0888889366
Tra cứu thông tin hợp đồng
timeline_post_file64ddda107dbdf-photo-1593115057322-e94b77572f20.jpg

Khái niệm pháp điển hóa

2.1.1. Khái niệm pháp điển hóa 

Thuật ngữ pháp điển hoá đã được sử dụng khá phổ biến trong khoa học lý luận và thực tiễn pháp lý quốc tế. Ở nước ta, pháp điển là một từ Việt cũ, một danh từ dùng để chỉ một bộ luật [129, tr.741], tương tự như chữ “Code” trong tiếng Anh. Bộ luật khác với các văn bản pháp luật khác về quy mô, tính toàn diện, tính hệ thống, tính ổn định và giá trị pháp lý cao của nó. Vì vậy, việc có được những bộ luật lớn, hoàn chỉnh để có thể sử dụng lâu dài, ổn định là mong muốn của nhiều người, nhiều quốc gia. Thực tế lịch sử đã cho thấy, ngay từ thời cổ đại một số quốc gia trên thế giới đã xây dựng thành công những bộ luật lớn mà cho đến ngày nay vẫn được coi là di sản của văn hoá pháp lý thế giới. Ví dụ như: Bộ luật Hamurabi được xây dựng từ thế kỉ 18 trước công nguyên - cách đây gần 4000 năm là một minh chứng điển hình. Xu hướng xây dựng các Bộ luật tổng hợp tiếp tục phát triển khá mạnh mẽ trong những giai đoạn tiếp theo và cho đến nay nhiều nước vẫn tiếp tục quá trình đó, Việt Nam cũng không phải là ngoại lệ. Như vậy, “pháp điển” cần được hiểu là bộ luật, hàm chứa trong đó hệ thống các quy phạm pháp luật do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành để điều chỉnh các quan hệ cụ thể. Từ cách hiểu về “pháp điển”, thuật ngữ “pháp điển hoá” trong tiếng Việt [129, tr.431], “Codification” trong tiếng Anh dùng để thể hiện một khái niệm về một loại hình hoạt động xây dựng và hoàn thiện pháp luật có những đặc thù riêng về phương pháp, nguyên tắc, trình tự, thủ tục và kỹ thuật pháp lý. 

 Pháp điển hóa là một hoạt động lớn và phức tạp. Hiện nay ở hầu hết các nước trên thế giới cũng như ở Việt Nam đã có nhiều cách hiểu và tiếp cận khác nhau về vấn đề này. Có thể, khái lược qua một số quan điểm phổ biến sau: 

          Quan điểm thứ nhất cho rằng: 

“Pháp điển hóa là bước tiếp theo của hệ thống hóa pháp luật và bản chất của nó là chuyển hóa các đạo luật và văn bản quy phạm pháp luật (theo từng lĩnh vực lớn) vào những cuốn tuyển tập lớn gọi là Bộ pháp điển. Công việc pháp điển hóa có quy mô và tầm mức cao hơn hệ thống hóa nhưng không phải nhằm mục đích thông qua những văn bản mới. Pháp điển hóa nhằm tập hợp những văn bản hiện hành nhưng nói đúng hơn là hợp nhất những quy định pháp luật.” [96] 

Quan điểm trên tồn tại chủ yếu ở các nước thuộc hệ thống pháp luật châu Âu lục địa (hệ thống pháp luật Continental hay còn gọi là hệ thống luật Roma – Giecmanh), nơi mà ý tưởng pháp điển hóa có từ rất lâu đời. Tuy nhiên, quan điểm trên cơ bản cũng chỉ mang tính chất tương đối bởi nghiên cứu vào quá trình pháp điển hóa của từng quốc gia trong hệ thống pháp luật châu Âu lục địa thực chất không hoàn toàn giống nhau. Về đại thể, các luật gia châu Âu lục địa coi pháp điển hóa có bản chất là hợp nhất những quy định pháp luật. Bởi theo quan điểm trên, một trong những nguyên tắc cơ bản trong công tác pháp điển hóa là không làm thay đổi nội dung của văn bản. Có lẽ, quan niệm như vậy chưa thực sự đi tới cái đích cuối cùng của pháp điển hóa là nhằm giúp người dân có thể hiểu biết pháp luật một cách đầy đủ nhất. 

Như vậy, theo quan điểm trên thì pháp điển hóa có quy mô và tầm mức cao hơn hệ thống hóa pháp luật và là sự hợp nhất các quy định của pháp luật (của từng lĩnh vực). Tuy nhiên, quan điểm này vẫn còn một số hạn chế, vì thông thường cơ quan pháp điển hóa phải đứng trước một khối lượng lớn các văn bản cần pháp điển, trong khi những văn bản này không đồng nhất về khái niệm, thời gian ban hành, chủ thể ban hành, đối tượng điều chỉnh. Do vậy, nếu tuân theo nguyên tắc không thay đổi nội dung của văn bản thì mục đích của công tác pháp điển hóa là tạo ra những điều kiện tốt nhất cho người sử dụng không đạt được. 

Hơn nữa, bản chất của pháp điển hóa và hợp nhất văn bản pháp luật là không hoàn toàn giống nhau. Cụ thể: 

“Hợp nhất văn bản quy phạm pháp luật hoàn toàn là một thao tác kỹ thuật nhằm xử lý hình thức chứ không phải nội dung của văn bản, vì thế, khi tiến hành hợp nhất, yếu tố kĩ thuật luôn được ưu tiên hơn so với việc phân tích về mặt pháp lý. Người phụ trách hợp nhất không có nghĩa vụ giải thích văn bản pháp luật mà chỉ cập nhật vào văn bản gốc những nội dung đã được sửa đổi theo quy định của pháp luật, không xử lý toàn bộ các văn bản quy phạm pháp luật mà chỉ xử lý văn bản được sửa đổi.” [87, tr.4] 

Vì vậy, công tác hợp nhất văn bản quy phạm pháp luật diễn ra gần như lập tức, ngay sau khi văn bản sửa đổi, bổ sung được thông qua, được công bố và có hiệu lực thi hành. Đây là công việc được tiến hành thường xuyên với phương châm tiết kiệm thời gian và làm gọn nhẹ văn bản để người đọc có trong tay một văn bản quy phạm pháp luật rõ ràng mà không phải tham chiếu đến một văn bản khác. Còn pháp điển hóa được xem là bước cao hơn của hợp nhất. “Khác với hợp nhất, pháp điển hóa là thao tác làm thay đổi nội dung pháp lý của văn bản” [87, tr.4]. Ngoài ra, hoạt động pháp điển hóa chỉ được tiến hành khi có nhu cầu pháp điển chứ không thường xuyên như hoạt động hợp nhất văn bản quy phạm pháp luật. Như vậy, quan niệm thứ nhất về pháp điển hóa còn nhiều điểm chưa phù hợp. 

Quan điểm thứ hai cho rằng: 

“Pháp điển hóa là việc tập hợp các quy định pháp luật hiện hành theo những tiêu chí cụ thể để tạo ra các văn bản quy phạm pháp luật có giá trị ứng dụng cao. Thực chất của công việc pháp điển hóa là cho ra đời, bổ sung, cập nhật thường xuyên các tập án lệ, những tình huống, vụ việc pháp lý cụ thể đã có tiền lệ theo từng lĩnh vực của đời sống.” [96]

Có thể thấy, quan điểm thứ hai tồn tại khá phổ biến ở các nước thuộc hệ thống luật Anglo Sắc xông, hệ thống thông luật – common law, nơi mà ý nghĩa quan trọng hàng đầu thuộc về tố tụng chứ không phải là pháp luật vật chất. Việc xây dựng hệ thống pháp luật theo tinh thần và tư tưởng pháp điển hóa kiểu châu Âu lục địa không được đặt ra (mối liên hệ giữa luật vật chất và luật tố tụng ở đây được diễn tả cô đọng trong câu ngạn ngữ của người Anh “Các hình thức tố tụng đi trước pháp luật”). Như vậy, có thể thấy việc tiến hành pháp điển hóa sẽ phụ thuộc khá lớn vào nguồn luật của mỗi quốc gia. Theo đó, những nước thuộc hệ thống Common Law, với việc chủ yếu sử dụng nguồn luật án lệ (case law) nên có sự khác biệt nhất định với các nước thuộc hệ thống Civil Law. Với quan điểm này, thực chất của pháp điển hóa là hoạt động tập hợp hóa các quy định pháp luật. Tuy nhiên, quan điểm trên chưa thực sự hợp lí. Bởi: 

“Tập hợp hóa là hình thức thu thập và sắp xếp các quy định của pháp luật hoặc các nguồn luật theo những trật tự nhất định như theo chuyên đề, theo ngành quản lý, theo cơ quan ban hành, tên gọi, thời gian ban hành văn bản … thành các tập luật lệ đáp ứng yêu cầu của các chủ thể tập hợp và chủ thể sử dụng.”[120, tr.381-382] 

Trong khi pháp điển hóa là hoạt động có tính sáng tạo được tiến hành theo những trình tự luật định, không những để loại bỏ những văn bản, quy phạm pháp luật lỗi thời mà còn xây dựng, bổ sung những quy phạm pháp luật mới. Kết quả của quá trình pháp điển hóa thường là một văn bản pháp luật mới ra đời hoặc có giá trị pháp lý cao hơn, có phạm vi điều chỉnh rộng hơn, bao quát hơn, có kĩ thuật pháp lý hoàn chỉnh hơn hoặc đáp ứng tất cả các yêu cầu đó. 

Có thể thấy, tập hợp hóa và pháp điển hóa là hai khái niệm không đồng nhất với nhau hoàn toàn, nhưng chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, hỗ trợ cho nhau nhằm đạt được mục đích to lớn là hoàn thiện hệ thống pháp luật. Tập hợp hóa là khâu chuẩn bị cơ sở cần thiết để tiến hành pháp điển hóa và pháp điển hóa cũng chỉ tiến hành thành công khi hoạt động tập hợp hóa được thực hiện đúng đắn. Điều này đòi hỏi các quốc gia khi tiến hành pháp điển hóa cần có sự kết hợp chặt chẽ để có thể phát huy tối đa hiệu quả của hệ thống hóa pháp luật. 

Do vậy, quan điểm về pháp điển hóa nêu trên có chăng chỉ hợp lý với nguồn pháp luật của hệ thống Common Law – chủ yếu sử dụng case law. Trên thực tế, khó có thể phù hợp với các nước thuộc hệ thống Civil Law khi mà nguồn pháp luật thành văn (VBQPPL) được coi trọng. Vì vậy, việc nghiên cứu về pháp điển hóa cần phải được thực hiện trên một bình diện đa chiều. 

Quan điểm thứ ba cho rằng: 

“Pháp điển hóa là quá trình làm cho các văn bản quy phạm pháp luật thống nhất với nhau bằng cách chỉnh lý lại nội dung của chúng. Pháp điển hóa luôn mang tính chất hình thức. Trong quá trình pháp điển hóa những phần quy phạm pháp luật lạc hậu sẽ bị hủy bỏ, các phần của văn bản quy phạm pháp luật được liên kết và sắp xếp theo đầu mục, hình thành nên kết cấu của văn bản đã được pháp điển hóa với nội dung đặc thù của nó.” [2]

 Có thể thấy, quan điểm về pháp điển hóa nêu trên tồn tại khá phổ biến ở một số nước như Nga, Trung Quốc, …Theo đó, bản chất của pháp điển hóa chính là hoạt động chỉnh lý văn bản pháp luật. Tuy nhiên nghiên cứu lý luận cho thấy không nên đồng nhất hai khái niệm này. Bởi: 

“Về thực chất, việc chỉnh lý văn bản là đưa vào văn bản mọi sửa đổi đã được tiến hành, có nghĩa là viết lại văn bản đó trên tinh thần sửa đổi. Đó là một công việc tối thiểu phải làm để mọi người có thể tiếp cận, hiểu rõ hơn thực trạng các văn bản luật và văn bản dưới luật. Tại một số nước, việc pháp điển hóa thực ra chỉ là việc chỉnh lý văn bản.” [51, tr.19] 

 Như vậy, quan điểm nêu trên về pháp điển hóa chưa mang tính toàn diện, chỉ bảo đảm tính chất kĩ thuật, bởi hoạt động chỉnh lý văn bản không phải là một đảm bảo để đưa ra kết quả là một văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh toàn diện quan hệ xã hội cần pháp điển. Do vậy, không nên đồng nhất pháp điển hóa với chỉnh lý văn bản pháp luật. 

          Quan điểm thứ tư cho rằng: 

“Pháp điển là quá trình làm thành một pháp điển (Bộ luật) tức là tập hợp, hệ thống hóa các văn bản pháp luật hiện hành, xem xét nội dung, loại bỏ các điều không còn phù hợp, mâu thuẫn, chồng chéo, bổ sung những điều còn thiếu, những điều cần dự liệu đáp ứng yêu cầu phát triển của các quan hệ xã hội để ban hành thành một Bộ luật.  Nhà nước pháp điển hóa luật hình sự, luật tố tụng hình sự, luật dân sự, luật lao động và ban hành các Bộ luật hữu quan. Pháp điển hóa là hoạt động lập pháp khác với hệ thống hóa pháp luật (hệ thống hóa pháp luật là hoạt động có tính chất chuyên môn hành chính).” [117, tr.364] 

 Nhìn chung, bản chất pháp điển hóa được phân tích trong quan điểm nêu trên chính là xây dựng pháp luật. Đây là quan điểm khá phổ biến trong giới học giả, nhà nghiên cứu ở Việt Nam từ trước đến nay. Tuy nhiên, thiết nghĩ ở một góc độ nào đó nên có sự tách biệt giữa pháp điển hóa và xây dựng pháp luật để tìm hiểu đúng bản chất của hai khái niệm này. Mặc dù mục đích cuối cùng mà pháp điển hóa hướng tới suy cho cùng là để xây dựng một hệ thống pháp luật hoàn thiện, nhưng không có nghĩa là đồng nhất pháp điển hóa với xây dựng pháp luật. 

Nghiên cứu lý luận về hai thuật ngữ này, có thể thấy: 

“Xây dựng pháp luật là quá trình hoạt động vô cùng quan trọng, phức hợp bao gồm nhiều các hoạt động kế tiếp nhau, liên hệ chặt chẽ với nhau, do nhiều tổ chức và các cá nhân có vị trí, vai trò, chức năng, quyền hạn khác nhau cùng tiến hành, nhằm chuyển hóa ý chí nhà nước thành những quy định pháp luật dựa trên những nguyên tắc nhất định và được thể hiện dưới những hình thức pháp lý nhất định mà chủ yếu là văn bản quy phạm pháp luật. Hoạt động xây dựng pháp luật theo nghĩa hẹp chỉ bao gồm hoạt động ban hành pháp luật của các cơ quan, nhà nước, nhà chức trách có thẩm quyền, còn theo nghĩa rộng bao gồm tất cả những hoạt động (của cả nhà nước và xã hội) có liên quan đến việc ban hành pháp luật.” [119, tr.483-484] 

Xây dựng pháp luật được diễn ra theo một quá trình nhất định. Nội dung của hoạt động này thể hiện ở quy trình xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật, bao gồm việc tìm hiểu nhu cầu điều chỉnh pháp luật từ các quan hệ xã hội, việc soạn thảo dự thảo, thảo luận dự thảo, thông qua, công bố, vấn đề hiệu lực và đưa các văn bản đó vào đời sống. Như vậy, về cơ bản khái niệm xây dựng pháp luật rộng hơn khái niệm pháp điển hóa. 

Pháp điển hóa theo cách hiểu nêu trên thì giai đoạn sau được tiến hành bằng phương pháp xây dựng pháp luật, nhưng phải dựa trên nền tảng những văn bản quy phạm pháp luật đã được ban hành điều chỉnh các quan hệ xã hội cần pháp điển, có nghĩa là quan hệ xã hội đó đã được điều chỉnh bằng pháp luật nhưng chưa đầy đủ hoặc chưa được hệ thống. Pháp điển hóa là quá trình hoàn thiện ở mức độ cao về pháp luật điều chỉnh quan hệ xã hội đó. Còn xây dựng pháp luật có thể hiểu là hoạt động ban hành pháp luật để điều chỉnh những quan hệ xã hội nói chung, quan hệ xã hội này có thể đã được điều chỉnh hoặc chưa được điều chỉnh. Đây là điểm khác nhau rất cơ bản của khái niệm pháp điển hóa và khái niệm xây dựng pháp luật. Do vậy, không thể sử dụng thuật ngữ pháp điển hóa để áp dụng cho hoạt động ban hành văn bản QPPL nói chung khi mà quan hệ xã hội đó chưa được điều chỉnh tương đối cơ bản trong các văn bản QPPL đã ban hành trước đó. Vì vậy không nên đồng nhất hai khái niệm này với nhau. 

Tuy nhiên, cũng cần thấy rằng mặc dù hai khái niệm xây dựng pháp luật và pháp điển hóa không đồng nhất với nhau nhưng chúng cũng không tách biệt nhau hoàn toàn. Theo quan niệm thông thường, ở một số nước và Việt Nam thì pháp điển hóa luôn gắn với quy trình lập pháp, do kết quả sau cùng của công tác pháp điển hóa chính là việc ban hành một văn bản mới có thể với tên gọi là bộ luật. 

 Bên cạnh đó ở Việt Nam thuật ngữ pháp điển hóa cũng được giải thích một cách khái quát và được trình bày trong Giáo trình Lý luận nhà nước và pháp luật của một số trường đại học thể hiện như sau: 

“Pháp điển hóa là hình thức các cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiến hành rà soát, tập hợp và sắp xếp các quy định pháp luật đang có hiệu lực (trừ Hiến pháp) thành một chỉnh thể thống nhất, khoa học để tạo thành một văn bản quy phạm pháp luật mới hoặc bộ pháp điển.” [119, tr.488] 

 Như vậy, pháp điển hóa gắn liền với tập hợp hóa và trên cơ sở tập hợp hóa. Không thể pháp điển hóa văn bản quy phạm pháp luật nếu không xuất phát điểm từ công tác tập hợp hóa văn bản quy phạm pháp luật. Việc pháp điển hóa nhằm mục đích ban hành văn bản quy phạm pháp luật bảo đảm tính chặt chẽ, thống nhất để điều chỉnh một nhóm quan hệ xã hội rộng lớn. Tuy nhiên, nếu chỉ dừng lại ở quan điểm về pháp điển hóa như trong Giáo trình của Trường Đại học Luật Hà Nội thì vẫn chưa làm nổi bật được tính đặc thù, sự khác biệt giữa pháp điển hóa với tập hợp hóa. Do vậy, trên tinh thần kế thừa những điểm hợp lý của quan điểm về pháp điển hóa nêu trên cần có sự phát triển thuật ngữ để đạt được mục đích cuối cùng của pháp điển hóa là xây dựng hệ thống pháp luật toàn diện, trật tự sâu sắc. 

 Tóm lại, pháp điển hóa là một hình thức của hệ thống hóa pháp luật, có mối quan hệ chặt chẽ với tập hợp hóa, hợp nhất văn bản pháp luật, chỉnh lý văn bản pháp luật và xây dựng pháp luật. Theo đó: 

Pháp điển hóa là hoạt động cấu trúc, trật tự hóa về nội dung, hình thức đối với hệ thống pháp luật thực định được thực hiện bởi các cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo trình tự, thủ tục, hình thức luật định. Theo đó, nội dung của hoạt động này là phát hiện, loại bỏ các quy định không còn phù hợp; đồng thời thay thế, bổ sung, cập nhật, sắp xếp các quy định pháp luật mới để tạo ra Bộ luật hoặc Bộ pháp điển bảo đảm cho quá trình tổ chức, thực hiện pháp luật được thuận lợi và đạt hiệu quả trên thực tế. 

Như vậy, từ cách hiểu về pháp điển hóa nêu trên, có thể rút ra một số đặc điểm cơ bản sau: 

  • Pháp điển hóa là hoạt động do các chủ thể có thẩm quyền thực hiện.

 Điều này nhằm bảo đảm tính chất chuyên môn hóa của hoạt động pháp điển hóa, góp phần nâng cao chất lượng tiến hành công tác này. Đây cũng là đặc điểm quan trọng giúp chúng ta nhận diện được hoạt động pháp điển hóa với các hoạt động khác như hợp nhất các văn bản quy phạm pháp luật hoặc tập hợp hóa pháp luật. Nếu như hợp nhất các văn bản quy phạm pháp luật hoặc tập hợp hóa pháp luật có thể do bất kì chủ thể nào tiến hành tùy theo nhu cầu, mục đích của họ thì pháp điển hóa là hoạt động đặc biệt bởi chỉ có chủ thể có thẩm quyền hoặc được nhà nước ủy quyền mới có thể tiến hành hoạt động này. Bên cạnh đó, còn có sự tham gia của các loại chủ thể khác trong quá trình thực hiện pháp điển hóa nhưng vai trò chi phối và quyết định cơ bản thuộc về chủ thể có thẩm quyền tiến hành pháp điển hóa. Thực tế tại các quốc gia khác nhau với những đặc thù về kinh tế - xã hội, truyền thống pháp luật, hệ thống pháp luật thực định … mà việc quy định thẩm quyền thực hiện pháp điển hóa sẽ không hoàn toàn giống nhau. 

Theo Phí Thị Thanh Tuyền

Link: Tại đây

 

avatar
Lã Thị Ái Vi
849 ngày trước
Khái niệm pháp điển hóa
2.1.1. Khái niệm pháp điển hóa Thuật ngữ pháp điển hoá đã được sử dụng khá phổ biến trong khoa học lý luận và thực tiễn pháp lý quốc tế. Ở nước ta, pháp điển là một từ Việt cũ, một danh từ dùng để chỉ một bộ luật [129, tr.741], tương tự như chữ “Code” trong tiếng Anh. Bộ luật khác với các văn bản pháp luật khác về quy mô, tính toàn diện, tính hệ thống, tính ổn định và giá trị pháp lý cao của nó. Vì vậy, việc có được những bộ luật lớn, hoàn chỉnh để có thể sử dụng lâu dài, ổn định là mong muốn của nhiều người, nhiều quốc gia. Thực tế lịch sử đã cho thấy, ngay từ thời cổ đại một số quốc gia trên thế giới đã xây dựng thành công những bộ luật lớn mà cho đến ngày nay vẫn được coi là di sản của văn hoá pháp lý thế giới. Ví dụ như: Bộ luật Hamurabi được xây dựng từ thế kỉ 18 trước công nguyên - cách đây gần 4000 năm là một minh chứng điển hình. Xu hướng xây dựng các Bộ luật tổng hợp tiếp tục phát triển khá mạnh mẽ trong những giai đoạn tiếp theo và cho đến nay nhiều nước vẫn tiếp tục quá trình đó, Việt Nam cũng không phải là ngoại lệ. Như vậy, “pháp điển” cần được hiểu là bộ luật, hàm chứa trong đó hệ thống các quy phạm pháp luật do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành để điều chỉnh các quan hệ cụ thể. Từ cách hiểu về “pháp điển”, thuật ngữ “pháp điển hoá” trong tiếng Việt [129, tr.431], “Codification” trong tiếng Anh dùng để thể hiện một khái niệm về một loại hình hoạt động xây dựng và hoàn thiện pháp luật có những đặc thù riêng về phương pháp, nguyên tắc, trình tự, thủ tục và kỹ thuật pháp lý.  Pháp điển hóa là một hoạt động lớn và phức tạp. Hiện nay ở hầu hết các nước trên thế giới cũng như ở Việt Nam đã có nhiều cách hiểu và tiếp cận khác nhau về vấn đề này. Có thể, khái lược qua một số quan điểm phổ biến sau:           Quan điểm thứ nhất cho rằng: “Pháp điển hóa là bước tiếp theo của hệ thống hóa pháp luật và bản chất của nó là chuyển hóa các đạo luật và văn bản quy phạm pháp luật (theo từng lĩnh vực lớn) vào những cuốn tuyển tập lớn gọi là Bộ pháp điển. Công việc pháp điển hóa có quy mô và tầm mức cao hơn hệ thống hóa nhưng không phải nhằm mục đích thông qua những văn bản mới. Pháp điển hóa nhằm tập hợp những văn bản hiện hành nhưng nói đúng hơn là hợp nhất những quy định pháp luật.” [96] Quan điểm trên tồn tại chủ yếu ở các nước thuộc hệ thống pháp luật châu Âu lục địa (hệ thống pháp luật Continental hay còn gọi là hệ thống luật Roma – Giecmanh), nơi mà ý tưởng pháp điển hóa có từ rất lâu đời. Tuy nhiên, quan điểm trên cơ bản cũng chỉ mang tính chất tương đối bởi nghiên cứu vào quá trình pháp điển hóa của từng quốc gia trong hệ thống pháp luật châu Âu lục địa thực chất không hoàn toàn giống nhau. Về đại thể, các luật gia châu Âu lục địa coi pháp điển hóa có bản chất là hợp nhất những quy định pháp luật. Bởi theo quan điểm trên, một trong những nguyên tắc cơ bản trong công tác pháp điển hóa là không làm thay đổi nội dung của văn bản. Có lẽ, quan niệm như vậy chưa thực sự đi tới cái đích cuối cùng của pháp điển hóa là nhằm giúp người dân có thể hiểu biết pháp luật một cách đầy đủ nhất. Như vậy, theo quan điểm trên thì pháp điển hóa có quy mô và tầm mức cao hơn hệ thống hóa pháp luật và là sự hợp nhất các quy định của pháp luật (của từng lĩnh vực). Tuy nhiên, quan điểm này vẫn còn một số hạn chế, vì thông thường cơ quan pháp điển hóa phải đứng trước một khối lượng lớn các văn bản cần pháp điển, trong khi những văn bản này không đồng nhất về khái niệm, thời gian ban hành, chủ thể ban hành, đối tượng điều chỉnh. Do vậy, nếu tuân theo nguyên tắc không thay đổi nội dung của văn bản thì mục đích của công tác pháp điển hóa là tạo ra những điều kiện tốt nhất cho người sử dụng không đạt được. Hơn nữa, bản chất của pháp điển hóa và hợp nhất văn bản pháp luật là không hoàn toàn giống nhau. Cụ thể: “Hợp nhất văn bản quy phạm pháp luật hoàn toàn là một thao tác kỹ thuật nhằm xử lý hình thức chứ không phải nội dung của văn bản, vì thế, khi tiến hành hợp nhất, yếu tố kĩ thuật luôn được ưu tiên hơn so với việc phân tích về mặt pháp lý. Người phụ trách hợp nhất không có nghĩa vụ giải thích văn bản pháp luật mà chỉ cập nhật vào văn bản gốc những nội dung đã được sửa đổi theo quy định của pháp luật, không xử lý toàn bộ các văn bản quy phạm pháp luật mà chỉ xử lý văn bản được sửa đổi.” [87, tr.4] Vì vậy, công tác hợp nhất văn bản quy phạm pháp luật diễn ra gần như lập tức, ngay sau khi văn bản sửa đổi, bổ sung được thông qua, được công bố và có hiệu lực thi hành. Đây là công việc được tiến hành thường xuyên với phương châm tiết kiệm thời gian và làm gọn nhẹ văn bản để người đọc có trong tay một văn bản quy phạm pháp luật rõ ràng mà không phải tham chiếu đến một văn bản khác. Còn pháp điển hóa được xem là bước cao hơn của hợp nhất. “Khác với hợp nhất, pháp điển hóa là thao tác làm thay đổi nội dung pháp lý của văn bản” [87, tr.4]. Ngoài ra, hoạt động pháp điển hóa chỉ được tiến hành khi có nhu cầu pháp điển chứ không thường xuyên như hoạt động hợp nhất văn bản quy phạm pháp luật. Như vậy, quan niệm thứ nhất về pháp điển hóa còn nhiều điểm chưa phù hợp. Quan điểm thứ hai cho rằng: “Pháp điển hóa là việc tập hợp các quy định pháp luật hiện hành theo những tiêu chí cụ thể để tạo ra các văn bản quy phạm pháp luật có giá trị ứng dụng cao. Thực chất của công việc pháp điển hóa là cho ra đời, bổ sung, cập nhật thường xuyên các tập án lệ, những tình huống, vụ việc pháp lý cụ thể đã có tiền lệ theo từng lĩnh vực của đời sống.” [96]Có thể thấy, quan điểm thứ hai tồn tại khá phổ biến ở các nước thuộc hệ thống luật Anglo Sắc xông, hệ thống thông luật – common law, nơi mà ý nghĩa quan trọng hàng đầu thuộc về tố tụng chứ không phải là pháp luật vật chất. Việc xây dựng hệ thống pháp luật theo tinh thần và tư tưởng pháp điển hóa kiểu châu Âu lục địa không được đặt ra (mối liên hệ giữa luật vật chất và luật tố tụng ở đây được diễn tả cô đọng trong câu ngạn ngữ của người Anh “Các hình thức tố tụng đi trước pháp luật”). Như vậy, có thể thấy việc tiến hành pháp điển hóa sẽ phụ thuộc khá lớn vào nguồn luật của mỗi quốc gia. Theo đó, những nước thuộc hệ thống Common Law, với việc chủ yếu sử dụng nguồn luật án lệ (case law) nên có sự khác biệt nhất định với các nước thuộc hệ thống Civil Law. Với quan điểm này, thực chất của pháp điển hóa là hoạt động tập hợp hóa các quy định pháp luật. Tuy nhiên, quan điểm trên chưa thực sự hợp lí. Bởi: “Tập hợp hóa là hình thức thu thập và sắp xếp các quy định của pháp luật hoặc các nguồn luật theo những trật tự nhất định như theo chuyên đề, theo ngành quản lý, theo cơ quan ban hành, tên gọi, thời gian ban hành văn bản … thành các tập luật lệ đáp ứng yêu cầu của các chủ thể tập hợp và chủ thể sử dụng.”[120, tr.381-382] Trong khi pháp điển hóa là hoạt động có tính sáng tạo được tiến hành theo những trình tự luật định, không những để loại bỏ những văn bản, quy phạm pháp luật lỗi thời mà còn xây dựng, bổ sung những quy phạm pháp luật mới. Kết quả của quá trình pháp điển hóa thường là một văn bản pháp luật mới ra đời hoặc có giá trị pháp lý cao hơn, có phạm vi điều chỉnh rộng hơn, bao quát hơn, có kĩ thuật pháp lý hoàn chỉnh hơn hoặc đáp ứng tất cả các yêu cầu đó. Có thể thấy, tập hợp hóa và pháp điển hóa là hai khái niệm không đồng nhất với nhau hoàn toàn, nhưng chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, hỗ trợ cho nhau nhằm đạt được mục đích to lớn là hoàn thiện hệ thống pháp luật. Tập hợp hóa là khâu chuẩn bị cơ sở cần thiết để tiến hành pháp điển hóa và pháp điển hóa cũng chỉ tiến hành thành công khi hoạt động tập hợp hóa được thực hiện đúng đắn. Điều này đòi hỏi các quốc gia khi tiến hành pháp điển hóa cần có sự kết hợp chặt chẽ để có thể phát huy tối đa hiệu quả của hệ thống hóa pháp luật. Do vậy, quan điểm về pháp điển hóa nêu trên có chăng chỉ hợp lý với nguồn pháp luật của hệ thống Common Law – chủ yếu sử dụng case law. Trên thực tế, khó có thể phù hợp với các nước thuộc hệ thống Civil Law khi mà nguồn pháp luật thành văn (VBQPPL) được coi trọng. Vì vậy, việc nghiên cứu về pháp điển hóa cần phải được thực hiện trên một bình diện đa chiều. Quan điểm thứ ba cho rằng: “Pháp điển hóa là quá trình làm cho các văn bản quy phạm pháp luật thống nhất với nhau bằng cách chỉnh lý lại nội dung của chúng. Pháp điển hóa luôn mang tính chất hình thức. Trong quá trình pháp điển hóa những phần quy phạm pháp luật lạc hậu sẽ bị hủy bỏ, các phần của văn bản quy phạm pháp luật được liên kết và sắp xếp theo đầu mục, hình thành nên kết cấu của văn bản đã được pháp điển hóa với nội dung đặc thù của nó.” [2] Có thể thấy, quan điểm về pháp điển hóa nêu trên tồn tại khá phổ biến ở một số nước như Nga, Trung Quốc, …Theo đó, bản chất của pháp điển hóa chính là hoạt động chỉnh lý văn bản pháp luật. Tuy nhiên nghiên cứu lý luận cho thấy không nên đồng nhất hai khái niệm này. Bởi: “Về thực chất, việc chỉnh lý văn bản là đưa vào văn bản mọi sửa đổi đã được tiến hành, có nghĩa là viết lại văn bản đó trên tinh thần sửa đổi. Đó là một công việc tối thiểu phải làm để mọi người có thể tiếp cận, hiểu rõ hơn thực trạng các văn bản luật và văn bản dưới luật. Tại một số nước, việc pháp điển hóa thực ra chỉ là việc chỉnh lý văn bản.” [51, tr.19]  Như vậy, quan điểm nêu trên về pháp điển hóa chưa mang tính toàn diện, chỉ bảo đảm tính chất kĩ thuật, bởi hoạt động chỉnh lý văn bản không phải là một đảm bảo để đưa ra kết quả là một văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh toàn diện quan hệ xã hội cần pháp điển. Do vậy, không nên đồng nhất pháp điển hóa với chỉnh lý văn bản pháp luật.           Quan điểm thứ tư cho rằng: “Pháp điển là quá trình làm thành một pháp điển (Bộ luật) tức là tập hợp, hệ thống hóa các văn bản pháp luật hiện hành, xem xét nội dung, loại bỏ các điều không còn phù hợp, mâu thuẫn, chồng chéo, bổ sung những điều còn thiếu, những điều cần dự liệu đáp ứng yêu cầu phát triển của các quan hệ xã hội để ban hành thành một Bộ luật.  Nhà nước pháp điển hóa luật hình sự, luật tố tụng hình sự, luật dân sự, luật lao động và ban hành các Bộ luật hữu quan. Pháp điển hóa là hoạt động lập pháp khác với hệ thống hóa pháp luật (hệ thống hóa pháp luật là hoạt động có tính chất chuyên môn hành chính).” [117, tr.364]  Nhìn chung, bản chất pháp điển hóa được phân tích trong quan điểm nêu trên chính là xây dựng pháp luật. Đây là quan điểm khá phổ biến trong giới học giả, nhà nghiên cứu ở Việt Nam từ trước đến nay. Tuy nhiên, thiết nghĩ ở một góc độ nào đó nên có sự tách biệt giữa pháp điển hóa và xây dựng pháp luật để tìm hiểu đúng bản chất của hai khái niệm này. Mặc dù mục đích cuối cùng mà pháp điển hóa hướng tới suy cho cùng là để xây dựng một hệ thống pháp luật hoàn thiện, nhưng không có nghĩa là đồng nhất pháp điển hóa với xây dựng pháp luật. Nghiên cứu lý luận về hai thuật ngữ này, có thể thấy: “Xây dựng pháp luật là quá trình hoạt động vô cùng quan trọng, phức hợp bao gồm nhiều các hoạt động kế tiếp nhau, liên hệ chặt chẽ với nhau, do nhiều tổ chức và các cá nhân có vị trí, vai trò, chức năng, quyền hạn khác nhau cùng tiến hành, nhằm chuyển hóa ý chí nhà nước thành những quy định pháp luật dựa trên những nguyên tắc nhất định và được thể hiện dưới những hình thức pháp lý nhất định mà chủ yếu là văn bản quy phạm pháp luật. Hoạt động xây dựng pháp luật theo nghĩa hẹp chỉ bao gồm hoạt động ban hành pháp luật của các cơ quan, nhà nước, nhà chức trách có thẩm quyền, còn theo nghĩa rộng bao gồm tất cả những hoạt động (của cả nhà nước và xã hội) có liên quan đến việc ban hành pháp luật.” [119, tr.483-484] Xây dựng pháp luật được diễn ra theo một quá trình nhất định. Nội dung của hoạt động này thể hiện ở quy trình xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật, bao gồm việc tìm hiểu nhu cầu điều chỉnh pháp luật từ các quan hệ xã hội, việc soạn thảo dự thảo, thảo luận dự thảo, thông qua, công bố, vấn đề hiệu lực và đưa các văn bản đó vào đời sống. Như vậy, về cơ bản khái niệm xây dựng pháp luật rộng hơn khái niệm pháp điển hóa. Pháp điển hóa theo cách hiểu nêu trên thì giai đoạn sau được tiến hành bằng phương pháp xây dựng pháp luật, nhưng phải dựa trên nền tảng những văn bản quy phạm pháp luật đã được ban hành điều chỉnh các quan hệ xã hội cần pháp điển, có nghĩa là quan hệ xã hội đó đã được điều chỉnh bằng pháp luật nhưng chưa đầy đủ hoặc chưa được hệ thống. Pháp điển hóa là quá trình hoàn thiện ở mức độ cao về pháp luật điều chỉnh quan hệ xã hội đó. Còn xây dựng pháp luật có thể hiểu là hoạt động ban hành pháp luật để điều chỉnh những quan hệ xã hội nói chung, quan hệ xã hội này có thể đã được điều chỉnh hoặc chưa được điều chỉnh. Đây là điểm khác nhau rất cơ bản của khái niệm pháp điển hóa và khái niệm xây dựng pháp luật. Do vậy, không thể sử dụng thuật ngữ pháp điển hóa để áp dụng cho hoạt động ban hành văn bản QPPL nói chung khi mà quan hệ xã hội đó chưa được điều chỉnh tương đối cơ bản trong các văn bản QPPL đã ban hành trước đó. Vì vậy không nên đồng nhất hai khái niệm này với nhau. Tuy nhiên, cũng cần thấy rằng mặc dù hai khái niệm xây dựng pháp luật và pháp điển hóa không đồng nhất với nhau nhưng chúng cũng không tách biệt nhau hoàn toàn. Theo quan niệm thông thường, ở một số nước và Việt Nam thì pháp điển hóa luôn gắn với quy trình lập pháp, do kết quả sau cùng của công tác pháp điển hóa chính là việc ban hành một văn bản mới có thể với tên gọi là bộ luật.  Bên cạnh đó ở Việt Nam thuật ngữ pháp điển hóa cũng được giải thích một cách khái quát và được trình bày trong Giáo trình Lý luận nhà nước và pháp luật của một số trường đại học thể hiện như sau: “Pháp điển hóa là hình thức các cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiến hành rà soát, tập hợp và sắp xếp các quy định pháp luật đang có hiệu lực (trừ Hiến pháp) thành một chỉnh thể thống nhất, khoa học để tạo thành một văn bản quy phạm pháp luật mới hoặc bộ pháp điển.” [119, tr.488]  Như vậy, pháp điển hóa gắn liền với tập hợp hóa và trên cơ sở tập hợp hóa. Không thể pháp điển hóa văn bản quy phạm pháp luật nếu không xuất phát điểm từ công tác tập hợp hóa văn bản quy phạm pháp luật. Việc pháp điển hóa nhằm mục đích ban hành văn bản quy phạm pháp luật bảo đảm tính chặt chẽ, thống nhất để điều chỉnh một nhóm quan hệ xã hội rộng lớn. Tuy nhiên, nếu chỉ dừng lại ở quan điểm về pháp điển hóa như trong Giáo trình của Trường Đại học Luật Hà Nội thì vẫn chưa làm nổi bật được tính đặc thù, sự khác biệt giữa pháp điển hóa với tập hợp hóa. Do vậy, trên tinh thần kế thừa những điểm hợp lý của quan điểm về pháp điển hóa nêu trên cần có sự phát triển thuật ngữ để đạt được mục đích cuối cùng của pháp điển hóa là xây dựng hệ thống pháp luật toàn diện, trật tự sâu sắc.  Tóm lại, pháp điển hóa là một hình thức của hệ thống hóa pháp luật, có mối quan hệ chặt chẽ với tập hợp hóa, hợp nhất văn bản pháp luật, chỉnh lý văn bản pháp luật và xây dựng pháp luật. Theo đó: Pháp điển hóa là hoạt động cấu trúc, trật tự hóa về nội dung, hình thức đối với hệ thống pháp luật thực định được thực hiện bởi các cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo trình tự, thủ tục, hình thức luật định. Theo đó, nội dung của hoạt động này là phát hiện, loại bỏ các quy định không còn phù hợp; đồng thời thay thế, bổ sung, cập nhật, sắp xếp các quy định pháp luật mới để tạo ra Bộ luật hoặc Bộ pháp điển bảo đảm cho quá trình tổ chức, thực hiện pháp luật được thuận lợi và đạt hiệu quả trên thực tế. Như vậy, từ cách hiểu về pháp điển hóa nêu trên, có thể rút ra một số đặc điểm cơ bản sau: Pháp điển hóa là hoạt động do các chủ thể có thẩm quyền thực hiện. Điều này nhằm bảo đảm tính chất chuyên môn hóa của hoạt động pháp điển hóa, góp phần nâng cao chất lượng tiến hành công tác này. Đây cũng là đặc điểm quan trọng giúp chúng ta nhận diện được hoạt động pháp điển hóa với các hoạt động khác như hợp nhất các văn bản quy phạm pháp luật hoặc tập hợp hóa pháp luật. Nếu như hợp nhất các văn bản quy phạm pháp luật hoặc tập hợp hóa pháp luật có thể do bất kì chủ thể nào tiến hành tùy theo nhu cầu, mục đích của họ thì pháp điển hóa là hoạt động đặc biệt bởi chỉ có chủ thể có thẩm quyền hoặc được nhà nước ủy quyền mới có thể tiến hành hoạt động này. Bên cạnh đó, còn có sự tham gia của các loại chủ thể khác trong quá trình thực hiện pháp điển hóa nhưng vai trò chi phối và quyết định cơ bản thuộc về chủ thể có thẩm quyền tiến hành pháp điển hóa. Thực tế tại các quốc gia khác nhau với những đặc thù về kinh tế - xã hội, truyền thống pháp luật, hệ thống pháp luật thực định … mà việc quy định thẩm quyền thực hiện pháp điển hóa sẽ không hoàn toàn giống nhau. Theo Phí Thị Thanh TuyềnLink: Tại đây