: “Người phát hành quảng cáo là người trực tiếp phát hành sản phẩm QCTM”. Căn cứ theo quy định này của LTM 2005, người phát hành QCTM trên mạng xã hội không chỉ là tổ chức quản lý mạng xã hội, mà chủ thể này còn bao gồm người dùng tự quảng cáo sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ. Người phát hành QCTM trên mạng xã hội còn bao gồm trường hợp cá nhân sử dụng mạng xã hội để phát hành quảng cáo, ví dụ, KOL (Key Opinion Leader – Người có tầm ảnh hưởng trong một lĩnh vực nào đó) được hiểu là những người có hoạt động nổi bật trên các trang trực tuyến, đối tượng này được xác định khi có mã số thuế riêng với đăng ký ngành nghề kinh doanh riêng liên quan đến hoạt động này. Ngoài ra, các công ty kinh doanh dịch vụ quảng cáo cũng có thể ký kết hợp hợp đồng dịch vụ hợp tác với nhóm chủ thể này để chủ thể này thực hiện một trong số các công đoạn của quá trình quảng cáo.
Căn cứ theo quy định của LQC 2012 có thể hiểu rằng người phát hành QCTM trên mạng xã hội bao gồm: (i) Các thương nhân, tổ chức, cá nhân tự thiết lập website thương mại điện tử để phục vụ hoạt động xúc tiến thương mại, bán hàng hóa hoặc cung ứng dịch vụ của mình (người sở hữu website thương mại điện tử bán hàng, trò chơi, ứng dụng, video… có thể đặt thông điệp quảng cáo vào đó). (ii) Người phát hành quảng cáo dựa trên nền tảng xã hội được cung cấp thuộc các mạng lưới quảng cáo (ví dụ người sở hữu một tài khoản cá nhân trên facebook dựa trên nền tảng công nghệ của Facebook, người sở hữu một kênh Youtube dựa trên nền tảng công nghệ của Youtube) để phát hành quảng cáo. Nói cách khác, người phát hành quảng cáo trong QCTM trên mạng xã hội là người có “không gian quảng cáo” trên phương tiện của mình để có thể hiển thị quảng cáo của người quảng cáo.
Người phát hành QCTM trên mạng xã hội khó kiểm soát được nội dung quảng cáo. Đặc biệt, khi người phát hành quảng cáo dựa trên các nền tảng mạng xã hội như Youtube, Tiktok, Facebook… thì quá trình kiểm soát thông tin quảng cáo càng khó khăn. Bởi lẻ, thay vì phải ký hợp đồng phát hành quảng cáo với người quảng cáo, người phát hành quảng cáo sẽ lấy mã quảng cáo từ người kinh doanh dịch vụ quảng cáo/ mạng lưới quảng cáo để gắn vào phương tiện quảng cáo do mình quản lý, kể từ thời điểm này, tất cả quảng cáo cùng mã số sẽ được xuất hiện.
Khác với người phát hành quảng cáo trên các phương tiện quảng cáo truyền thống, người phát hành QCTM trên mạng xã hội muốn tạo chú ý cho người tiếp nhận quảng cáo bằng cách tạo ra một không gian quảng cáo thu hút sự chú ý để chủ thể này nhấp chuột vào xem quảng cáo, tuy nhiên nội dung quảng cáo phải hợp pháp theo quy định của pháp luật. Người phát hành quảng cáo phải cùng lúc tuân thủ hai nhóm điều kiện, một là tuân theo pháp luật về sử dụng phương tiện QCTM, thực hiện đúng hợp đồng phát hành QCTM với bên thuê quảng cáo, đồng thời chủ thể này còn tuân thủ các quy định khác của pháp luật có liên quan.
Quan hệ quảng cáo hình thành trên cơ sở hợp đồng phát hành quảng cáo giữa người quảng cáo hoặc người kinh doanh dịch vụ quảng cáo với người phát hành quảng cáo. Người phát hành QCTM trên mạng xã hội có mối quan hệ với người quảng cáo (trong trường hợp người quảng cáo ký hợp đồng phát hành quảng cáo), chủ thể này cũng có mối quan hệ với người kinh doanh dịch vụ quảng cáo (trong trường hợp người kinh doanh dịch vụ quảng cáo là đơn vị môi giới trung gian giữa người quảng cáo và người phát hành quảng cáo). Loại hợp đồng giữa người kinh doanh dịch vụ quảng cáo và người phát hành quảng cáo thường sẽ phổ biến hơn vì người quảng cáo thay vì tự liên hệ với từng nhà phát hành quảng cáo thì có thể thông qua người kinh doanh dịch vụ quảng cáo để chủ thể này liên hệ trực tiếp với các nhà phát hành quảng cáo, bởi lẽ người kinh doanh dịch vụ quảng cáo nắm được nhiều vị trí đặt quảng cáo thuận lợi, họ có thể thu mua trước các “vị trí quảng cáo đẹp” từ những nhà phát hành quảng cáo. Đồng thời, người phát hành quảng cáo có nghĩa vụ quan trọng trong việc cung cấp thông tin, nghĩa vụ bảo mật thông tin và nghĩa vụ bảo đảm quyền từ chối tiếp nhận quảng cáo của người tiếp nhận quảng cáo.
3.1.1.4. Người tiếp nhận quảng cáo
Người tiếp nhận quảng cáo được định nghĩa tại Khoản 9 Điều 2 LQC 2012, theo đó “người tiếp nhận quảng là người tiếp nhận thông tin từ sản phẩm quảng cáo thông qua phương tiện quảng cáo”. Người tiếp nhận quảng cáo không phải là chủ thể thực hiện quảng cáo mà là chủ thể chịu sự tác động từ hoạt động quảng cáo. Chủ thể này được pháp luật bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp như: quyền được từ chối tiếp nhận quảng cáo; quyền được cung cấp thông tin trung thực về chất lượng, tính năng, công dụng của hàng hóa dịch vụ từ phía các chủ thể là người quảng cáo, người kinh doanh dịch vụ quảng cáo, người phát hành quảng cáo; quyền được bồi thường thiệt hại khi sản phẩm hàng hóa không đúng tiêu chuẩn, không đúng chất lượng và tính năng, công dụng, giá cả mà trước đó người quảng cáo, người kinh doanh dịch vụ quảng cáo đã quảng cáo; quyền được cung cấp tài liệu liên quan đến sản phẩm quảng cáo; quyền được tố cáo, khởi kiện dân sự theo quy định của pháp luật, quyền được bảo mật thông tin người tiếp nhận quảng cáo.
Người tiếp nhận QCTM trên mạng xã hội là người tiêu dùng sử dụng phương tiện điện tử để xem quảng cáo hoặc tiếp cận QCTM trên mạng xã hội, bao gồm bất kỳ người dùng Internet nào, trừ khi luật các nước có quy định khác. Tác giả Paul Lansing, Mark D. Halter cũng cho rằng, nếu "dịch vụ truyền thông điện tử" đã được định nghĩa một cách chung nhất là “Internet", thì người dùng web sẽ là "người tiêu dùng" theo ECPA.
Đặt trong ngữ cảnh khi người sử dụng tiếp cận QCTM trên mạng xã hội, có 3 nguyên nhân để khẳng định người sử dụng internet chính là người tiêu dùng: Thứ nhất: Đối với hàng hóa được quảng cáo, người đọc và tiếp cận QCTM trên mạng xã hội có thể là khách hàng tiềm năng và họ có thể chọn mua hàng hóa tại một thời điểm nào đó chứ không nhất thiết đặt hàng ngay tại thời điểm xem quảng cáo; Thứ hai: Đối với QCTM trên mạng xã hội hay đối với chính dịch vụ Internet nói chung thì người truy cập là người tiêu dùng đang sử dụng dịch vụ internet và họ chính là người tiêu dùng của dịch vụ này. Thứ ba: Thực tế nhiều trường hợp, người quảng cáo hoặc các chủ thể có liên quan đã thu thập thông tin về người tiếp nhận quảng cáo bằng nhiều biện pháp khác nhau để sử dụng vào mục đích thương mại, hoặc bán thông tin cho người thứ ba để kiếm lợi nhuận, trong trường hợp này nếu người xem quảng cáo trên internet không được xem là người tiêu dùng thì rất khó để họ được bảo vệ quyền lợi.
Như vậy, trong QCTM trên mạng xã hội, “người tiếp nhận quảng cáo” là người tham gia mạng xã hội trực tiếp xem quảng cáo. Để có cách phân biệt cụ thể với người tiêu dùng nói chung, trong QCTM trên mạng xã hội, NCS cho rằng việc sử dụng thuật ngữ “người tiếp nhận QCTM trên mạng xã hội” hoặc “người dùng” sẽ dễ hiểu hơn. Vì vậy, trong Luận án này, NCS sử dụng thuật ngữ “người tiếp nhận quảng cáo” hoặc “người dùng” để phân tích về bên yếu thế.
Quan hệ pháp luật được xác lập giữa người tiếp nhận quảng cáo và người quảng cáo khi người tiếp nhận quảng cáo mua hàng hóa, sản phẩm hoặc sử dụng dịch vụ được quảng cáo. Quan hệ pháp luật cũng được phát sinh khi người tiếp nhận quảng cáo chịu các thiệt hại do hoạt động QCTM trên mạng xã hội gây ra.
3.1.1.5.Người chuyển tải sản phẩm quảng cáo
LQC 2012 bổ sung thêm phương tiện quảng cáo là “Người chuyển tải sản phẩm quảng cáo”, cũng vì tiếp cận theo hướng “người chuyển tải sản phẩm quảng cáo” là một phương tiện quảng cáo nên LQC 2012 không quy định quyền và nghĩa vụ của nhóm chủ thể này. Theo quy định, “Người chuyển tải sản phẩm quảng cáo là người trực tiếp đưa các sản phẩm quảng cáo đến công chúng hoặc thể hiện sản phẩm quảng cáo trên người thông qua hình thức mặc, treo, gắn, dán, vẽ hoặc các hình thức tương tự”. Mặc dù LQC 2012 tiếp cận đây là phương tiện quảng cáo, tuy nhiên xét về bản chất và mối liên quan của người chuyển tải sản phẩm quảng cáo trong hoạt động QCTM thì có thể thấy đây vừa là phương tiện quảng cáo, vừa là một chủ thể tham gia vào QCTM.
Hiện nay trong QCTM trên mạng xã hội, “người chuyển tải sản phẩm quảng cáo” xuất hiện trong các sản phẩm quảng cáo thường là những người nổi tiếng, người có tầm ảnh hưởng lớn, các chuyên gia y tế tham gia vào quảng cáo (ngoài ra người chuyển tải sản phẩm quảng cáo có thể không thuộc nhóm người nói trên, tức họ là những người bình thường, người dân nhưng đóng vai trò là người chuyển tải sản phẩm quảng cáo) để truyền đạt thông tin về hàng hóa, dịch vụ như một lời khẳng định, sản phẩm này được thử nghiệm hoặc chứng nhận bởi các chủ thể này. Tuy được công nhận là một phương tiện quảng cáo trong LQC 2012, nhưng nếu xét trong mối liên hệ giữa các nhóm chủ thể bao gồm người quảng cáo, người kinh doanh dịch vụ quảng cáo, người phát hành quảng cáo, cơ quan quản lý Nhà nước, thì “người chuyển tải sản phẩm quảng cáo” có mối liên hệ nhất định với những chủ thể nói trên. Cụ thể, QCTM trên mạng xã hội có 6 chủ thể tham gia là người quảng cáo, người kinh doanh dịch vụ quảng cáo/ mạng lưới quảng cáo, người phát hành quảng cáo, cơ quan quản lý Nhà nước, người tiếp nhận quảng cáo. Trong đó, người chuyển tải sản phẩm quảng cáo có mối liên quan với các chủ thể như:
+ Đối với chủ thể là người quảng cáo (doanh nghiệp, cá nhân sở hữu thương hiệu, nhãn hàng nhất định và bỏ chi phí để quảng cáo), người nổi tiếng, người có tầm ảnh hưởng đến xã hội có thể là người chuyển tải sản phẩm quảng cáo khi họ tự tạo ra sản phẩm quảng cáo (tự quảng cáo cho sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ do chính họ là chủ sở hữu, hoặc nhận xét về một sản phẩm, hàng hóa của một thương hiệu, nhãn hàng khác) và trực tiếp chuyển tải sản phẩm quảng cáo đến công chúng.
+ Đối với chủ thể là người kinh doanh dịch vụ quảng cáo, chủ thể này sản xuất ra sản phẩm quảng cáo thể hiện bằng video, hình ảnh, bản ghi âm, banner quảng cáo để quảng cáo. Người nổi tiếng, người có tầm ảnh hưởng đến xã hội có thể tham gia vào một trong các khâu tạo ra sản phẩm quảng cáo này và thực hiện quyền và nghĩa vụ theo đúng hợp đồng với người kinh doanh dịch vụ quảng cáo. Nhóm người này sau khi ký hợp đồng với người quảng cáo, hoặc người kinh doanh dịch vụ quảng cáo để chuyển tải sản phẩm quảng cáo thì họ chỉ đóng vai trò như các diễn viên đọc lời thoại căn cứ trên kịch bản được viết sẵn.
+ Đối với chủ thể là người phát hành quảng cáo, mặc dù chủ thể là người chuyển tải sản phẩm quảng cáo và chủ thể là người phát hành quảng cáo đều là chủ thể đưa sản phẩm quảng cáo đến công chúng, tuy nhiên, người chuyển tải sản phẩm quảng cáo trên mạng xã hội có thể không cần thông qua người phát hành quảng cáo để phát hành quảng cáo mà sẽ trực tiếp chuyển tải sản phẩm quảng cáo tới công chúng.
Nhóm người này có sức ảnh hưởng và có khả năng tác động đến quyết định mua sắm của người tiêu dùng, tuy nhiên quyền và nghĩa vụ, chế tài xử lý vi phạm khi nhóm chủ thể này tham gia quảng cáo lại chưa được quy định rõ ràng. Việc thiếu cơ chế kiểm soát đối với người nổi tiếng, người có tầm ảnh hưởng đến xã hội khi tham gia quảng cáo trên mạng xã hội đã khiến người tiếp nhận quảng cáo đứng trước nhiều thách thức trong việc tiếp nhận thông tin quảng cáo. Vì vậy, nghiên cứu nhằm tìm ra hướng giải pháp điều chỉnh thực trạng nói trên là điều cần thiết nhằm hoàn thiện pháp luật về QCTM trên mạng xã hội.
Theo Võ Thị Thanh Linh
Link: Tại đây