0888889366
Tra cứu thông tin hợp đồng
timeline_post_file64bf4d4996c4e-_Thực-trạng-pháp-luật-về-chấm-dứt-hoạt-động-theo-mô-hình-tập-đoàn-kinh-tế.jpg.webp

Thực trạng pháp luật về chấm dứt hoạt động theo mô hình tập đoàn kinh tế

3.2. Thực trạng pháp luật về chấm dứt hoạt động theo mô hình tập đoàn kinh tế

TĐKT là mô hình tổ chức hoạt động kinh doanh trên cơ sở liên kết. Chấm dứt hoạt động theo mô hình tập đoàn xảy ra khi những liên kết trong tập đoàn chấm dứt. Đối với hình thức liên kết vốn trong TĐKT, liên kết chấm dứt khi công ty mẹ rút vốn khỏi công ty con, công ty liên kết thông qua việc chuyển nhượng cổ phần, phần vốn góp hoặc quyết định giải thể, phá sản công ty con.

Đối với các hình thức liên kết khác, liên kết chấm dứt khi thỏa thuận hình thành liên kết hết hiệu lực hoặc các bên thỏa thuận kết thúc hợp đồng.

Đối với TĐKT tư nhân, liên kết hình thành TĐKT xuất phát từ tự do ý chí của các pháp nhân tham gia. Những liên kết này chấm dứt cũng do ý chí của các pháp nhân tham gia vì vậy pháp luật không quy định về thủ tục chấm dứt TĐKT tư nhân.

Đối với TĐKT nhà nước, Nhà nước ra quyết định thành lập TĐKT để thực hiện những mục tiêu cụ thể. Trong trường hợp mục tiêu đó không đạt được, Nhà nước có quyết định để chấm dứt việc triển khai mô hình tập đoàn từ đó tái cấu trúc lại công ty thành viên. Nhà nước quản lý hoạt động của TĐKT nhà nước thông qua công ty mẹ. Vì vậy, sự tồn tại của mô hình TĐKT phụ thuộc vào hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty mẹ. Nếu công ty mẹ không thể tồn tại trên thị trường thì đồng nghĩa với việc chấm dứt hoạt động của TĐKT. Theo quy định tại Nghị định 69/2014/NĐ-CP có 04 (bốn) trường hợp phải chấm dứt hoạt động của TĐKT nhà nước:

Thứ nhất, công ty mẹ bị phá sản, giải thể. Thực tế ở Việt Nam chưa xảy ra

trường hợp này vì khi công ty mẹ nếu gặp khó khăn về tài chính thì Nhà nước thường tìm kiếm các giải pháp để tái cơ cấu lại công ty mẹ mà không để công ty mẹ phá sản theo quy luật thị trường. Xét về bản chất pháp lý của TĐKT, quy định này không phù hợp vì công ty mẹ cũng là một pháp nhân trong tập đoàn, sự chấm dứt hoạt động của pháp nhân này chỉ làm ảnh hưởng tới liên kết giữa các pháp nhân mà không làm chấm dứt sự tồn tại của các pháp nhân khác. Nghị định 69/2014/NĐ-CP cũng chỉ quy định về việc giải quyết các vấn đề tài chính, người lao động của công ty mẹ mà không quy định về những giải pháp cho công ty con.

Thứ hai, TĐKT không đáp ứng được các điều kiện luật định. Đây là trường hợp chấm dứt hoạt động của TĐKT khi ngành nghề kinh doanh của tập đoàn không còn là ngành nghề kinh doanh đặc biệt quan trọng.

Một trường hợp thực tế: Tập đoàn dệt may Việt Nam (Viantex). Tập đoàn dệt may Việt Nam được thành lập từ năm 2005, tiền thân là Tổng công ty dệt may Việt Nam. Năm 2013, Chính phủ đã ban hành Nghị định 118/2013/NĐ-CP về Điều lệ Tập đoàn dệt may Việt Nam. Tuy nhiên, do ngành may mặc không thuộc ngành nghề kinh doanh đặc biệt quan trọng theo Quyết định 14/2011/QĐ - TTg, công ty mẹ của Tập đoàn dệt may Việt Nam đã tiến hành cổ phần hóa theo Quyết định số 646/2014/QĐ-TTg, theo đó Nhà nước chỉ còn nắm giữ 51%. Đợt IPO lần đầu diễn ra ngày 22 tháng 09 năm 2014 đã thành công. Tập đoàn dệt may Việt Nam chấm dứt hoạt động dưới mô hình TĐKT nhà nước, cơ cấu quản trị của công ty mẹ cũng thay đổi theo mô hình công ty cổ phần.

Thứ ba, công ty mẹ bị sáp nhập, hợp nhất với doanh nghiệp khác mà Nhà nước không nắm cổ phần, phần vốn góp chi phối. Quy định này mâu thuẫn với điều kiện thành lập TĐKT nhà nước vì theo quy định tại Điều 9 Nghị định 69/2014/NĐ-CP, Nhà nước phải nắm giữ ít nhất 75% tổng số cổ phần phát hành hoặc vốn điều lệ của công ty mẹ. Trong trường hợp sau khi bị sáp nhập, hợp nhất mà Nhà nước vẫn nắm trên 50% cổ phần, phần vốn góp của công ty mẹ thì có chấm dứt hoạt động dưới mô hình TĐKT nhà nước hay không. Thực tế tại Việt Nam chưa có trường hợp này.

Thứ tư, trường hợp khác theo quy định của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ. Mặc dù chỉ là “trường hợp khác” nhưng thực tế ở Việt Nam lại xảy ra nhiều nhất.

Tiêu biểu là trường hợp của Tập đoàn công nghiệp tàu thủy Việt Nam (Vinashin). Được thành lập từ năm 2006 (tiền thân là Tổng công ty công nghiệp tàu thủy Việt Nam), Vinashin được coi là TĐKT trọng điểm phát triển công nghiệp nặng. Vinashin được Nhà nước đầu tư vốn rất lớn, hỗ trợ, bảo lãnh để vay vốn, phát hành trái phiếu quốc tế. Tuy nhiên, hoạt động kinh doanh của Vinashin không hiệu quả, có biểu hiện tham nhũng, số nợ lên tới hơn 80.000 (tám mươi nghìn) tỷ đồng. Sau giai đoạn tái cơ cấu từ năm 2010 - 2013 không thành công, Nhà nước thực hiện việc chuyển đổi Vinashin từ mô hình TĐKT nhà nước thành TCT nhà nước theo Quyết định 3287/QĐ-TTg. Sự chuyển đổi này về bản chất là hình thức “bình mới rượu cũ” nhằm mục đích tránh dư luận xã hội đang rất bức xúc.

Đối với trường hợp Tập đoàn phát triển nhà và đô thị Việt Nam (HUD) và Tập đoàn công nghiệp xây dựng Việt Nam (VNIC). Tháng 01 năm 20 10, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt đề án thí điểm thành lập 02 tập đoàn trên theo quyết định số 52/QĐ-TTg và 54/QĐ-TTg [83] [84]. Trong đó Tập đoàn phát triển nhà và đô thị Việt Nam (HUD) được thành lập với nòng cốt là Tổng công ty phát triển nhà và đô thị, Tập đoàn công nghiệp xây dựng Việt Nam (VNIC) với nòng cốt là Tổng công ty Sông Đà và một số TCT xây dựng lớn khác (Lilama, Licogi, Coma). Tuy nhiên, sau 02 năm thí điểm không thành công, hoạt động của các công ty trong tập đoàn giảm hiệu quả nghiêm trọng , Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số 1428/QĐ-TTg kết thúc thí điểm, chấm dứt hoạt động theo mô hình TĐKT nhà nước của hai tập đoàn trên, chuyển các đơn vị thành viên tập đoàn về “vị trí cũ”.

Trên thực tế, hệ quả của giai đoạn phát triển nhanh chóng nhưng thiếu bền vững trước kia đã làm cho các TĐKT nhà nước gặp nhiều khó khăn. Các TĐKT nhà nước đang “loay hoay” trong bài toán “thoái vốn” ngoài ngành, đặc biệt trong lĩnh vực bất động sản, ngân hàng, chứng khoán. Vì cả thị trường bất động sản, thị trường chứng khoán đề rất trầm lắng. Trong khi đó, nếu các TĐKT nhà nước thoái vốn không theo giá thị trường bị coi là làm “mất vốn Nhà nước” hoặc làm “thất thoát vốn Nhà nước”.

Về sắp xếp, cổ phần hóa DNNN, tính đến 31/12/2013 cả nước đã thực hiện sắp xếp được 6. 782 doanh nghiệp, trong đó cổ phần hóa 4.065 doanh nghiệp (bao gồm 3.650 doanh nghiệp và 415 bộ phận doanh nghiệp), còn lại 949 doanh nghiệp 100% vốn nhà nước (chưa kể các nông, lâm trường quốc doanh). Riêng giai đoạn 2011 - 2013, cả nước đã thực hiện sắp xếp được 180 doanh nghiệp, trong đó cổ phần hóa 99 doanh nghiệp và sắp xếp theo các hình thức khác 81 doanh nghiệp. Trong 11 tháng đầu năm 2014, cả nước đã sắp xếp được 177 doanh nghiệp, trong đó cổ phần hóa 115 doanh nghiệp. Theo kế hoạch sắp xếp, cổ phần hóa đã được duyệt thì trong giai đoạn 2014 - 2015 cả nước thực hiện cổ phần hóa 432 doanh nghiệp, chưa kể số DNNN tiếp tục thực hiện rà soát theo tiêu chí, danh mục phân loại DNNN mới ban hành kèm theo Quyết định số 37/2014/QĐ-TTg ngày 18/6/2014 của Thủ tướng Chính phủ để bổ sung phương án sắp xếp, cổ phần hóa giai đoạn tới .

Trong giai đoạn 2014 - 2015, các Tập đoàn, Tổng công ty nhà nước tiếp tục thực hiện thoái vốn đầu tư vào 5 lĩnh vực nhạy cảm, nhiều rủi ro (chứng khoán, tài chính ngân hàng, bảo hiểm, bất động sản, quỹ đầu tư) và ngoài ngành nghề sản xuất kinh doanh chính theo đề án tái cơ cấu đã được phê duyệt. Giá trị các khoản đầu tư vào 5 lĩnh vực nhạy cảm của các Tập đoàn, TCT nhà nước phải thực hiện thoái vốn trong giai đoạn 2014 - 2015 là 22.504 tỷ đồng. Trong 10 tháng năm 2014, các Tập đoàn, TCT thoái vốn ước đạt 2.415 tỷ đồng, tăng gấp 2,5 lần so với thực hiện năm 2013 (965 tỷ đồng) [119]. Đến hết năm 2014, các TĐKT nhà nước vẫn chưa thực hiện xong việc thoái vốn. Tập đoàn điện lực Việt Nam vẫn sở hữu cổ phần của Ngân hàng An Bình, Công ty cổ phần chứng khoán An Bình, Công ty bảo hiểm toàn cầu, Công ty tài chính cổ phần điện lực, Công ty cổ phần BĐS Sài Gòn Vina . Tập đoàn Dầu khí Việt Nam vẫn sở hữu cổ phần của Ngân hàng Thương mại cổ phần Đại chúng Việt Nam (Pvcombank), Ngân hàng TMCP Đại Dương (Ocean Bank), Công ty bảo hiểm dầu khí (PVI), Công ty cổ phần đầu tư tài chính công đoàn dầu khí Việt Nam (PVFI) . Tập đoàn than khoáng sản Việt Nam (Vinacomin) vẫn sở hữu cổ phần Công ty cổ phần bảo hiểm Hàng Không, Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn - Hà Nội (SHB), Công ty cổ phần chứng khoán SHS, Quỹ đầu tư Việt Nam.

Theo: Vũ Phương Đông 

Link luận án:  Tại đây

avatar
Đặng Quỳnh
295 ngày trước
Thực trạng pháp luật về chấm dứt hoạt động theo mô hình tập đoàn kinh tế
3.2. Thực trạng pháp luật về chấm dứt hoạt động theo mô hình tập đoàn kinh tếTĐKT là mô hình tổ chức hoạt động kinh doanh trên cơ sở liên kết. Chấm dứt hoạt động theo mô hình tập đoàn xảy ra khi những liên kết trong tập đoàn chấm dứt. Đối với hình thức liên kết vốn trong TĐKT, liên kết chấm dứt khi công ty mẹ rút vốn khỏi công ty con, công ty liên kết thông qua việc chuyển nhượng cổ phần, phần vốn góp hoặc quyết định giải thể, phá sản công ty con.Đối với các hình thức liên kết khác, liên kết chấm dứt khi thỏa thuận hình thành liên kết hết hiệu lực hoặc các bên thỏa thuận kết thúc hợp đồng.Đối với TĐKT tư nhân, liên kết hình thành TĐKT xuất phát từ tự do ý chí của các pháp nhân tham gia. Những liên kết này chấm dứt cũng do ý chí của các pháp nhân tham gia vì vậy pháp luật không quy định về thủ tục chấm dứt TĐKT tư nhân.Đối với TĐKT nhà nước, Nhà nước ra quyết định thành lập TĐKT để thực hiện những mục tiêu cụ thể. Trong trường hợp mục tiêu đó không đạt được, Nhà nước có quyết định để chấm dứt việc triển khai mô hình tập đoàn từ đó tái cấu trúc lại công ty thành viên. Nhà nước quản lý hoạt động của TĐKT nhà nước thông qua công ty mẹ. Vì vậy, sự tồn tại của mô hình TĐKT phụ thuộc vào hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty mẹ. Nếu công ty mẹ không thể tồn tại trên thị trường thì đồng nghĩa với việc chấm dứt hoạt động của TĐKT. Theo quy định tại Nghị định 69/2014/NĐ-CP có 04 (bốn) trường hợp phải chấm dứt hoạt động của TĐKT nhà nước:Thứ nhất, công ty mẹ bị phá sản, giải thể. Thực tế ở Việt Nam chưa xảy ratrường hợp này vì khi công ty mẹ nếu gặp khó khăn về tài chính thì Nhà nước thường tìm kiếm các giải pháp để tái cơ cấu lại công ty mẹ mà không để công ty mẹ phá sản theo quy luật thị trường. Xét về bản chất pháp lý của TĐKT, quy định này không phù hợp vì công ty mẹ cũng là một pháp nhân trong tập đoàn, sự chấm dứt hoạt động của pháp nhân này chỉ làm ảnh hưởng tới liên kết giữa các pháp nhân mà không làm chấm dứt sự tồn tại của các pháp nhân khác. Nghị định 69/2014/NĐ-CP cũng chỉ quy định về việc giải quyết các vấn đề tài chính, người lao động của công ty mẹ mà không quy định về những giải pháp cho công ty con.Thứ hai, TĐKT không đáp ứng được các điều kiện luật định. Đây là trường hợp chấm dứt hoạt động của TĐKT khi ngành nghề kinh doanh của tập đoàn không còn là ngành nghề kinh doanh đặc biệt quan trọng.Một trường hợp thực tế: Tập đoàn dệt may Việt Nam (Viantex). Tập đoàn dệt may Việt Nam được thành lập từ năm 2005, tiền thân là Tổng công ty dệt may Việt Nam. Năm 2013, Chính phủ đã ban hành Nghị định 118/2013/NĐ-CP về Điều lệ Tập đoàn dệt may Việt Nam. Tuy nhiên, do ngành may mặc không thuộc ngành nghề kinh doanh đặc biệt quan trọng theo Quyết định 14/2011/QĐ - TTg, công ty mẹ của Tập đoàn dệt may Việt Nam đã tiến hành cổ phần hóa theo Quyết định số 646/2014/QĐ-TTg, theo đó Nhà nước chỉ còn nắm giữ 51%. Đợt IPO lần đầu diễn ra ngày 22 tháng 09 năm 2014 đã thành công. Tập đoàn dệt may Việt Nam chấm dứt hoạt động dưới mô hình TĐKT nhà nước, cơ cấu quản trị của công ty mẹ cũng thay đổi theo mô hình công ty cổ phần.Thứ ba, công ty mẹ bị sáp nhập, hợp nhất với doanh nghiệp khác mà Nhà nước không nắm cổ phần, phần vốn góp chi phối. Quy định này mâu thuẫn với điều kiện thành lập TĐKT nhà nước vì theo quy định tại Điều 9 Nghị định 69/2014/NĐ-CP, Nhà nước phải nắm giữ ít nhất 75% tổng số cổ phần phát hành hoặc vốn điều lệ của công ty mẹ. Trong trường hợp sau khi bị sáp nhập, hợp nhất mà Nhà nước vẫn nắm trên 50% cổ phần, phần vốn góp của công ty mẹ thì có chấm dứt hoạt động dưới mô hình TĐKT nhà nước hay không. Thực tế tại Việt Nam chưa có trường hợp này.Thứ tư, trường hợp khác theo quy định của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ. Mặc dù chỉ là “trường hợp khác” nhưng thực tế ở Việt Nam lại xảy ra nhiều nhất.Tiêu biểu là trường hợp của Tập đoàn công nghiệp tàu thủy Việt Nam (Vinashin). Được thành lập từ năm 2006 (tiền thân là Tổng công ty công nghiệp tàu thủy Việt Nam), Vinashin được coi là TĐKT trọng điểm phát triển công nghiệp nặng. Vinashin được Nhà nước đầu tư vốn rất lớn, hỗ trợ, bảo lãnh để vay vốn, phát hành trái phiếu quốc tế. Tuy nhiên, hoạt động kinh doanh của Vinashin không hiệu quả, có biểu hiện tham nhũng, số nợ lên tới hơn 80.000 (tám mươi nghìn) tỷ đồng. Sau giai đoạn tái cơ cấu từ năm 2010 - 2013 không thành công, Nhà nước thực hiện việc chuyển đổi Vinashin từ mô hình TĐKT nhà nước thành TCT nhà nước theo Quyết định 3287/QĐ-TTg. Sự chuyển đổi này về bản chất là hình thức “bình mới rượu cũ” nhằm mục đích tránh dư luận xã hội đang rất bức xúc.Đối với trường hợp Tập đoàn phát triển nhà và đô thị Việt Nam (HUD) và Tập đoàn công nghiệp xây dựng Việt Nam (VNIC). Tháng 01 năm 20 10, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt đề án thí điểm thành lập 02 tập đoàn trên theo quyết định số 52/QĐ-TTg và 54/QĐ-TTg [83] [84]. Trong đó Tập đoàn phát triển nhà và đô thị Việt Nam (HUD) được thành lập với nòng cốt là Tổng công ty phát triển nhà và đô thị, Tập đoàn công nghiệp xây dựng Việt Nam (VNIC) với nòng cốt là Tổng công ty Sông Đà và một số TCT xây dựng lớn khác (Lilama, Licogi, Coma). Tuy nhiên, sau 02 năm thí điểm không thành công, hoạt động của các công ty trong tập đoàn giảm hiệu quả nghiêm trọng , Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số 1428/QĐ-TTg kết thúc thí điểm, chấm dứt hoạt động theo mô hình TĐKT nhà nước của hai tập đoàn trên, chuyển các đơn vị thành viên tập đoàn về “vị trí cũ”.Trên thực tế, hệ quả của giai đoạn phát triển nhanh chóng nhưng thiếu bền vững trước kia đã làm cho các TĐKT nhà nước gặp nhiều khó khăn. Các TĐKT nhà nước đang “loay hoay” trong bài toán “thoái vốn” ngoài ngành, đặc biệt trong lĩnh vực bất động sản, ngân hàng, chứng khoán. Vì cả thị trường bất động sản, thị trường chứng khoán đề rất trầm lắng. Trong khi đó, nếu các TĐKT nhà nước thoái vốn không theo giá thị trường bị coi là làm “mất vốn Nhà nước” hoặc làm “thất thoát vốn Nhà nước”.Về sắp xếp, cổ phần hóa DNNN, tính đến 31/12/2013 cả nước đã thực hiện sắp xếp được 6. 782 doanh nghiệp, trong đó cổ phần hóa 4.065 doanh nghiệp (bao gồm 3.650 doanh nghiệp và 415 bộ phận doanh nghiệp), còn lại 949 doanh nghiệp 100% vốn nhà nước (chưa kể các nông, lâm trường quốc doanh). Riêng giai đoạn 2011 - 2013, cả nước đã thực hiện sắp xếp được 180 doanh nghiệp, trong đó cổ phần hóa 99 doanh nghiệp và sắp xếp theo các hình thức khác 81 doanh nghiệp. Trong 11 tháng đầu năm 2014, cả nước đã sắp xếp được 177 doanh nghiệp, trong đó cổ phần hóa 115 doanh nghiệp. Theo kế hoạch sắp xếp, cổ phần hóa đã được duyệt thì trong giai đoạn 2014 - 2015 cả nước thực hiện cổ phần hóa 432 doanh nghiệp, chưa kể số DNNN tiếp tục thực hiện rà soát theo tiêu chí, danh mục phân loại DNNN mới ban hành kèm theo Quyết định số 37/2014/QĐ-TTg ngày 18/6/2014 của Thủ tướng Chính phủ để bổ sung phương án sắp xếp, cổ phần hóa giai đoạn tới .Trong giai đoạn 2014 - 2015, các Tập đoàn, Tổng công ty nhà nước tiếp tục thực hiện thoái vốn đầu tư vào 5 lĩnh vực nhạy cảm, nhiều rủi ro (chứng khoán, tài chính ngân hàng, bảo hiểm, bất động sản, quỹ đầu tư) và ngoài ngành nghề sản xuất kinh doanh chính theo đề án tái cơ cấu đã được phê duyệt. Giá trị các khoản đầu tư vào 5 lĩnh vực nhạy cảm của các Tập đoàn, TCT nhà nước phải thực hiện thoái vốn trong giai đoạn 2014 - 2015 là 22.504 tỷ đồng. Trong 10 tháng năm 2014, các Tập đoàn, TCT thoái vốn ước đạt 2.415 tỷ đồng, tăng gấp 2,5 lần so với thực hiện năm 2013 (965 tỷ đồng) [119]. Đến hết năm 2014, các TĐKT nhà nước vẫn chưa thực hiện xong việc thoái vốn. Tập đoàn điện lực Việt Nam vẫn sở hữu cổ phần của Ngân hàng An Bình, Công ty cổ phần chứng khoán An Bình, Công ty bảo hiểm toàn cầu, Công ty tài chính cổ phần điện lực, Công ty cổ phần BĐS Sài Gòn Vina . Tập đoàn Dầu khí Việt Nam vẫn sở hữu cổ phần của Ngân hàng Thương mại cổ phần Đại chúng Việt Nam (Pvcombank), Ngân hàng TMCP Đại Dương (Ocean Bank), Công ty bảo hiểm dầu khí (PVI), Công ty cổ phần đầu tư tài chính công đoàn dầu khí Việt Nam (PVFI) . Tập đoàn than khoáng sản Việt Nam (Vinacomin) vẫn sở hữu cổ phần Công ty cổ phần bảo hiểm Hàng Không, Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn - Hà Nội (SHB), Công ty cổ phần chứng khoán SHS, Quỹ đầu tư Việt Nam.Theo: Vũ Phương Đông Link luận án:  Tại đây