Bình luận Án lệ số 32/2020/AL
Bình luận Án lệ số 32/2020/AL Về trường hợp đất do cá nhân khai phá nhưng sau đó xuất cảnh định cư ở nước ngoài và người khác đã quản lý, sử dụng ổn định, lâu dài
Theo quy định của Luật Đất đai năm 1987 , 1993 thì ”Nhà nước khuyến khích người sử dụng đất đầu tư lao động, vật tư, tiền vốn và áp dụng các thành tựu khoa học - kỹ thuật vào việc khai hoang, vỡ hóa, lấn biển, phủ xanh đất trống, đồi núi trọc, đất cồn cát ven biển để mở rộng diện tích đất sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản và làm muối.”
Khoản 1, khoản 4 Điều 50 Luật Đất đai năm 2003 quy định:
“1. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất ổn định, được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận không có tranh chấp mà có một trong các loại giấy tờ sau đây thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và không phải nộp tiền sử dụng đất:
a) Những giấy tờ về quyền được sử dụng đất đai trước ngày 15 tháng 10 năm 1993 do cơ quan có thẩm quyền cấp trong quá trình thực hiện chính sách đất đai
của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam;
b) Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tạm thời được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp hoặc có tên trong sổ đăng ký ruộng đất, sổ địa chính;
c) Giấy tờ hợp pháp về thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất hoặc tài sản gắn liền với đất; giấy tờ giao nhà tình nghĩa gắn liền với đất;
d) Giấy tờ chuyển nhượng quyền sử dụng đất, mua bán nhà ở gắn liền với đất ở trước ngày 15 tháng 10 năm 1993, nay được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận là đã sử dụng trước ngày 15 tháng 10 năm 1993;
đ) Giấy tờ về thanh lý, hoá giá nhà ở gắn liền với đất ở theo quy định của pháp luật;
e) Giấy tờ do cơ quan có thẩm quyền thuộc chế độ cũ cấp cho người sử dụng đất. 4. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất không có các loại giấy tờ quy định tại khoản 1 Điều này nhưng đất đã được sử dụng ổn định từ trước ngày 15 tháng 10 năm 1993, nay được Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận là đất không có tranh chấp, phù hợp với quy hoạch sử dụng đất đã được xét duyệt đối với nơi đã có quy hoạch sử dụng đất thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và không phải nộp tiền sử dụng đất.”
Như vậy, có thế thấy chính sách của Nhà nước đối với đất khai hoang qua các thời kỳ đều được thể hiện một cách nhất quán là nhà nước công nhận quyền sử dụng đất nông nghiệp đối với diện tích đất khai hoang trong hạn mức nếu đất đó được sử dụng ổn định lâu dài, phù hợp với quy hoạch sử dụng đất đã được xét duyệt, không có tranh chấp. Trường hợp đất không có một trong các giấy tờ quy định tại khoản 1 Điều 50 Luật Đất đai nêu trên nhưng đất đó vẫn đang sử dụng ổn định từ trước ngày 15/10/1993, được Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận là đất không có 8 tranh chấp, phù hợp với quy hoạch sử dụng đất đã được xét duyệt đối với nơi đã có quy hoạch sử dụng đất thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Tuy nhiên, nếu đất có nguồn gốc do cá nhân khai phá nhưng sau đó họ đi định cư ở nước ngoài, không quản lý, sử dụng mà người khác đã quản lý, sử dụng đất ổn định lâu dài, đến nay, người khai phá đất quay về đòi lại đất thì người đang sử dụng đất có phải trả lại đất cho người khai phá không?
Luật đất đai chưa quy định rõ tình huống này sẽ được giải quyết như thế nào nên dẫn đến những cách giải quyết khác nhau trong thực tiễn xét xử. Có Tòa án chấp nhận yêu cầu đòi lại quyền sử dụng đất của người khai phá đất; có Tòa án cho rằng người khai phá đất hiện không còn quyền sử dụng hợp pháp đối với diện tích đất mà họ đã khai phá nên không chấp nhận yêu cầu đòi lại quyền sử dụng đất của họ. Để áp dụng thống nhất pháp luật và làm căn cứ để giải quyết các vụ việc có tình huống pháp lý tương tự về sau thì việc Tòa án nhân dân tối cao công bố Án lệ số 32/2020/AL về trường hợp đất do cá nhân khai phá nhưng sau đó xuất cảnh định cư ở nước ngoài và người khác đã quản lý, sử dụng ổn định, lâu dài là hết sức cần thiết.
Click vào đây để xem nội dung chi tiết Án lệ số 32/2020/AL