THỰC TIỄN CÔNG NHẬN VÀ CHO THI HÀNH PHÁN QUYẾT TRỌNG TÀI NƯỚC NGOÀI TẠI V
Khó khăn trong quá trình áp dụng pháp luật
1.1. Khó khăn từ phía cơ quan tiến hành tố tụng
- Công nhận và cho thi hành tại Việt Nam phán quyết của trọng tài nước ngoài là một thủ tục tố tụng đặc biệt do tòa án tiến hành nhằm xem xét để công nhận tính hiệu lực của phán định trọng tài nước ngoài trên phạm vi lãnh thổ của Việt Nam.
Tuy nhiên, ranh giới giữa việc xem xét các yêu cầu để ra quyết định có công nhận phán quyết trọng tài hay không với việc xem xét nội dung của phán quyết trong nhiều trường hợp khó phân biệt rõ ràng như căn cứ liên quan đến năng lực của các bên, hiệu lực của thỏa thuận trọng tài hoặc vi phạm các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam.
Theo thống kê số liệu giai đoạn báo cáo từ ngày 01/02/2012 đến ngày 30/9/2019 (của 55/66 Tòa án thực hiện báo cáo) có 33 yêu cầu công nhận và cho thi hành phán quyết trọng tài nước ngoài không được tòa án thụ lý giải quyết; 84 vụ việc thu thập được các quyết định giải quyết và đưa ra kết quả giải quyết tập trung ở các tòa án Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương, Long An (Tòa án Hà Nội: 15 vụ việc; Tòa án Hồ Chí Minh: 38 vụ việc; Tòa án Bình Dương: 5 vụ việc; Tòa án Long An: 5 vụ việc) trong đó 39 vụ việc được công nhận và cho thi hành, 33 vụ việc không được công nhận, 12 vụ việc đình chỉ giải quyết.
Việc Tòa án không công nhận và cho thi hành phán quyết trọng tài nước ngoài tại Việt Nam thường dựa vào các lý do như: (i) các bên tham gia thỏa thuận trọng tài không có năng lực để ký thỏa thuận; (ii) cá nhân, tổ chức có nghĩa vụ thi hành không được thông báo kịp thời các thông tin hoặc không thể tham gia thực hiện quyền tố tụng của mình với lý do chính đáng; (iii) việc công nhận và cho thi hành là trái với nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam.
Những bất cập nêu trên xuất phát từ những nguyên nhân sau đây:
Thứ nhất, chưa có văn bản hướng dẫn thống nhất về xác định người phải thi hành, nguyên tắc có đi có lại, căn cứ hủy phán quyết và từ chối công nhận do vi phạm nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam.
Thứ hai, cách hiểu và áp dụng Công ước của các tòa án không được thống nhất (có tòa án sẽ đánh giá quyết định của trọng tài nước ngoài so với quy định của Công ước và Bộ luật TTDS; có toà án lại không đề cập gì đến Công ước hoặc có tòa án chỉ nhắc đến tên Công ước mà không có phân tích gì thêm).
Thứ ba, công tác tổng kết, rà soát, đánh giá, đôn đốc việc công nhận và cho thi hành phán quyết trọng tài cũng như thực hiện Công ước chưa được quan tâm đúng mức.
1.2. Khó khăn trong hoạt động thực tiễn của các luật sư (Đề nghị Luật sư tham gia thảo luận).
a. Những điều cần lưu ý
Phán quyết trọng tài là quyết định giải quyết toàn bộ tranh chấp và chấm dứt tố tụng trọng tài (khác với Quyết định trọng tài là quyết định được ban hành trong quá trình giải quyết tranh chấp). Theo cuốn hướng dẫn của Hội đồng quốc tế về trọng tài thương mại (viết tắt là ICCa) diễn giải Công ước 1958 có viết “Thể thức trọng tài là một phương thức giải quyết tranh chấp trong đó các bên thống nhất đưa tranh chấp ra một bên thứ ba là bên sẽ đưa ra quyết định chung thẩm và có tính ràng buộc thay vì đưa ra Tòa án”. Như vậy, phán quyết trọng tài có 3 đặc điểm: (1) Có sự đồng thuận dựa trên thỏa thuận của các bên; (2) là biện pháp giải quyết tranh chấp có tính chất chung thẩm (có hiệu lực pháp luật ngay) và ràng buộc các bên; (3) là phương thức thay thế tố tụng tại Tòa án. Theo pháp luật Việt Nam thì:
- Quyết định trọng tài là quyết định của Hội đồng trọng tài trong quá trình giải quyết tranh chấp (khoản 9 Điều 3 Luật TTTM);
- Phán quyết trọng tài là quyết định của Hội đồng trọng tài giải quyết toàn bộ nội dung vụ tranh chấp và chấm dứt tố tụng trọng tài (khoản 10 Điều 3 Luật TTTM) và khoản 2 Điều 424 BLTTDS nĕm 2015 quy định ”Phán quyết của Trọng tài nước ngoài quy định tại khoản 1 Điều này được xem xét công nhận và cho thi hành tại Việt Nam là phán quyết cuối cùng của Hội đồng trọng tài giải quyết toàn bộ nội dung vụ tranh chấp, chấm dứt tố tụng trọng tài và có hiệu lực thi hành”;
- Trọng tài nước ngoài là Trọng tài được thành lập theo quy định của pháp luật trọng tài nước ngoài do các bên thỏa thuận lựa chọn để tiến hành giải quyết tranh chấp ở ngoài lãnh thổ Việt Nam hoặc trong lãnh thổ Việt Nam (khoản 11 Điều 3 Luật TTTM);
- Phán quyết của trọng tài nước ngoài là phán quyết do Trọng tài nước ngoài tuyên ở ngoài lãnh thổ Việt Nam hoặc ở trong lãnh thổ Việt Nam để giải quyết tranh chấp do các bên thỏa thuận lựa chọn (khoản 12 Điều 3 Luật TTTM);
- Phán quyết của trọng tài nước ngoài được Tòa án Việt Nam công nhận và cho thi hành tại Việt Nam có “hiệu lực pháp luật” như quyết định của Tòa án của Việt Nam có hiệu lực pháp luật;
- Khi Tòa án được yêu cầu công nhận phán quyết trọng tài, Tòa án không chỉ được yêu cầu công nhận hiệu lực pháp lý của phán quyết, mà còn phải đảm bảo phán quyết đó được thi hành. BLTTDS quy định rằng phán quyết được công nhận sẽ được thi hành theo thủ tục thi hành án dân sự và chỉ được thi hành sau khi có quyết định của Tòa án Việt Nam công nhận và cho thi hành phán quyết của trọng tài nước ngoài có hiệu lực pháp luật. (Điều 427 BLTTDS).
Do vậy, công nhận và cho thi hành tại Việt Nam phán quyết của trọng tài nước ngoài là một thủ tục tố tụng đặc biệt do Tòa án tiến hành nhằm xem xét để công nhận tính hiệu lực của phán định trọng tài nước ngoài trên phạm vi lãnh thổ của Việt Nam.
b. Nguyên tắc công nhận và cho thi hành
- Trên cơ sở Công ước New York 1958, khi gia nhập Việt Nam đã giới hạn phạm vi áp dụng của Công ước New York 1958 tại Quyết định số 453/QĐ-CTN ngày 28-71995 của Chủ tịch nước về việc tham gia Công ước New York 1958. Theo quy định tại Điều 2 của Quyết định số 453/QĐ- CTN ngày 28-7-1995 của Chủ tịch nước về việc tham gia Công ước New York 1958 thì Việt Nam đưa ra 3 điều bảo lưu cơ bản đó là:
+ Công ước chỉ áp dụng đối với việc công nhận và thi hành tại Việt Nam quyết định của Trọng tài nước ngoài được tuyên tại lãnh thổ của các quốc gia thành viên của Công ước; đối với quyết định của Trọng tài nước ngoài tuyên tại lãnh thổ của quốc gia chưa ký kết hoặc tham gia Công ước, Công ước được áp dụng tại Việt Nam theo nguyên tắc có đi có lại.
+ Chỉ áp dụng Công ước đối với tranh chấp phát sinh từ các quan hệ pháp luật thương mại.
+ Mọi sự giải thích Công ước trước Toà án hoặc cơ quan có thẩm quyền khác của Việt Nam phải tuân theo các quy định của Hiến pháp và pháp luật Việt Nam.
Tại khoản 3 Điều 2 BLTTDS năm 2015 quy định: ”Bộ luật tố tụng dân sự được áp dụng đối với việc giải quyết vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài; trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế đó”.
- Theo quy định tại Điều 424 BLTTDS năm 2015 thì Toà án Việt Nam xem xét đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam phán quyết của Trọng tài nước ngoài theo 2 nguyên tắc cơ bản:
Thứ nhất, dựa trên cơ sở điều ước quốc tế: Phán quyết của Trọng tài nước ngoài mà nước đó và Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam cùng là thành viên của điều ước quốc tế về công nhận và cho thi hành phán quyết của Trọng tài nước ngoài (điểm a khoản 1 Điều 424 BLTTDS);
Thứ hai, dựa trên nguyên tắc có đi có lại: Phán quyết của Trọng tài nước ngoài không thuộc trường hợp quy định tại điểm a khoản này trên cơ sở nguyên tắc có đi có lại” (điểm b khoản 1 Điều 424 BLTTDS)./.
*************
THỦ TỤC THI HÀNH PHÁN QUYẾT CỦA TRỌNG TÀI NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM
- Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh -
Trong nền kinh tế thị trường hội nhập sâu rộng như hiện nay, các tranh chấp thương mại phát sinh là một điều không thể tránh khỏi. Để giải quyết các tranh chấp đó, chúng ta được lựa chọn nhiều phương pháp như thương lượng, hoà giải, Toà án, Trọng tài,… Hiện nay, giải quyết tranh chấp bằng trọng tài là một phương thức ngày càng trở nên phổ biến đối với các tranh chấp thương mại, nhất là đối với các hoạt động kinh doanh thương mại xuyên quốc gia bởi các đặc tính ưu việt của phương thức này như nhanh chóng, bảo mật, linh hoạt.
Tuy nhiên, hiệu quả giải quyết tranh chấp bằng phương thức trọng tài còn phụ thuộc vào sự thừa nhận giá trị pháp lý và đảm bảo thi hành của quyền lực quốc gia. Sự đảm bảo này đặc biệt có ý nghĩa đối với các phán quyết trọng tài trong các tranh chấp thương mại quốc tế bởi các bên trong tranh chấp, địa điểm giải quyết tranh chấp, tài sản thực hiện phán quyết trọng tài,.. ở những quốc gia khác nhau.
1. Những vấn đề chung
Điều 67 Luật Trọng tài thương mại quy định: Phán quyết trọng tài được thi hành theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự (THADS). Luật THADS và các văn bản hướng dẫn thi hành không có quy định riêng về việc thi hành các phán quyết, quyết định (gọi chung là phán quyết) của trọng tài thương mại nói chung và các phán quyết của trọng tài nước ngoài nói riêng. Do đó, trình tự, thủ tục thi hành các phán quyết của trọng tài nước ngoài tại Việt Nam được thực hiện theo các trình tự, thủ tục chung theo quy định của Luật THADS như bản án, quyết định của Toà án mà không có sự phân biệt.
Tuy nhiên, một khi phán quyết của trọng tài được xác định là của trọng tài nước ngoài thì phán quyết đó chưa thể được thi hành ngay theo pháp luật về THADS mà trước hết, phán quyết đó phải được Toà án Việt Nam công nhận và cho thi hành tại Việt Nam. Vậy, khi nào phán quyết được xác định là của trọng tài nước ngoài?
Theo quy định của Luật Trọng tài thương mại thì phán quyết của trọng tài nước ngoài là phán quyết do Trọng tài nước ngoài tuyên ở ngoài lãnh thổ Việt Nam hoặc ở trong lãnh thổ Việt Nam để giải quyết tranh chấp do các bên thoả thuận lựa chọn. Cũng theo quy định của Luật Trọng tài thương mại thì Trọng tài nước ngoài là Trọng tài được thành lập theo quy định của pháp luật trọng tài nước ngoài do các bên thoả thuận lựa chọn để tiến hành giải quyết tranh chấp ở ngoài lãnh thổ Việt Nam hoặc trong lãnh thổ Việt Nam. Như vậy, theo quy định của pháp luật Việt Nam thì cơ sở để xác định phán quyết là của trọng tài nước ngoài là căn cứ vào chủ thể tuyên phán quyết (Trọng tài tuyên phán quyết được thành lập theo quy định của pháp luật trọng tài nước ngoài), bất kể địa điểm tuyên phán quyết ở đâu (trong hoặc ngoài lãnh thổ Việt Nam).
2. Tiếp nhận yêu cầu thi hành án và ra quyết định thi hành án
2.1. Tiếp nhận yêu cầu thi hành án
Khi tiếp nhận yêu cầu thi hành án, cơ quan THADS phải kiểm tra nội dung yêu cầu và các tài liệu kèm theo, vào sổ nhận yêu cầu thi hành án và thông báo bằng văn bản cho người yêu cầu. Không phải bất cứ trường hợp tiếp nhận yêu cầu thi hành án nào thì cơ quan THADS cũng thụ lý, ra quyết định thi hành án và cho tổ chức thi hành. Theo quy định tại khoản 5 Điều 31 Luật THADS thì cơ quan THADS từ chối yêu cầu thi hành án và phải thông báo bằng văn bản cho người yêu cầu trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được yêu cầu thi hành án trong các trường hợp sau đây:
+ Người yêu cầu không có quyền yêu cầu thi hành án hoặc nội dung yêu cầu không liên quan đến nội dung của bản án, quyết định; bản án, quyết định không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của đương sự theo quy định của Luật này; + Cơ quan THADS được yêu cầu không có thẩm quyền thi hành án; + Hết thời hiệu thi hành án.
Do đó, trong quá trình tiếp nhận yêu cầu thi hành án đối với phán quyết trọng tài nước ngoài, cơ quan THADS cần lưu ý một số vấn đề sau:
- Một là, thẩm quyền tổ chức thi hành phán quyết của trọng tài nước ngoài.
Điều 35 Luật THADS quy định về thẩm quyền thi hành án:
“2. Cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh có thẩm quyền thi hành các bản án, quyết định sau đây:
- Bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương trên cùng địa bàn;
- Bản án, quyết định của Tòa án nhân dân cấp cao;
- Quyết định của Tòa án nhân dân tối cao chuyển giao cho cơ quan thi hành
án dân sự cấp tỉnh;
- Bản án, quyết định của Tòa án nước ngoài, quyết định của Trọng tài nước
ngoài được Tòa án công nhận và cho thi hành tại Việt Nam;
đ) Phán quyết, quyết định của Trọng tài thương mại;
- Quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh của Chủ tịch Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia, Hội đồng xử lý vụ việc hạn chế cạnh tranh, quyết định giải quyết khiếu nại quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh của Chủ tịch Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia, Hội đồng giải quyết khiếu nại quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh;
- Bản án, quyết định do cơ quan thi hành án dân sự nơi khác hoặc cơ quan thi
hành án cấp quân khu ủy thác;
- Bản án, quyết định thuộc thẩm quyền thi hành của cơ quan thi hành án dân
sự cấp huyện quy định tại khoản 1 Điều này mà thấy cần thiết lấy lên để thi hành;
- Bản án, quyết định quy định tại khoản 1 Điều này mà có đương sự hoặc tài
sản ở nước ngoài hoặc cần phải ủy thác tư pháp về thi hành án”.
Như vậy, cơ quan THADS có thẩm quyền tổ chức thi hành các phán quyết của trọng tài nước ngoài là cơ quan THADS cấp tỉnh.
- Hai là, về thời điểm phán quyết có hiệu lực.
Theo quy định tại khoản 5 Điều 61 Luật Trọng tài thương mại thì phán quyết trọng tài là chung thẩm và có hiệu lực kể từ ngày ban hành. Tuy nhiên, đối với phán quyết của trọng tài nước ngoài, để được thi hành theo pháp luật về THADS, trước hết, phán quyết đó phải được Toà án Việt Nam công nhận và cho thi hành tại Việt Nam theo quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự.
Tại khoản 3 Điều 427 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 quy định: Bản án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài, phán quyết của Trọng tài nước ngoài chỉ được thi hành tại Việt Nam sau khi quyết định của Toà án Việt Nam công nhận và cho thi hành bản án, quyết định của Toà án nước ngoài, phán quyết của Trọng tài nước ngoài đó có hiệu lực pháp luật.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 442, khoản 1 Điều 461 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 thì trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày Toà án ra quyết định công nhận và cho thi hành bản án, quyết định của Toà án nước ngoài, phán quyết của Trọng tài nước ngoài, đương sự, người đại diện hợp pháp của họ có quyền kháng cáo quyết định đó; trường hợp đương sự, người đại diện hợp pháp của họ không có mặt tại phiên họp xét đơn yêu cầu thì thời hạn kháng cáo được tính từ ngày họ nhận được quyết định đó. Trong trường hợp có sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan làm cho đương sự, người đại diện hợp pháp của họ không thể kháng cái trong thời hạn nêu trên thì thời gian có sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan đó không tính vào thời hạn kháng cáo.
Ngoài ra, Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 còn quy định về thời hạn kháng nghị đối quyết định công nhận và cho thi hành bản án, quyết định của Toà án nước ngoài, phán quyết của Trọng tài nước ngoài, cụ thể: Thời hạn kháng nghị của Viện Kiểm sát nhân dân cấp tỉnh là 07 ngày, của Viện Kiểm sát nhân dân cấp cao là 10 ngày, kể từ ngày Viện kiểm sát nhận được quyết định.
- Ba là, về thời hiệu yêu cầu thi hành án.
Theo quy định của pháp luật về THADS (Điều 30 Luật THADS; Điều 4 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP, được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 33/2020/NĐ-CP) thì thời hiệu yêu cầu thi hành án là 5 năm, kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật; trường hợp thời hạn thực hiện nghĩa vụ được ấn định trong bản án, quyết định thì thời hạn 5 năm được tính từ ngày nghĩa vụ đến hạn; đối với bản án, quyết định thi hành theo định kỳ thì thời hạn 5 năm được áp dụng cho từng định kỳ, kể từ ngày nghĩa vụ đến hạn.
Tuy nhiên, như đã phân tích ở trên, phán quyết của trọng tài nước ngoài phải được Toà án Việt Nam công nhận và cho thi hành tại Việt Nam theo quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự; sau khi được Toà án công nhận thì phán quyết đó mới được thi hành theo pháp luật về THADS. Như vậy, mặc dù theo quy định của Luật Trọng tài thương mại thì phán quyết trọng tài là chung thẩm và có hiệu lực kể từ ngày ban hành nhưng thời điểm để làm căn cứ tính thời hiệu yêu cầu thi hành đối với phán quyết của trọng tài nước ngoài không phải là ngày ban hành phán quyết mà tính từ ngày quyết định của Toà án Việt Nam công nhận và cho thi hành có hiệu lực pháp luật.
- Bốn là, chủ thể đứng tên yêu cầu thi hành án.
Hiện nay, các tranh chấp được giải quyết bằng Trọng tài nước ngoài ở Việt Nam chủ yếu là các tranh chấp thương mại giữa các tổ chức, doanh nghiệp. Do đó, người yêu cầu thi hành án trong trường hợp này cũng là các tổ chức, doanh nghiệp. Trường hợp người yêu cầu thi hành án là tổ chức, doanh nghiệp thì về nguyên tắc, đơn yêu cầu thi hành án phải do người đại diện theo pháp luật của tổ chức, doanh nghiệp đó ký. Theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015 về đại diện của pháp nhân thì có hai hình thức đại diện gồm đại diện theo pháp luật và đại diện theo uỷ quyền.
- Năm là, nội dung yêu cầu thi hành án và tài liệu kèm theo.
Nội dung yêu cầu thi hành án được quy định cụ thể tại khoản 2 Điều 31 Luật THADS, bao gồm:
+ Tên, địa chỉ của người yêu cầu;
+ Tên cơ quan thi hành án dân sự nơi yêu cầu;
+ Tên, địa chỉ của người được thi hành án; người phải thi hành án;
+ Nội dung yêu cầu thi hành án;
+ Thông tin về tài sản, điều kiện thi hành án của người phải thi hành án, nếu có;
+ Ngày, tháng, năm làm đơn;
+ Chữ ký hoặc điểm chỉ của người làm đơn; trường hợp là pháp nhân thì phải có chữ ký của người đại diện hợp pháp và đóng dấu của pháp nhân, nếu có.
Khi nộp đơn yêu cầu thi hành án, người yêu cầu thi hành án phải nộp bản án, quyết định và tài liệu khác có liên quan. Về các “tài liệu khác có liên quan” là tài liệu gì thì Luật THADS chưa có quy định cụ thể. Qua thực tế áp dụng tại các cơ quan THADS, các tài liệu khác mà người yêu cầu thi hành án phải cung cấp có thể là: Giấy tờ tuỳ thân; giấy uỷ quyền; Trong trường hợp yêu cầu thi hành phán quyết của Trọng tài nước ngoài thì một trong những tài liệu không thể thiếu khi yêu cầu thi hành án là Quyết định của Toà án công nhận và cho thi hành phán quyết trọng tài và phán quyết của Trọng tài nước ngoài.
2.2. Ra quyết định thi hành án
Việc ra quyết định thi hành án trong trường hợp này là ra quyết định thi hành án theo yêu cầu, được quy định tại khoản 1 Điều 36 Luật THADS; Điều 7 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP, được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 33/2020/NĐ-CP; Điều 1 Thông tư liên tịch số 11/2016/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC.
Thời hạn ra quyết định thi hành án theo yêu cầu là 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được yêu cầu thi hành án. Phạm vi ra quyết định thi hành án theo yêu cầu phải phù hợp với nội dung yêu cầu thi hành án của người yêu cầu. Tuy nhiên, cơ quan THADS cũng cần lưu ý đối với khoản nghĩa vụ thi hành án theo từng đợt, nếu người được thi hành án có yêu cầu đối với khoản đến hạn và khoản chưa đến hạn thì về nguyên tắc, cơ quan THADS chỉ ra quyết định đối với phần đã đến hạn.
3. Thủ tục thông báo về thi hành án
Việc thông báo về THADS trong tổ chức thi hành phán quyết của trọng tài nước ngoài cũng được thực hiện theo quy định tại Điều 39, Điều 40, Điều 41, Điều 42 Luật THADS; Điều 12 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP, được sửa đổi, bổ sung bởi
Nghị định số 33/2020/NĐ-CP; khoản 2 Điều 2 Thông tư liên tịch số 11/2016/TTLTBTP-TANDTC-VKSNDTC. Tuy nhiên, do chủ thể ở đây thường là pháp nhân cần lưu ý các quy định về thông báo cho cơ quan, tổ chức tại Điều 41 Luật THADS.
Theo quy định của pháp luật về THADS thì người nhận văn bản thông báo cho cơ quan, tổ chức được thông báo gồm:
- Người đại diện theo pháp luật của cơ quan, tổ chức được thông báo: Người đại diện theo pháp luật của pháp nhân được quy định tại Điều 137 Bộ luật Dân sự năm 2015 (người đại diện theo pháp luật của pháp nhân được quy định tại Điều lệ của doanh nghiệp). Người đại diện theo pháp luật của cơ quan, tổ chức sẽ do cơ qua, tổ chức có thẩm quyền quyết định và được ghi nhận ngay tại quyết định thành lập cơ quan, tổ chức đó. Trường hợp doanh nghiệp hoặc cơ quan, tổ chức được thông báo có nhiều người đại diện thì Chấp hành viên cần làm việc với doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức đó để thống nhất lựa chọn người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức đó tham gia trong quá trình THADS.
Ngoài ra, theo quy định tại khoản 3 Điều 1 Thông tư liên tịch số 11/2016/TTLTBTP-TANDTC-VKSNDTC thì trường hợp đương sự là pháp nhân hoặc người chưa thành niên, bị hạn chến năng lực hành vi dân sự thì Thủ trưởng cơ quan THADS ra quyết định thi hành án theo yêu cầu của người đại diện theo pháp luật của đương sự. Do đó, Chấp hành viên có thể căn cứ vào yêu cầu thi hành án hợp lệ của doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức để xác định người nhận văn bản thông báo.
- Người chịu trách nhiệm nhận văn bản của cơ quan, tổ chức là người được cơ quan, tổ chức giao nhiệm vụ nhận văn bản của cơ quan, tổ chức đó.
- Người đại diện tham gia việc thi hành án là người đã được người đại diện theo pháp luật của cơ quan, tổ chức ủy quyền tham gia việc thi hành án.
- Người mà cơ quan, tổ chức được thông báo cử đến nhận. Tuy nhiên, cần lưu ý là giấy giới thiệu của cơ quan, tổ chức cử người nhận thông báo chỉ có giá trị cho một lần cử nhận thông báo.
Việc thực hiện thông báo văn bản về thi hành án cho người nhận văn bản thông báo của cơ quan, tổ chức được thực hiện tương tự như việc thông báo trực tiếp cho cá nhân nhưng người có trách nhiệm thông báo thi hành án không được giao văn bản thông báo cho người thân của những người này.
Ngoài ra, cũng có thể thực hiện thông báo cho cơ quan, tổ chức qua đường bưu điện, fax, email và các hình thức thông báo khác nếu thỏa mãn các điều kiện quy định tại Điều 12 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP, được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 33/2020/NĐ-CP; khoản 2 Điều 2 Thông tư liên tịch số 11/2016/TTLT-BTPTANDTC-VKSNDTC.
4. Xác minh điều kiện thi hành án
Trình tự, thủ tục xác minh điều kiện thi hành án được quy định tại Điều 4 Luật THADS; Điều 9 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP, được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 33/2020/NĐ-CP; Điều 3 Thông tư liên tịch số 11/2016/TTLT-BTP-TANDTCVKSNDTC. Tùy theo từng trường hợp và từng nghĩa vụ phải thi hành án mà Chấp hành viên lựa chọn các hình thức và nội dung xác minh phù hợp. Tuy nhiên, hầu hết người phải thi hành án trong các phán quyết trọng tài nước ngoài là các doanh nghiệp (trong nước hoặc nước ngoài) và nghĩa vụ phải thi hành án là nghĩa vụ trả tiền. Do đó, khi tiến hành xác minh điều kiện thi hành án, Chấp hành viên cần lưu ý một số nội dung sau đây:
Thứ nhất, về lựa chọn nội dung xác minh: Theo quy định tại khoản 5 Điều 24 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP, được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 33/2020/NĐCP thì cơ quan THADS chỉ được kê biên tài sản khác của doanh nghiệp phải thi hành án, nếu sau khi đã khấu trừ tài khoản, xử lý vàng, bạc, đá quý, kim khí quý khác, giấy tờ có giá của doanh nghiệp đang do doanh nghiệp quản lý hoặc đang do người thứ ba giữ mà vẫn không đủ để thi hành án, trừ trường hợp bản án, quyết định có quyết định khác hoặc đương sự có thỏa thuận khác.
Theo quy định như nêu trên, biện pháp khấu trừ tài khoản của người phải thi hành án là biện pháp cưỡng chế được ưu tiên áp dụng trong trường hợp người phải thi hành án là các doanh nghiệp. Mặt khác, tài khoản cũng là loại tài sản mà Chấp hành viên dễ xử lý nhất và là tài sản mà doanh nghiệp nào cũng có. Để thực hiện biện pháp cưỡng chế khấu trừ tiền trong tài khoản, trước hết Chấp hành viên cần xác minh tài khoản của doanh nghiệp. Thông tin về tài khoản có thể có ngay trong bản án, quyết định của Tòa án hoặc Chấp hành viên có thể khai thác qua người được thi hành án, qua giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, qua cơ quan thuế, hoặc qua cơ quan đăng ký kinh doanh...
Thứ hai, xác minh những tài sản khác của người phải thi hành án: Trong trường hợp tài khoản của người phải thi hành án không có tiền hoặc tiền trong tài khoản chưa đủ để thi hành án, Chấp hành viên cần làm việc với người phải thi hành án, yêu cầu họ cung cấp hệ thống sổ sách quản lý vốn, tài sản, báo cáo tài chính trong thời gian gần nhất. Ngoài ra, Chấp hành viên có thể thông qua các cơ quan khác như: cơ quan quản lý vốn, tài sản (trường hợp là doanh nghiệp nhà nước), cơ quan đăng ký kinh doanh, cơ quan đăng ký tài sản, ngân hàng, tổ chức tín dụng, cá nhân, tổ chức liên quan khác để xác minh các tài sản khác của người phải thi hành án như hàng hóa, vốn góp,...
Đối với tài sản là vốn góp: Chấp hành viên cần xác minh số vốn của các thành viên cam kết góp vào công ty, các văn bản, giấy tờ ghi nhận quá trình góp vốn đó, xác định trách nhiệm của các thành viên công ty đối với các khoản nợ.
Đối với tài sản là quyền sử dụng đất: Theo quy định của Luật Đất đai năm 2013 thì tổ chức kinh tế được Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất, cho thuê đất thu tiền thuê đất một lần cho cả thời gian thuê có quyền và nghĩa vụ chung quy định tại Điều 166 và Điều 170 của Luật Đất đai năm 2013 và còn có quyền chuyển nhượng quyền sử dụng đất, tài sản thuộc sở hữu của mình gắn liền với đất. Do đó đối với những trường hợp doanh nghiệp phải thi hành án được cấp giấy chứng nhận quyền thuê đất 30 năm, 50 năm, có nhà xưởng trên đất và các tài sản khác gắn liền với đất thì Chấp hành viên cần phải xác minh kỹ từng nội dung sau: Doanh nghiệp được cấp giấy chứng nhận thuê đã phải nộp tiền thuê đất một lần hay nộp hàng năm? Tài sản gắn liền với đất gồm những gì? Quyền sử dụng đất đó có bị thế chấp, bảo lãnh, góp vốn cho tổ chức, cá nhân nào không? Trong trường hợp doanh nghiệp lại ủy thác đầu tư mua cổ phiếu, xổ phần thì phải xác minh việc ủy thác đầu tư có hợp pháp không?
Hiện cổ phiếu, cổ phần ấy có cầm cố, thể chấp không?
Trong trường hợp người phải thi hành án là doanh nghiệp phải thi hành nghĩa vụ giao trả vật: Chấp hành viên tiến hành xác minh tương tự như các trường hợp phải trả vật trong các bản án, quyết định khác, tuy nhiên, Chấp hành viên phải lưu ý địa điểm xác minh. Ngoài trụ sở của doanh nghiệp còn phải tiến hành xác minh tại kho để hàng hóa (nếu có). Việc xác minh phải làm rõ vấn đề: tình trạng của vật phải trả, ai đang quản lý vật phải trả, vật phải trả hiện đang ở đâu và thái độ chấp hành án của người phải thi hành án
5. Thuyết phục tự nguyện thi hành án và ghi nhận sự thỏa thuận của các đương sự
Khi thuyết phục đương sự tự nguyện thi hành án, Chấp hành viên có thể thực hiện vận động từ cả hai bên đương sự. Để đạt được hiệu quả thuyết phục cao nhất, Chấp hành viên cần khai thác và sử dụng linh hoạt các nội dung như: Ngành nghề kinh doanh của người phải thi hành án; khả năng tài chính của người phải thi hành án; tình hình hoạt động kinh doanh của người phải thi hành án; thái độ của người phải thi hành án... để từ đó có cách vận động, thuyết phục phù hợp và hiệu quả.
Khi thực hiện ghi nhận sự thỏa thuận của các đương sự, Chấp hành viên cần tuân thủ đúng các quy định tại Điều 6 Luật THADS và Điều 5 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP, được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 33/2020/NĐ-CP; đồng thời cần lưu ý về đối tượng tham gia thỏa thuận thi hành án.
6. Áp dụng biện pháp bảo đảm, biện pháp cưỡng chế
Trong việc tổ chức thi hành án, việc áp dụng các biện pháp bảo đảm được thực hiện theo quy định chung tại Điều 66, Điều 67, Điều 68 và Điều 69 Luật THADS; Điều 13, Điều 18, Điều 19, Điều 20 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP, được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 33/2020/NĐ-CP.
Ngoài ra, Chấp hành viên có quyền áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành án được quy định tại Điều 71 Luật THADS. Việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế trong việc thi hành án được thực hiện theo nguyên tắc, trình tự, thủ tục chung do pháp luật THADS quy định. Tuy nhiên, do đặc thù của việc thi hành phán quyết của trọng tài nước ngoài là giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại nên Chấp hành viên cần lưu ý một số điểm như sau:
Một là, theo quy định tại khoản 5 Điều 24 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP, được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 33/2020/NĐ-CP khi kê biên tài sản của doanh nghiệp, cơ quan THADS đã khấu trừ tài khoản, xử lý vàng, bạc, đá quý, kim khí quý khác, giấy tờ chỉ kê biên tài sản khác của doanh nghiệp phải thi hành án, nếu sau khi có giá của doanh nghiệp đang do doanh nghiệp quản lý hoặc đang do người thứ ba giữ mà vẫn không đủ để thi hành án, trừ trường hợp bản án, quyết định có quyết định khác hoặc đương sự có thỏa thuận khác.
Hai là, theo quy định tại Điều 87 Luật THADS thì Chấp hành viên không được kê biên tài sản bị cấm lưu thông theo quy định của pháp luật; tài sản phục vụ quốc phòng, an ninh, lợi ích công cộng; tài sản do ngân sách nhà nước cấp cho cơ quan, tổ chức. Do đó khi kê biên xử lý tài sản của người phải thi hành án là doanh nghiệp nhà nước, Chấp hành viên phải hết sức lưu ý về các tài sản thuộc sở hữu của Nhà nước. Chấp hành viên cần xác minh biên bản giao nhận vốn để xác định tài sản nào thuộc sở hữu của doanh nghiệp, tài sản nào do ngân sách nhà nước cấp cho doanh nghiệp để có biện pháp xử lý thích hợp.
Đối với tài sản là đất đai của các doanh nghiệp nhà nước, theo quy định tại khoản 2 Điều 173 Luật Đất đai năm 2013 thì tổ chức được Nhà nước giao đất không thu tiền sử dụng đất không có quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, tặng cho, cho thuê quyền sử dụng đất; thế chấp, góp vốn bằng quyền sử dụng đất; không được bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất. Do đó, đối với tài sản của doanh nghiệp mà thuộc trường hợp này thì Chấp hành viên không được kê biên.
Ba là, các chủ thể tiến hành hoạt động kinh doanh, thương mại thường có nhiều tài sản khác nhau và thường có chung tài sản với người khác, vì vậy, việc xác định phần tài sản của chủ thể phải thi hành án trong khối tài sản chung là rất khó khăn. Do đó, Chấp hành viên lưu ý quy định về kê biên, xử lý tài sản thuộc sở hữu chung của người phải thi hành án với người khác được quy định tại Điều 74, Điều 75 Luật THADS, Điều 24 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP, được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 33/2020/NĐ-CP.
7. Thanh toán tiền thi hành án
Việc thanh toán tiền thi hành án cũng tuân thủ nguyên tắc được quy định tại Điều 47 Luật THADS, Điều 49 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP, được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 33/2020/NĐ-CP, khoản 2 Điều 6 Thông tư liên tịch số 11/2016/TTLT-BTP-TANDTC- VKSNDTC; đồng thời, Chấp hành viên lưu ý một số vấn đề sau:
Thứ nhất, theo quy định tại khoản 3 Điều 49 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP, được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 33/2020/NĐ-CP, trường hợp người được thi hành án là doanh nghiệp, cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế - xã hội thì việc chi trả tiền thi hành án được thực hiện bằng hình thức chuyển khoản. Trong trường hợp cơ quan THADS thu được tiền nhưng chưa kịp gửi vào tài khoản tạm giữ trong thời hạn quy định mà người được thi hành án cử người đại diện hợp pháp đến nhận thì cơ quan THADS có thể chi trả cho họ bằng tiền mặt.
Thứ hai, thanh toán tiền thi hành án liên quan đến lãi suất chậm thi hành án. Trong các phán quyết này thường có nội dung thi hành khoản lãi suất chậm thi hành án. Đối với việc thi hành khoản lãi suất này, khoản 1 Điều 6 Thông tư liên tịch số 11/2016/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC quy định theo nguyên tắc: Trường hợp bản án, quyết định tuyên lãi suất chậm thi hành án thì khi thu được tiền, cơ quan THADS tiến hành thanh toán số tiền được tuyên trong bản án, quyết định trước, sau đó mới thanh toán tiền lãi suất chậm thi hành án tương ứng với thời gian chưa thi hành án, trừ trường hợp đương sự có thỏa thuận khác./.
*************
THỰC TIỄN CÔNG NHẬN VÀ CHO THI HÀNH PHÁN QUYẾT TRỌNG TÀI NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM
- Trung tâm Trọng tài thương mại quốc tế Việt Nam VIAC -
Các phương thức giải quyết tranh chấp thay thế trong thương mại quốc tế (ADR) nói chung, trọng tài thương mại quốc tế nói riêng hiện trở thành một phương thức giải quyết tranh chấp phổ biến trên thế giới với nhiều ưu việt – đây là một xu hướng tất yếu. Việt Nam qua từng thời kỳ đã có những chính sách nhằm hỗ trợ sự phát triển của trọng tài như một phương thức giải quyết tranh chấp thương mại ngoài tòa án hữu hiệu theo chuẩn mực quốc tế. Một trong những yếu tố then chốt hỗ trợ thúc đẩy sự phát triển của trọng tài thương mại quốc tế là tính chung thẩm và có thể thực thi phán quyết hiệu quả, đặc biệt là việc thi hành PQTT tại lãnh thổ của một quốc gia khác hoặc quốc gia nơi bên phải thi hành phán quyết có tài sản.
Việc từ chối công nhận, cho thi hành phán quyết của trọng tài nước ngoài (“PQTTNN”) không có cơ sơ pháp lý nhất quán có thể dẫn đến những hệ quả phức tạp, tốn kém về nguồn lực của quốc gia. Đặc biệt trong bối cảnh phát sinh những vụ tranh chấp đầu tư giữa Chính phủ nước tiếp nhận đầu tư với nhà đầu tư nước ngoài thông qua cơ chế bảo vệ của các hiệp định song hoặc đa phương về khuyến khích và bảo hộ đầu tư mà Việt Nam là thành viên.
Trong giai đoạn bối cảnh hội nhập kinh tế của Việt Nam, việc xem xét công nhận, cho thi hành PQTTNN cần tạo điều kiện thuận lợi nhằm đảm bảo quyền lợi cho các bên, góp phần mở rộng hợp tác trong hoạt động hỗ trợ tư pháp quốc tế trên cơ sở tôn trọng thẩm quyền tài phán quốc gia và bảo vệ lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư từ các nước thành viên. Công tác rà soát, đánh giá, kịp thời hướng dẫn, sửa đổi, bổ sung đối với các quy định pháp luật quốc gia về công nhận và cho thi hành PQTTNN là thiết yếu, bảo đảm môi trường pháp lý công bằng, nhất quán.
I. KHUÔN KHỔ PHÁP LUẬT LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG NHẬN VÀ CHO THI HÀNH PHÁN QUYẾT TRỌNG TÀI NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM
1. Công ước New York (1958)
Liên Hợp quốc đã thông qua Công ước về công nhận và cho thi hành phán quyết trọng tài nước ngoài ngày 10/6/1958 tại New York, Hoa Kỳ (“Công ước”), với 172 quốc gia thành viên (tính đến ngày 14/5/2023). Việt Nam đã gia nhập Công ước này từ giai đoạn đầu mở cửa kinh tế (ngày 12/9/1995), tạo hành lang pháp lý để những phán quyết trọng tài được ban hành hợp lệ tại các quốc gia thành viên của Công ước được xem xét công nhận và cho thi hành tại Việt Nam. Công ước được thành lập với mục tiêu tạo ra những tiêu chuẩn pháp lý chung cho việc công nhận các PQTTNN, là cơ sở để PQTTNN được công nhận và cho thi hành tại nhiều quốc gia trên thế giới.
Về cấu trúc, trong 16 điều khoản của Công ước, Điều I đến Điều VII quy định về thủ tục công nhận và cho thi hành PQTTNN, việc từ bỏ tham gia công ước, việc sử dụng công ước của các quốc gia và trách nhiệm của Liên Hợp quốc trong việc triển khai thi hành Công ước; 9 điều khoản còn lại quy định về hiệu lực của Công ước, và về các thủ tục gia nhập, ký kết, phê chuẩn của các quốc gia thành viên.
Theo Điều 3 của Công ước, các quốc gia thành viên Công ước không được phân biệt đối xử đối với các PQTTNN và có nghĩa vụ phải đảm bảo các PQTTNN được công nhận và có khả năng thi hành tương tự các phán quyết trọng tài trong nước (“PQTTTN”). Các PQTTNN sẽ được thi hành như những quyết định của tòa án quốc gia và hệ thống các cơ quan tư pháp của nhà nước có thể áp dụng các biện pháp cưỡng chế để thi hành phán quyết. Các quốc gia thành viên phải công nhận các PQTT được đưa ra ngoài lãnh thổ của họ và các phán quyết không được coi là PQTTTN của các nước thành viên.
2. Pháp luật Việt Nam
Sau khi gia nhập Công ước, Việt Nam đã nội luật hóa các quy định về công nhận và cho thi hành PQTTNN tại Công ước qua từng thời kỳ như: Pháp lệnh công nhận và cho thi hành tại Việt Nam quyết định của trọng tài nước ngoài (Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành ngày 14/9/1995, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/1996); Bộ luật Tố tụng Dân sự (“BLTTDS”) năm 2004 (hiện là BLTTDS năm 2015). Quy định công nhận và cho thi hành PQTTNN tại Việt Nam (Phần thứ bảy - Chương XXXV và Chương XXXVII của BLTTDS 2015). Nhìn chung, các quy định liên quan tại BLTTDS (2015) được nội luật hóa tương đối tương thích với các quy định tại Công ước.
Các cơ quan toà án xem xét đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt
Nam PQTTNN theo hai nguyên tắc chính (i) dựa trên cơ sở điều ước quốc tế hoặc (ii) dựa trên nguyên tắc có đi có lại (Điều 424, BLTTDS 2015). PQTTNN được tòa án Việt Nam công nhận và cho thi hành tại Việt Nam có hiệu lực pháp luật như quyết định của tòa án Việt Nam có hiệu lực pháp luật và được thi hành theo thủ tục thi hành án dân sự (Điều 427.2, BLTTDS 2015). Đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành PQTTNN bao gồm, ngoài những tài liệu được hợp thức hóa khác theo pháp luật quốc gia, bản chính hoặc bản sao có chứng thực phán quyết của trọng tài nước ngoài và bản chính hoặc bản sao có chứng thực thỏa thuận trọng tài giữa các bên (Điều 453.1, BLTTDS 2015).
Đáng lưu ý là quy định về các trường hợp không công nhận PQTTNN, BLTTDS (2015) đã áp dụng tương tự quy định liên quan tại Điều V của Công ước: Các bên ký kết thỏa thuận trọng tài không có năng lực, thẩm quyền để ký kết; thỏa thuận trọng tài không có giá trị pháp lý; một bên của tranh chấp không được thông báo kịp thời và hợp thức liên quan đến thủ tục, các vấn đề tố tụng của vụ kiện; PQTTNN được tuyên vượt quá yêu cầu của các bên; thành phần của Hội đồng Trọng tài (“HĐTT”), thủ tục giải quyết tranh chấp trái với thỏa thuận của các bên; việc công nhận và cho thi hành PQTTNN trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam (Điều 549, BLTTDS 2015).
Đáng chú ý là trường hợp không công nhận theo quy định pháp luật Việt Nam, vụ tranh chấp không được giải quyết theo thể thức trọng tài và việc công nhận, cho thi hành phán quyết của trọng tài nước ngoài trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật của Việt Nam (Điều 459.2 BLTTDS 2015).
Nhìn chung pháp luật của Việt Nam liên quan đến việc công nhận và cho thi hành PQTTNN khá tương đồng với tinh thần quy định tại Công ước. Tuy nhiên, việc vận dụng và diễn giải pháp luật bởi các tòa án trên thực tế vẫn còn hạn chế, chưa phù hợp với thông lệ trọng tài quốc tế.