0888889366
Tra cứu thông tin hợp đồng
timeline_post_file64beafac3a1ce-Lý-luận-về-góp-vốn-thành-lập-công-ty-bằng-quyền-sở-hữu-trí-tuệ-.jpg.webp

Lý luận về góp vốn thành lập công ty bằng quyền sở hữu trí tuệ

2.1.  Lý luận về góp vốn thành lập công ty bằng quyền sở hữu trí tuệ

2.1.1.   Khái niệm góp vốn thành lập công ty bằng quyền sở hữu trí tuệ

2.1.1.1.   Khái niệm góp vốn thành lập công ty

Cũng như các hiện tượng kinh tế khác, sự ra đời của công ty là một yêu cầu tất yếu khi mà nền sản xuất hàng hóa phát triển đến một mức độ nhất định. Khi nền kinh tế sản xuất hàng hóa phát triển, những doanh nghiệp nhỏ với vốn đầu tư thấp sẽ gặp nhiều bất lợi trong khi môi trường cạnh tranh ngày càng trở nên khốc liệt hơn. Bên cạnh đó, trong hoạt động kinh doanh thường gặp không ít các rủi ro.Vì vậy, để đáp ứng nhu cầu về vốn kinh doanh, nâng cao vị thế cạnh tranh trên thị trường cũng như chia sẻ các rủi ro trong hoạt động kinh doanh, đòi hỏi các chủ thể kinh doanh phải liên kết với nhau. Khi hai hay nhiều người cùng góp vốn để thành lập một doanh nghiệp, để tiến hành hoạt động kinh doanh kiếm lời chia nhau thì có nghĩa là họ đã thành lập một công ty. Theo Bộ luật dân sự của Pháp, công ty được thành lập bởi hai hoặc nhiều người trên cơ sở hợp đồng về việc đóng góp tài sản của họ vào hoạt động kinh doanh nhằm chia sẻ lợi nhuận hoặc thu lợi [55, điều 1832]. Ở phương diện pháp lý có thể hiểu rằng công ty là một thực thể pháp lý được hình thành trên cơ sở thỏa thuận đóng góp tài sản của các chủ thể kinh doanh, được ghi nhận bởi luật pháp để tiến hành hoạt động kinh doanh nhằm mục đích sinh lợi, cũng như chia sẽ các rủi ro. Có thể nhận định rằng, công ty ra đời là kết quả của việc thực hiện nguyên tắc tự do kinh doanh, tự do kết ước và tự do lập hội. Trên cơ sở sự thỏa thuận giữa các bên, công ty được hình thành. Lý thuyết hợp đồng xem công ty được thành lập theo hợp đồng tư nhân, trong đó vai trò của nhà nước bị giới hạn trong việc thực thi hợp đồng. Vì lẽ đó, công ty được xem một bản hợp đồng giữa vô số các bên, trong đó, góp vốn vừa là tiền đề, vừa là nội dung của thỏa thuận thành lập công ty.

Để một công ty thành lập và hoạt động, vốn là điều kiện tiên quyết. Ban đầu, vốn được hình thành từ vốn góp của các thành viên. Đó là số tiền hoặc tài sản mà công ty nhận được từ cổ đông. Từ việc chuyển giao tiền hoặc các tài sản khác của các thành viên, cổ đông sáng lập vào công ty, nguồn vốn đầu tiên sẽ thiết lập. Một công ty bắt đầu thành lập sẽ không thể hoạt động nếu không có vốn. Do đó, vốn hình thành trên cơ sở hoạt động góp vốn của các thành viên, cổ đông sáng lập chính là cơ sở để đảm bảo cho các công ty mới thành lập tiến hành hoạt động sản xuất, kinh doanh của mình. Vì lẽ đó, góp vốn được xem là nghĩa vụ cơ bản của thành viên, cổ đông sáng lập trên cơ sở cam kết ban đầu của các thành viên để thành lập công ty. Góp vốn thường được các nhà nghiên cứu xem xét dưới hai khía cạnh pháp lý và kinh tế:

Ở khía cạnh kinh tế, góp vốn là việc các thành viên đóng góp tài sản của mình vào công ty nhằm mục đích kinh doanh và thu được lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh. Với việc góp vốn, nguồn vốn ban đầu của công ty được hình thành nhằm đảm bảo chi phí hoạt động của công ty và đảm bảo quyền lợi cho các chủ nợ.

Ở khía cạnh pháp lý, góp vốn có thể hiểu là hành vi chuyển giao tài sản, nói cách khác là hành vi chuyển các quyền đối với tài sản là vốn góp để đổi lấy quyền lợi đối với doanh nghiệp . Khi đưa tài sản vào để góp vốn, quyền sở hữu tài sản hoặc quyền hưởng dụng chuyển dịch từ chủ thể góp vốn sang công ty, đổi lại, chủ thể góp vốn sẽ được nhận được những lợi ích nhất định tương ứng với phần vốn góp của mình. Hành vi chuyển dịch tài sản để đổi lấy quyền lợi này không giống như hành vi mua bán hay cho thuê tài sản, bởi lẽ, mục đích cuối cùng khi chuyển dịch tài sản trong hành vi góp vốn không phải là thu được một khoản tiền nhất định, mà cái chủ thể hướng tới ở đây chính là lợi nhuận lâu dài từ việc khai thác, sử dụng nguồn vốn tương ứng với phần vốn góp cũng như quyền sở hữu hoặc đồng chủ sở hữu đối với công ty. Từ phương diện này, khái niệm góp vốn có thể tiếp cận theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp.

Theo nghĩa rộng, góp vốn có thể hiểu là việc các chủ thể thỏa thuận chuyển quyền sở hữu, quyền sử dụng hợp pháp tài sản thuộc sở hữu hoặc quyền sử dụng hợp pháp của mình nhằm hình thành công ty hoặc tăng vốn điều lệ cho công ty, đổi lại, các chủ thể sẽ có các quyền và nghĩa vụ khi công ty được hình thành hoặc đối với công ty nhận góp vốn cũng như phải chịu các trách nhiệm pháp lý phát sinh từ thỏa thuận này.

Theo nghĩa hẹp, góp vốn ở đây được định nghĩa là “việc góp tài sản” có nghĩa là có hành vi chuyển dịch quyền sở hữu, quyền sử dụng hợp pháp tài sản từ bên góp vốn sang bên nhận góp vốn. Từ hành vi này, tài sản công ty sẽ được hình thành hoặc tăng thêm.

Ở Việt Nam, khái niệm góp vốn được ghi nhận từ khá sớm trong pháp luật doanh nghiệp và đã có những thay đổi qua các thời kỳ. Theo Luật Doanh nghiệp 1999 và Luật Doanh nghiệp 2005: “Góp vốn là việc đưa tài sản vào công ty để trở thành chủ sở hữu hoặc các chủ sở hữu chung của công ty”. Còn Luật Doanh nghiệp 2014 quy định: “Góp vốn là việc góp tài sản để tạo thành vốn điều lệ của công ty. Góp vốn bao gồm góp vốn để thành lập doanh nghiệp hoặc góp thêm vốn điều lệ của doanh nghiệp đã được thành lâp”. Tương tự, Luật Doanh nghiệp 2020 cũng quy định “Góp vốn là việc góp tài sản để tạo thành vốn điều lệ của công ty, bao gồm góp vốn để thành lập công ty hoặc góp thêm vốn điều lệ của công ty đã được thành lập” (Khoản 18 Điều 4). Có thể thấy, khái niệm góp vốn được ghi nhận trong pháp luật Việt Nam đã được tiếp cận theo nghĩa hẹp.

Góp vốn bao gồm hai hình thức: góp vốn để thành lập công ty và góp thêm vốn điều lệ của công ty đã thành lập. Ở khía cạnh kinh tế, góp vốn để thành lập công ty hay góp thêm vốn điều lệ vào công ty đã thành lập đều là việc chủ thể góp vốn đưa tài sản vào công ty để đổi lấy lợi ích và quyền đối với công ty, tuy nhiên, hệ quả pháp lý của hai hành vi này lại khác nhau. Cụ thể, nếu như việc góp thêm vốn điều lệ của công ty đã thành lập nhằm mục đích tăng cường nguồn vốn cho công ty đã có sẵn thì góp vốn thành lâp công ty nhằm tạo ra một thực thể pháp lý độc lập. Thực thể pháp lý này có khả năng tự mình thực hiện các quyền và nghĩa vụ, nghĩa là có năng lực hành vi và có tài sản riêng để bảo đảm thực hiện các quyền và nghĩa vụ đó. Bên cạnh đó, trên cơ sở thỏa thuận góp vốn thành lập công ty, các thỏa thuận khác liên quan đến việc hình thành và tồn tại của công ty cũng được xác lập. Do đó, góp vốn thành lập công ty không phải là một thỏa thuận riêng rẽ như việc góp vốn vào công ty đã thành lập mà thỏa thuận này được nằm trong các văn bản pháp lý của công ty. Ở nghĩa rộng hơn, thỏa thuận góp vốn thành lập công ty có thể hiểu là thỏa thuận thành lập công ty hay nói một cách khác đó chính là hợp đồng thành lập công ty giữa các chủ thể góp vốn. Vì lẽ đó, góp vốn thành lập công ty không chỉ đơn thuần là việc đóng góp tài sản hay việc chuyển dịch tài sản từ thành viên sang công ty mà thực chất đó là sự thỏa thuận của các chủ thể về việc đóng góp tài sản của mình để hình thành một thực thể pháp lý mới cũng như các quyền và nghĩa vụ của các phát sinh từ việc đóng góp tài sản của các thành viên và đối với thực thể pháp lý mới được hình thành.

Vì các lẽ nói trên, góp vốn thành lập công ty có thể hiểu là việc các chủ thể thỏa thuận đóng góp tài sản của mình để hình thành công ty, nhằm đổi lấy quyền sở hữu hoặc đồng chủ sở hữu đối với công ty.

2.1.1.2.   Khái niệm góp vốn thành lập công ty bằng quyền sở hữu trí tuệ

Để thành lập công ty, thì nghĩa vụ căn bản của các thành viên đó là nghĩa vụ góp vốn. Theo tác giả Ngô Huy Cương, khi đã giao kết hợp đồng thành lập công ty và cam kết góp vốn, thành viên đã tự ràng buộc mình thành người thụ trái hay con nợ của công ty. Do đó, trong một khoảng thời gian nhất định, thành viên, cổ đông góp vốn có nghĩa vụ thanh toán phần vốn góp theo cam kết ban đầu. Việc thanh toán phần vốn góp có thể bằng tiền, hiện vật, quyền sử dụng đất hay quyền SHTT…

SHTT đề cập đến thành tựu của lao động sáng tạo trí tuệ và thành quả đầu tư, được xem là một quyền theo luật pháp của các quốc gia trong đó có Việt Nam. Theo Luật SHTT năm 2005 sửa đổi, bổ sung qua các năm 2009, 2019 thì “quyền SHTT là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tài sản trí tuệ, bao gồm quyền tác giả và quyền liên quan đến quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp và quyền đối với giống cây trồng” [119; Điều 4].

Ở khía cạnh dân sự, quyền SHTT được hiểu là các quyền hợp pháp của các chủ thể đối với các tài sản trí tuệ được pháp luật ghi nhận và bảo hộ. SHTT đề cập đến các độc quyền mà các chủ thể được hưởng theo luật pháp trong hoạt động sáng tạo trí tuệ và hoạt động đầu tư của họ. Thông thường, nhà nước trao cho người sáng tạo sự độc quyền đối với thành tựu trí tuệ và thành quả dầu tư của họ trong một thời gian nhất định.

Ở khía cạnh thương mại, quyền SHTT là một loại tài sản vô hình. Đó là kết quả của lao động sáng tạo trí tuệ và thành quả đầu tư. Cũng như các loại tài sản hữu hình, quyền SHTT được bảo vệ bởi luật pháp quốc gia, có giá trị và giá trị sử dụng. Giá trị của một số bằng sáng chế, nhãn hiệu… có thể cao hơn nhiều so với tài sản hữu hình. Tuy nhiên, nếu như tất cả các quyền SHTT bao gồm quyền nhân thân và quyền tài sản đều có thể xem xét ở khía cạnh dân sự, thì khía cạnh thương mại chỉ dành cho các quyền tài sản. Bởi lẽ, các quyền nhân thân thường gắn liền với chủ thể tạo ra các đối tượng SHTT và không thể chuyển giao cũng như góp vốn cho các chủ thể khác. Trong khi đó các quyền tài sản thuộc quyền SHTT là các quyền có thể trị giá được bằng tiền và có thể chuyển giao trong các giao dịch dân sự. Vì vậy, quyền tài sản thuộc quyền SHTT có đủ các điều kiện để được coi là một loại tài sản và có thể dùng để góp vốn như các loại tài sản thông thường.

Theo lý thuyết về vốn là tài sản trí tuệ, quyền SHTT có thể trở thành vốn của công ty. Nguồn gốc của khái niệm vốn trí tuệ trong thế kỷ XX có liên quan với Taylor và cuốn sách của ông, Nguyên tắc quản lý khoa học, từ năm 1911, trong đó, ông viết về kiến thức, kinh nghiệm và kỹ năng của nhân viên. Sau đó, ý tưởng về vốn trí tuệ cũng đã được tìm thấy trong các tác phẩm của Chamberlinvà Robinson, người đã nhấn mạnh rằng, các khả năng của công ty, bí quyết kỹ thuật, nhãn hiệu, nhãn hiệu, bằng sáng chế, v.v. là chìa khóa cho thành công kinh doanh. Trong hoạt động kinh doanh, thương mại, độc quyền SHTT được công nhận là một loại tài sản. Với khả năng chuyển giao và trị giá được bằng tiền, độc quyền SHTT được xác định là tài sản có thể dùng để góp vốn. Tác giả Kolakovic nhận định trong nền kinh tế hiện đại, tài sản vô hình không được công khai trong bảng cân đối kế toán rất quan trọng đối với hoạt động của công ty, vì chúng có thể làm tăng đáng kể giá trị tài sản hoặc giá trị thị trường của công ty. Lý thuyết này dựa trên niềm tin rằng sự giàu có của công ty phụ thuộc vào vốn con người, cơ cấu và quan hệ, và giá trị được tạo ra bằng cách chuyển đổi vốn đầu tư thành một hình thức khác. Vì vậy, khi thành lập công ty, các thành viên, cổ đông sáng lập có thể thanh toán phần vốn góp hoặc cổ phần của mình không phải bằng tiền hoặc hiện vật hay quyền sử dụng đất mà có thể là quyền SHTT.

Theo: Nguyễn Thị Phương Thảo 

Link luận án:  Tại đây

avatar
Đặng Quỳnh
873 ngày trước
Lý luận về góp vốn thành lập công ty bằng quyền sở hữu trí tuệ
2.1.  Lý luận về góp vốn thành lập công ty bằng quyền sở hữu trí tuệ2.1.1.   Khái niệm góp vốn thành lập công ty bằng quyền sở hữu trí tuệ2.1.1.1.   Khái niệm góp vốn thành lập công tyCũng như các hiện tượng kinh tế khác, sự ra đời của công ty là một yêu cầu tất yếu khi mà nền sản xuất hàng hóa phát triển đến một mức độ nhất định. Khi nền kinh tế sản xuất hàng hóa phát triển, những doanh nghiệp nhỏ với vốn đầu tư thấp sẽ gặp nhiều bất lợi trong khi môi trường cạnh tranh ngày càng trở nên khốc liệt hơn. Bên cạnh đó, trong hoạt động kinh doanh thường gặp không ít các rủi ro.Vì vậy, để đáp ứng nhu cầu về vốn kinh doanh, nâng cao vị thế cạnh tranh trên thị trường cũng như chia sẻ các rủi ro trong hoạt động kinh doanh, đòi hỏi các chủ thể kinh doanh phải liên kết với nhau. Khi hai hay nhiều người cùng góp vốn để thành lập một doanh nghiệp, để tiến hành hoạt động kinh doanh kiếm lời chia nhau thì có nghĩa là họ đã thành lập một công ty. Theo Bộ luật dân sự của Pháp, công ty được thành lập bởi hai hoặc nhiều người trên cơ sở hợp đồng về việc đóng góp tài sản của họ vào hoạt động kinh doanh nhằm chia sẻ lợi nhuận hoặc thu lợi [55, điều 1832]. Ở phương diện pháp lý có thể hiểu rằng công ty là một thực thể pháp lý được hình thành trên cơ sở thỏa thuận đóng góp tài sản của các chủ thể kinh doanh, được ghi nhận bởi luật pháp để tiến hành hoạt động kinh doanh nhằm mục đích sinh lợi, cũng như chia sẽ các rủi ro. Có thể nhận định rằng, công ty ra đời là kết quả của việc thực hiện nguyên tắc tự do kinh doanh, tự do kết ước và tự do lập hội. Trên cơ sở sự thỏa thuận giữa các bên, công ty được hình thành. Lý thuyết hợp đồng xem công ty được thành lập theo hợp đồng tư nhân, trong đó vai trò của nhà nước bị giới hạn trong việc thực thi hợp đồng. Vì lẽ đó, công ty được xem một bản hợp đồng giữa vô số các bên, trong đó, góp vốn vừa là tiền đề, vừa là nội dung của thỏa thuận thành lập công ty.Để một công ty thành lập và hoạt động, vốn là điều kiện tiên quyết. Ban đầu, vốn được hình thành từ vốn góp của các thành viên. Đó là số tiền hoặc tài sản mà công ty nhận được từ cổ đông. Từ việc chuyển giao tiền hoặc các tài sản khác của các thành viên, cổ đông sáng lập vào công ty, nguồn vốn đầu tiên sẽ thiết lập. Một công ty bắt đầu thành lập sẽ không thể hoạt động nếu không có vốn. Do đó, vốn hình thành trên cơ sở hoạt động góp vốn của các thành viên, cổ đông sáng lập chính là cơ sở để đảm bảo cho các công ty mới thành lập tiến hành hoạt động sản xuất, kinh doanh của mình. Vì lẽ đó, góp vốn được xem là nghĩa vụ cơ bản của thành viên, cổ đông sáng lập trên cơ sở cam kết ban đầu của các thành viên để thành lập công ty. Góp vốn thường được các nhà nghiên cứu xem xét dưới hai khía cạnh pháp lý và kinh tế:Ở khía cạnh kinh tế, góp vốn là việc các thành viên đóng góp tài sản của mình vào công ty nhằm mục đích kinh doanh và thu được lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh. Với việc góp vốn, nguồn vốn ban đầu của công ty được hình thành nhằm đảm bảo chi phí hoạt động của công ty và đảm bảo quyền lợi cho các chủ nợ.Ở khía cạnh pháp lý, góp vốn có thể hiểu là hành vi chuyển giao tài sản, nói cách khác là hành vi chuyển các quyền đối với tài sản là vốn góp để đổi lấy quyền lợi đối với doanh nghiệp . Khi đưa tài sản vào để góp vốn, quyền sở hữu tài sản hoặc quyền hưởng dụng chuyển dịch từ chủ thể góp vốn sang công ty, đổi lại, chủ thể góp vốn sẽ được nhận được những lợi ích nhất định tương ứng với phần vốn góp của mình. Hành vi chuyển dịch tài sản để đổi lấy quyền lợi này không giống như hành vi mua bán hay cho thuê tài sản, bởi lẽ, mục đích cuối cùng khi chuyển dịch tài sản trong hành vi góp vốn không phải là thu được một khoản tiền nhất định, mà cái chủ thể hướng tới ở đây chính là lợi nhuận lâu dài từ việc khai thác, sử dụng nguồn vốn tương ứng với phần vốn góp cũng như quyền sở hữu hoặc đồng chủ sở hữu đối với công ty. Từ phương diện này, khái niệm góp vốn có thể tiếp cận theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp.Theo nghĩa rộng, góp vốn có thể hiểu là việc các chủ thể thỏa thuận chuyển quyền sở hữu, quyền sử dụng hợp pháp tài sản thuộc sở hữu hoặc quyền sử dụng hợp pháp của mình nhằm hình thành công ty hoặc tăng vốn điều lệ cho công ty, đổi lại, các chủ thể sẽ có các quyền và nghĩa vụ khi công ty được hình thành hoặc đối với công ty nhận góp vốn cũng như phải chịu các trách nhiệm pháp lý phát sinh từ thỏa thuận này.Theo nghĩa hẹp, góp vốn ở đây được định nghĩa là “việc góp tài sản” có nghĩa là có hành vi chuyển dịch quyền sở hữu, quyền sử dụng hợp pháp tài sản từ bên góp vốn sang bên nhận góp vốn. Từ hành vi này, tài sản công ty sẽ được hình thành hoặc tăng thêm.Ở Việt Nam, khái niệm góp vốn được ghi nhận từ khá sớm trong pháp luật doanh nghiệp và đã có những thay đổi qua các thời kỳ. Theo Luật Doanh nghiệp 1999 và Luật Doanh nghiệp 2005: “Góp vốn là việc đưa tài sản vào công ty để trở thành chủ sở hữu hoặc các chủ sở hữu chung của công ty”. Còn Luật Doanh nghiệp 2014 quy định: “Góp vốn là việc góp tài sản để tạo thành vốn điều lệ của công ty. Góp vốn bao gồm góp vốn để thành lập doanh nghiệp hoặc góp thêm vốn điều lệ của doanh nghiệp đã được thành lâp”. Tương tự, Luật Doanh nghiệp 2020 cũng quy định “Góp vốn là việc góp tài sản để tạo thành vốn điều lệ của công ty, bao gồm góp vốn để thành lập công ty hoặc góp thêm vốn điều lệ của công ty đã được thành lập” (Khoản 18 Điều 4). Có thể thấy, khái niệm góp vốn được ghi nhận trong pháp luật Việt Nam đã được tiếp cận theo nghĩa hẹp.Góp vốn bao gồm hai hình thức: góp vốn để thành lập công ty và góp thêm vốn điều lệ của công ty đã thành lập. Ở khía cạnh kinh tế, góp vốn để thành lập công ty hay góp thêm vốn điều lệ vào công ty đã thành lập đều là việc chủ thể góp vốn đưa tài sản vào công ty để đổi lấy lợi ích và quyền đối với công ty, tuy nhiên, hệ quả pháp lý của hai hành vi này lại khác nhau. Cụ thể, nếu như việc góp thêm vốn điều lệ của công ty đã thành lập nhằm mục đích tăng cường nguồn vốn cho công ty đã có sẵn thì góp vốn thành lâp công ty nhằm tạo ra một thực thể pháp lý độc lập. Thực thể pháp lý này có khả năng tự mình thực hiện các quyền và nghĩa vụ, nghĩa là có năng lực hành vi và có tài sản riêng để bảo đảm thực hiện các quyền và nghĩa vụ đó. Bên cạnh đó, trên cơ sở thỏa thuận góp vốn thành lập công ty, các thỏa thuận khác liên quan đến việc hình thành và tồn tại của công ty cũng được xác lập. Do đó, góp vốn thành lập công ty không phải là một thỏa thuận riêng rẽ như việc góp vốn vào công ty đã thành lập mà thỏa thuận này được nằm trong các văn bản pháp lý của công ty. Ở nghĩa rộng hơn, thỏa thuận góp vốn thành lập công ty có thể hiểu là thỏa thuận thành lập công ty hay nói một cách khác đó chính là hợp đồng thành lập công ty giữa các chủ thể góp vốn. Vì lẽ đó, góp vốn thành lập công ty không chỉ đơn thuần là việc đóng góp tài sản hay việc chuyển dịch tài sản từ thành viên sang công ty mà thực chất đó là sự thỏa thuận của các chủ thể về việc đóng góp tài sản của mình để hình thành một thực thể pháp lý mới cũng như các quyền và nghĩa vụ của các phát sinh từ việc đóng góp tài sản của các thành viên và đối với thực thể pháp lý mới được hình thành.Vì các lẽ nói trên, góp vốn thành lập công ty có thể hiểu là việc các chủ thể thỏa thuận đóng góp tài sản của mình để hình thành công ty, nhằm đổi lấy quyền sở hữu hoặc đồng chủ sở hữu đối với công ty.2.1.1.2.   Khái niệm góp vốn thành lập công ty bằng quyền sở hữu trí tuệĐể thành lập công ty, thì nghĩa vụ căn bản của các thành viên đó là nghĩa vụ góp vốn. Theo tác giả Ngô Huy Cương, khi đã giao kết hợp đồng thành lập công ty và cam kết góp vốn, thành viên đã tự ràng buộc mình thành người thụ trái hay con nợ của công ty. Do đó, trong một khoảng thời gian nhất định, thành viên, cổ đông góp vốn có nghĩa vụ thanh toán phần vốn góp theo cam kết ban đầu. Việc thanh toán phần vốn góp có thể bằng tiền, hiện vật, quyền sử dụng đất hay quyền SHTT…SHTT đề cập đến thành tựu của lao động sáng tạo trí tuệ và thành quả đầu tư, được xem là một quyền theo luật pháp của các quốc gia trong đó có Việt Nam. Theo Luật SHTT năm 2005 sửa đổi, bổ sung qua các năm 2009, 2019 thì “quyền SHTT là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tài sản trí tuệ, bao gồm quyền tác giả và quyền liên quan đến quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp và quyền đối với giống cây trồng” [119; Điều 4].Ở khía cạnh dân sự, quyền SHTT được hiểu là các quyền hợp pháp của các chủ thể đối với các tài sản trí tuệ được pháp luật ghi nhận và bảo hộ. SHTT đề cập đến các độc quyền mà các chủ thể được hưởng theo luật pháp trong hoạt động sáng tạo trí tuệ và hoạt động đầu tư của họ. Thông thường, nhà nước trao cho người sáng tạo sự độc quyền đối với thành tựu trí tuệ và thành quả dầu tư của họ trong một thời gian nhất định.Ở khía cạnh thương mại, quyền SHTT là một loại tài sản vô hình. Đó là kết quả của lao động sáng tạo trí tuệ và thành quả đầu tư. Cũng như các loại tài sản hữu hình, quyền SHTT được bảo vệ bởi luật pháp quốc gia, có giá trị và giá trị sử dụng. Giá trị của một số bằng sáng chế, nhãn hiệu… có thể cao hơn nhiều so với tài sản hữu hình. Tuy nhiên, nếu như tất cả các quyền SHTT bao gồm quyền nhân thân và quyền tài sản đều có thể xem xét ở khía cạnh dân sự, thì khía cạnh thương mại chỉ dành cho các quyền tài sản. Bởi lẽ, các quyền nhân thân thường gắn liền với chủ thể tạo ra các đối tượng SHTT và không thể chuyển giao cũng như góp vốn cho các chủ thể khác. Trong khi đó các quyền tài sản thuộc quyền SHTT là các quyền có thể trị giá được bằng tiền và có thể chuyển giao trong các giao dịch dân sự. Vì vậy, quyền tài sản thuộc quyền SHTT có đủ các điều kiện để được coi là một loại tài sản và có thể dùng để góp vốn như các loại tài sản thông thường.Theo lý thuyết về vốn là tài sản trí tuệ, quyền SHTT có thể trở thành vốn của công ty. Nguồn gốc của khái niệm vốn trí tuệ trong thế kỷ XX có liên quan với Taylor và cuốn sách của ông, Nguyên tắc quản lý khoa học, từ năm 1911, trong đó, ông viết về kiến thức, kinh nghiệm và kỹ năng của nhân viên. Sau đó, ý tưởng về vốn trí tuệ cũng đã được tìm thấy trong các tác phẩm của Chamberlinvà Robinson, người đã nhấn mạnh rằng, các khả năng của công ty, bí quyết kỹ thuật, nhãn hiệu, nhãn hiệu, bằng sáng chế, v.v. là chìa khóa cho thành công kinh doanh. Trong hoạt động kinh doanh, thương mại, độc quyền SHTT được công nhận là một loại tài sản. Với khả năng chuyển giao và trị giá được bằng tiền, độc quyền SHTT được xác định là tài sản có thể dùng để góp vốn. Tác giả Kolakovic nhận định trong nền kinh tế hiện đại, tài sản vô hình không được công khai trong bảng cân đối kế toán rất quan trọng đối với hoạt động của công ty, vì chúng có thể làm tăng đáng kể giá trị tài sản hoặc giá trị thị trường của công ty. Lý thuyết này dựa trên niềm tin rằng sự giàu có của công ty phụ thuộc vào vốn con người, cơ cấu và quan hệ, và giá trị được tạo ra bằng cách chuyển đổi vốn đầu tư thành một hình thức khác. Vì vậy, khi thành lập công ty, các thành viên, cổ đông sáng lập có thể thanh toán phần vốn góp hoặc cổ phần của mình không phải bằng tiền hoặc hiện vật hay quyền sử dụng đất mà có thể là quyền SHTT.Theo: Nguyễn Thị Phương Thảo Link luận án:  Tại đây