0888889366
Tra cứu thông tin hợp đồng
timeline_post_file64bf302f3621d-Giải-pháp-nâng-cao-hiệu-quả-thực-hiện-pháp-luật-về-góp-vốn-thành-lập-công-ty-bằng-quyền-sở-hữu-trí-tuệ-ở-Việt-Nam-.jpg.webp

Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về góp vốn thành lập công ty bằng quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam

4.3.   Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về góp vốn thành lập công ty bằng quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam

Để nâng cao hiệu quả góp vốn thành lập công ty bằng quyền SHTT, bên cạnh việc hoàn thiện các quy định của pháp luật về góp vốn thành lập công ty bằng quyền SHTT cũng như cần có hướng dẫn cụ thể và chi tiết đối với việc góp vốn bằng loại tài sản này, cần phải kết hợp các giải pháp sau đây:

Thứ nhất, pháp luật cần phải có hướng dẫn cụ thể và chi tiết hơn đối với việc góp vốn thành lập công ty bằng quyền SHTT, cũng như cần có sự thống nhất giữa các văn bản pháp luật liên quan đến góp vốn thành lập công ty bằng quyền SHTT. Pháp luật Doanh nghiệp Việt Nam đã có những quy định mang tính chất điều chỉnh chung đối với hoạt động góp vốn thành lập công ty nói chung. Tuy nhiên, việc áp dụng các quy định này đối với tài sản góp vốn là quyền SHTT lại không hề dễ dàng. Do đó, pháp luật cần có các hướng dẫn cụ thể về các nội dung như đối tượng góp vốn, định giá quyền SHTT góp vốn, chuyển giao tài sản góp vốn, trách nhiệm pháp lý do vi phạm hoạt động góp vốn... để các chủ thể góp vốn cũng như chủ thể kinh doanh có thể hiểu rõ về việc góp vốn và nhận góp vốn bằng tài sản này. Bên cạnh đó, cần có sự thống nhất giữa các văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động góp vốn thành lập công ty bằng quyền SHTT, tránh trường hợp chồng chéo, mâu thuẫn gây khó khăn cho các chủ thể khi thực hiện góp vốn thành lập công ty bằng quyền SHTT.

Thứ hai, doanh nghiệp cần chủ động tìm hiểu các quy định của pháp luật về góp vốn thành lập công ty bằng quyền SHTT. Hiện nay, SHTT vẫn còn

là vấn đề xa lạ với nhiều cá nhân, tổ chức và doanh nghiệp. Dù quyền SHTT được xác định là một loại tài sản, tuy nhiên, việc góp vốn bằng quyền SHTT lại không khiến ít chủ thể phải lúng túng. Việc hạn chế trong hiểu biết về quyền SHTT chính là một trong những nguyên nhân khiến cho việc góp vốn thành lập công ty bằng quyền SHTT chưa thực sự phổ biến ở Việt Nam. Vì vậy, các doanh nghiệp cũng cần phải chủ động tìm hiểu các quy định của pháp luật về quyền SHTT cũng như góp vốn bằng loại tài sản này. Từ đó, nắm được các rủi ro pháp lý có thể xảy ra khi nhận góp vốn bằng quyền SHTT. Để ngăn chặn các rủi ro có thể xảy ra khi góp vốn và nhận góp vốn thành lập công ty bằng quyền SHTT, các  bên cần phải lưu ý các vấn đề sau:

(i)   xem xét về tư cách chủ thể góp vốn đối với quyền SHTT góp vốn. Điều này có thể thực hiện bằng cách xem lại văn bằng bảo hộ đã được cấp cho các chủ thể đó. Một số trường hợp, có thể phải xem xét lại hợp đồng gốc để xác định đúng tư cách của các chủ thể đối với quyền SHTT. Đối với các đối tượng không bắt buộc phải đăng ký bảo hộ quyền SHTT tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền như phần mềm máy tính, bản quyền khác thì có thể không có các giấy chứng nhận quyền do cơ quan có thẩm quyền cấp. Điều này sẽ gây trở ngại trong việc xác định về tính hợp pháp của quyền. Vì vậy, đối với trường hợp này, bên nhận góp vốn nên yêu cầu các chủ thể góp vốn phải thực hiện thủ tục đăng ký và cung cấp cho bên nhận góp vốn giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả.

(ii) để tránh các trường hợp quyền SHTT góp vốn bị hủy bỏ hiệu lực văn bằng bảo hộ, bên nhận góp vốn cần xem xét cụ thể các tài liệu giấy tờ liên quan đến đối tượng của quyền SHTT góp vốn cũng như nắm bắt thêm các thông tin về các đối tượng tương tự, có liên quan với đối tượng của quyền SHTT góp vốn để kiểm tra về tính hợp lệ của văn bằng bảo hộ đã cấp cho đối tượng SHTT.

(iii)   xác định đúng thời điểm bắt đầu và kết thúc của thời hạn bảo hộ cũng như phạm vi không gian mà quyền SHTT được bảo hộ. Từ đó, xác định cụ thể phạm vi thời gian và không gian góp vốn bằng quyền SHTT. Việc xác định thời hạn bảo hộ không gặp nhiều khó khăn bởi lẽ thông thường, đối với các đối tượng đã được cấp văn bằng bảo hộ thì thời hạn bảo hộ đã được ghi rõ trong văn bằng bảo hộ.

(iii) nắm rõ các quy định của pháp luật về hình thức chuyển nhượng đối với quyền SHTT cho từng đối tượng SHTT để đảm bảo việc chuyển nhượng tuân thủ đúng các quy định của pháp luật. Đối với chuyển nhượng quyền SHTT góp vốn, ngoài việc tuân thủ các quy định pháp luật doanh nghiệp nói chung về chuyển quyền sở hữu tài sản góp vốn nói chung còn phải tuân theo các quy định của Luật SHTT về chuyển nhượng quyền SHTT.

(iii) đối với hoạt động định giá quyền SHTT góp vốn, nên có sự tham gia của tổ chức thẩm định giá và lấy mức giá mà tổ chức thẩm định giá đưa ra để làm căn cứ cho mức thỏa thuận của các chủ thể góp vốn thành lập công ty. Các chủ thể góp vốn thành lập công ty có thể thỏa thuận về mức giá nhưng không nên cao hơn mức giá mà tổ chức thẩm định giá đã đưa ra.

Ngoài ra, dù hiện nay Luật doanh nghiệp không quy định về hợp đồng thành lập công ty hay thỏa thuận góp vốn thành lập công ty. Tuy nhiên, để hạn chế các rủi ro từ việc nhận góp vốn bằng loại tài sản này, các chủ thể góp vốn nên dự liệu về các trường hợp có thể xảy ra và thỏa thuận về các trách nhiệm phát sinh trong trường hợp này.

Thứ ba, tăng cường sự sự phối hợp giữa các cơ quan, ban ngành có liên quan trong việc giải quyết các vấn đề liên quan đến quyền SHTT với cơ quan đăng ký kinh doanh và các cơ quan tiến hành tố tụng.

Việc giải quyết các vấn đề liên quan đến quyền SHTT như tranh chấp quyền SHTT vẫn còn nhiều vướng mắc. Thời gian giải quyết thường kéo dài đã gây khó khăn cho các chủ thể quyền SHTT khi thực hiện quyền hợp pháp của mình. Ở Việt Nam hiện nay, không có Tòa án chuyên trách giải quyết các vấn đề về SHTT. Do đó, khi có tranh chấp xảy ra, thông thường Tòa án phải xin ý kiến từ các chuyên gia về SHTT.

Bên cạnh đó, cần có sự phối hợp giữa các cơ quan như Tòa án, Cục SHTT..., bởi lẽ, một số trường hợp, quyền SHTT góp vốn là tài sản đang có tranh chấp, tuy nhiên, các bên vẫn sử dụng các quyền SHTT đó để chuyển nhượng hoặc góp vốn.

Theo: Nguyễn Thị Phương Thảo 

Link luận án:  Tại đây

avatar
Đặng Quỳnh
284 ngày trước
Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về góp vốn thành lập công ty bằng quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam
4.3.   Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về góp vốn thành lập công ty bằng quyền sở hữu trí tuệ ở Việt NamĐể nâng cao hiệu quả góp vốn thành lập công ty bằng quyền SHTT, bên cạnh việc hoàn thiện các quy định của pháp luật về góp vốn thành lập công ty bằng quyền SHTT cũng như cần có hướng dẫn cụ thể và chi tiết đối với việc góp vốn bằng loại tài sản này, cần phải kết hợp các giải pháp sau đây:Thứ nhất, pháp luật cần phải có hướng dẫn cụ thể và chi tiết hơn đối với việc góp vốn thành lập công ty bằng quyền SHTT, cũng như cần có sự thống nhất giữa các văn bản pháp luật liên quan đến góp vốn thành lập công ty bằng quyền SHTT. Pháp luật Doanh nghiệp Việt Nam đã có những quy định mang tính chất điều chỉnh chung đối với hoạt động góp vốn thành lập công ty nói chung. Tuy nhiên, việc áp dụng các quy định này đối với tài sản góp vốn là quyền SHTT lại không hề dễ dàng. Do đó, pháp luật cần có các hướng dẫn cụ thể về các nội dung như đối tượng góp vốn, định giá quyền SHTT góp vốn, chuyển giao tài sản góp vốn, trách nhiệm pháp lý do vi phạm hoạt động góp vốn... để các chủ thể góp vốn cũng như chủ thể kinh doanh có thể hiểu rõ về việc góp vốn và nhận góp vốn bằng tài sản này. Bên cạnh đó, cần có sự thống nhất giữa các văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động góp vốn thành lập công ty bằng quyền SHTT, tránh trường hợp chồng chéo, mâu thuẫn gây khó khăn cho các chủ thể khi thực hiện góp vốn thành lập công ty bằng quyền SHTT.Thứ hai, doanh nghiệp cần chủ động tìm hiểu các quy định của pháp luật về góp vốn thành lập công ty bằng quyền SHTT. Hiện nay, SHTT vẫn cònlà vấn đề xa lạ với nhiều cá nhân, tổ chức và doanh nghiệp. Dù quyền SHTT được xác định là một loại tài sản, tuy nhiên, việc góp vốn bằng quyền SHTT lại không khiến ít chủ thể phải lúng túng. Việc hạn chế trong hiểu biết về quyền SHTT chính là một trong những nguyên nhân khiến cho việc góp vốn thành lập công ty bằng quyền SHTT chưa thực sự phổ biến ở Việt Nam. Vì vậy, các doanh nghiệp cũng cần phải chủ động tìm hiểu các quy định của pháp luật về quyền SHTT cũng như góp vốn bằng loại tài sản này. Từ đó, nắm được các rủi ro pháp lý có thể xảy ra khi nhận góp vốn bằng quyền SHTT. Để ngăn chặn các rủi ro có thể xảy ra khi góp vốn và nhận góp vốn thành lập công ty bằng quyền SHTT, các  bên cần phải lưu ý các vấn đề sau:(i)   xem xét về tư cách chủ thể góp vốn đối với quyền SHTT góp vốn. Điều này có thể thực hiện bằng cách xem lại văn bằng bảo hộ đã được cấp cho các chủ thể đó. Một số trường hợp, có thể phải xem xét lại hợp đồng gốc để xác định đúng tư cách của các chủ thể đối với quyền SHTT. Đối với các đối tượng không bắt buộc phải đăng ký bảo hộ quyền SHTT tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền như phần mềm máy tính, bản quyền khác thì có thể không có các giấy chứng nhận quyền do cơ quan có thẩm quyền cấp. Điều này sẽ gây trở ngại trong việc xác định về tính hợp pháp của quyền. Vì vậy, đối với trường hợp này, bên nhận góp vốn nên yêu cầu các chủ thể góp vốn phải thực hiện thủ tục đăng ký và cung cấp cho bên nhận góp vốn giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả.(ii) để tránh các trường hợp quyền SHTT góp vốn bị hủy bỏ hiệu lực văn bằng bảo hộ, bên nhận góp vốn cần xem xét cụ thể các tài liệu giấy tờ liên quan đến đối tượng của quyền SHTT góp vốn cũng như nắm bắt thêm các thông tin về các đối tượng tương tự, có liên quan với đối tượng của quyền SHTT góp vốn để kiểm tra về tính hợp lệ của văn bằng bảo hộ đã cấp cho đối tượng SHTT.(iii)   xác định đúng thời điểm bắt đầu và kết thúc của thời hạn bảo hộ cũng như phạm vi không gian mà quyền SHTT được bảo hộ. Từ đó, xác định cụ thể phạm vi thời gian và không gian góp vốn bằng quyền SHTT. Việc xác định thời hạn bảo hộ không gặp nhiều khó khăn bởi lẽ thông thường, đối với các đối tượng đã được cấp văn bằng bảo hộ thì thời hạn bảo hộ đã được ghi rõ trong văn bằng bảo hộ.(iii) nắm rõ các quy định của pháp luật về hình thức chuyển nhượng đối với quyền SHTT cho từng đối tượng SHTT để đảm bảo việc chuyển nhượng tuân thủ đúng các quy định của pháp luật. Đối với chuyển nhượng quyền SHTT góp vốn, ngoài việc tuân thủ các quy định pháp luật doanh nghiệp nói chung về chuyển quyền sở hữu tài sản góp vốn nói chung còn phải tuân theo các quy định của Luật SHTT về chuyển nhượng quyền SHTT.(iii) đối với hoạt động định giá quyền SHTT góp vốn, nên có sự tham gia của tổ chức thẩm định giá và lấy mức giá mà tổ chức thẩm định giá đưa ra để làm căn cứ cho mức thỏa thuận của các chủ thể góp vốn thành lập công ty. Các chủ thể góp vốn thành lập công ty có thể thỏa thuận về mức giá nhưng không nên cao hơn mức giá mà tổ chức thẩm định giá đã đưa ra.Ngoài ra, dù hiện nay Luật doanh nghiệp không quy định về hợp đồng thành lập công ty hay thỏa thuận góp vốn thành lập công ty. Tuy nhiên, để hạn chế các rủi ro từ việc nhận góp vốn bằng loại tài sản này, các chủ thể góp vốn nên dự liệu về các trường hợp có thể xảy ra và thỏa thuận về các trách nhiệm phát sinh trong trường hợp này.Thứ ba, tăng cường sự sự phối hợp giữa các cơ quan, ban ngành có liên quan trong việc giải quyết các vấn đề liên quan đến quyền SHTT với cơ quan đăng ký kinh doanh và các cơ quan tiến hành tố tụng.Việc giải quyết các vấn đề liên quan đến quyền SHTT như tranh chấp quyền SHTT vẫn còn nhiều vướng mắc. Thời gian giải quyết thường kéo dài đã gây khó khăn cho các chủ thể quyền SHTT khi thực hiện quyền hợp pháp của mình. Ở Việt Nam hiện nay, không có Tòa án chuyên trách giải quyết các vấn đề về SHTT. Do đó, khi có tranh chấp xảy ra, thông thường Tòa án phải xin ý kiến từ các chuyên gia về SHTT.Bên cạnh đó, cần có sự phối hợp giữa các cơ quan như Tòa án, Cục SHTT..., bởi lẽ, một số trường hợp, quyền SHTT góp vốn là tài sản đang có tranh chấp, tuy nhiên, các bên vẫn sử dụng các quyền SHTT đó để chuyển nhượng hoặc góp vốn.Theo: Nguyễn Thị Phương Thảo Link luận án:  Tại đây