0888889366
Tra cứu thông tin hợp đồng
timeline_post_file64c0cf1465d6f-Nội-dung-quyền-của-người-khuyết-tật-trong-pháp-luật-an-sinh-xã-hội-.jpg.webp

Nội dung quyền của người khuyết tật trong pháp luật an sinh xã hội

2.2.1. Nội dung quyền của người khuyết tật trong pháp luật an sinh xã hội

Trong các văn bản của Liên hợp quốc như Tuyên ngôn nhân quyền năm 1948, Công ước ICESCR, Công ước CEDAW, Công ước CRC đều khẳng định con người có quyền được hưởng ASXH nhưng không có văn bản giải thích về nội dung của ASXH cho đến khi ILO thông qua Công ước 102 về quy phạm tối thiểu về an sinh xã hội vào ngày 28/06/1952. Có thể nói đây là công ước quan trọng nhất của ILO khi quy định về ASXH. Công ước gồm 87 điều chia là 14 phần và 9 chế độ. Bao gồm (1) chăm sóc y tế, (2) trợ cấp ốm đau, (3) trợ cấp thất nghiệp; (4) trợ cấp tuổi già (hưu bổng); (5) trợ cấp tai nạn lao động – bệnh nghề nghiệp; (6) trợ cấp thai sản; (7) trợ cấp tàn tật; (8) trợ cấp tiền tuất; (9) trợ cấp gia đình.

Bên cạnh Công ước 102 về Quy phạm tối thiểu về ASXH , ILO còn ban hành một số công ước về ASXH với tiêu chuẩn cao hơn như Công ước số 103 bảo vệ thai sản (sửa năm 1952) (Sau này là công ước 183 năm 2000); Công ước số 121 về chế độ tai nạn lao động năm 1964; Công ước số 128 về chế độ mất sức lao động, tuổi già và tử tuất; Công ước số 130 về chế độ ốm đau và chăm sóc y tế năm 1969; Công ước số 168 về xúc tiến việc làm và chống thất nghiệp.

Trong Bình luận chung số 19 về Quyền được an sinh xã hội của Uỷ ban Kinh tế, xã hội và văn hoá, thông qua ngày 23/11/2007 xác định quyền được ASXH bao gồm quyền tiếp cận và duy trì các phúc lợi, bằng tiền hay hiện vật, không có sự phân biệt đối xử nhằm đảm bảo sự bảo vệ về giảm thu nhập liên quan đến công việc do ốm đau, khuyết tật, thai sản, tai nạn lao động bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, tuổi già hoặc thành viên trong gia đình bị chết; khả năng tiếp cận dịch vụ chăm sóc khoẻ mà không chi trả được; không đủ hỗ trợ gia đình, đặc biệt là đối với trẻ em và người lớn phụ thuộc (khoản 2 mục I Giới thiệu). Đồng thời, Bình luận chung số 19 cũng xác định hệ thống ASXH gồm 9 nhánh: (1) Chăm sóc sức khoẻ; (2) trợ cấp ốm đau; (3) Trợ cấp tuổi già; (4) Trợ cấp thất nghiệp; (5) Trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp; (6) Trợ cấp gia đình; (7) Trợ cấp thai sản; (8) Trợ cấp khuyết tật; (9) Trợ cấp tiền tuất.

Ngày 30/05/2012, Đại hội đồng của Tổ chức Lao động Quốc tế thông qua Khuyến nghị sàn An sinh xã hội (R202). Với mục đích đảm bảo cho mọi người có mức thu nhập tối thiểu và tiếp cận được các dịch vụ xã hội thiết yếu, bảo đảm các quyền cơ bản của con người nhằm ngăn ngừa hoặc giảm nghèo, giảm mức độ tổn thương và tăng cường hòa nhập xã hội.

Điều 5 Khuyến nghị sàn ASXH năm 2012 thì các dịch vụ ASXH cơ bản bao gồm: (1) Tiếp cận đến các hàng hóa và dịch vụ theo tiêu chuẩn quốc gia, gồm dịch vụ chăm sóc sức khỏe cơ bản, cả trong trường hợp thai sản; (2) Bảo đảm thu nhập tối thiểu cho trẻ em, ít nhất ở mức tối thiểu của quốc gia, thông qua đảm bảo trẻ em được tiếp cận với dinh dưỡng, giáo dục, chăm sóc và bất kỳ hàng hóa, dịch vụ cần thiết nào; (3) Bảo đảm thu nhập cơ bản, ít nhất ở mức tối thiểu của quốc gia, cho những người trong độ tuổi lao động nhưng không thể kiếm đủ thu nhập, kể cả trong trường hợp ốm đau, thất nghiệp, thai sản và khuyết tật; (4) Bảo đảm thu nhập cơ bản, ít nhất ở mức tối thiểu của quốc gia, cho người cao tuổi.

So với Công ước 102 về Quy phạm tối thiểu về ASXH và Bình luận chung số 19 về An sinh xã hội thì Khuyến nghị sàn ASXH đã đưa ra cách tiếp cận hiện đại hơn. Thứ nhất, sàn ASXH căn cứ vào từng nhóm độ tuổi để đưa ra những dịch vụ ASXH cơ bản phù hợp, bởi vì mỗi độ tuổi con người sẽ có nhu cầu khác nhau. Sàn ASXH đảm bảo quyền tiếp cận hiệu quả với dịch vụ ASXH cơ bản cho tất cả mọi người trong vòng đời, từ trẻ em, người trong độ tuổi lao động, người già và đặc biệt quan tâm đến những nhóm yếu thế như NKT, phụ nữ. Thứ hai, chế độ ASXH không chỉ bó hẹp trong 9 nhánh mà còn bao gồm các dịch vụ xã hội thiết yếu.

Dịch vụ xã hội thiết yếu gắn liền với nhu cầu thiết yếu của con người. Con người có một số nhu cầu thiết yếu như ăn, uống, mặc, ở, khoẻ mạnh, học tập, lao động, vui chơi, thể thao, giải trí... Nên các dịch vụ thiết yếu gồm chăm sóc y tế; nước sinh hoạt hợp vệ sinh; nhà ở; giáo dục; lương thực, thực phẩm; và các dịch vụ khác theo ưu tiên của từng quốc gia. NKT gặp nhiều khó khăn trong tạo thu nhập và đảm bảo cuộc sống nên NKT đặc biệt được quan tâm trong lĩnh vực ASXH. Trong Công ước 102 về quy phạm tối thiểu về ASXH, Bình luận chung số 19 về quyền được ASXH đều đề cập đến “trợ cấp khuyết tật” và Khuyến nghị sàn ASXH cũng ghi nhận “bảo đảm thu nhập cơ bản... cho NKT”. Bên cạnh đó, NKT gặp nhiều khó khăn trong tiếp cận các dịch vụ chăm sóc sức khỏe, học tập, vui chơi giải trí, tham gia giao thông... do đó, bên cạnh nhu cầu được đảm bảo mức sống, NKT còn có thêm nhu cầu được tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản.

Công ước CRPD ghi nhận các quyền cơ bản, quan trọng đáp ứng nhu cầu thiết yếu của NKT như sau:

(1). Quyền có mức sống thỏa đáng (Điều 28).

Mức sống thỏa đáng bao gồm điều kiện ăn, mặc, ở thoả đáng và điều kiện sống liên tục được cải thiện. NKT được đảm bảo có thực phẩm đầy đủ, nhà ở dễ tiếp cận, quần áo đầy đủ phù hợp với nhu cầu của NKT. Bên cạnh đó, cần có các thiết bị hỗ trợ để NKT có thể độc lập tham gia vào cuộc sống hàng ngày.

(2). Quyền được phúc lợi xã hội thoả đáng (Điều 28).

NKT được hưởng phúc lợi xã hội; được tiếp cận dịch vụ nước sạch; NKT và gia đình họ sống trong tình trạng nghèo khổ được tiếp cận sự giúp đỡ từ quỹ hỗ trợ NKT; NKT được tiếp cận chương trình nhà ở công cộng và chương trình phúc lợi hưu trí.

(3). Quyền được giáo dục (Điều 24).

(4). Quyền được chăm sóc y tế (Điều 25).

(5). Quyền được tập luyện và phục hồi (Điều 26).

(6). Quyền tham gia hoạt động văn hoá, vui chơi, giải trí và thể thao (Điều 30). Công ước về quyền của NKT đã bao quát hết các quyền NKT trong lĩnh vực ASXH, trên cơ sở đó, các quốc gia thành viên tiến hành nội luật hoá. Tuỳ thuộc vào điều kiện hoàn cảnh, các quốc gia ghi nhận tất cả hoặc một phần các quyền nói trên.

Trong đó, quyền của NKT bao gồm bốn nhóm chủ yếu sau đây:

Thứ nhất, quyền được bảo vệ thu nhập.

Thu nhập được hiểu là nhận được tiền bạc, của cải vật chất từ một hoạt động nào đó. NKT sẽ có thu nhập khi họ có việc làm, vấn đề việc làm được giải quyết cũng đồng nghĩa với việc NKT được bảo đảm nguồn thu nhập. Bên cạnh những NKT tự tạo việc làm hoặc tự tìm cho mình một công việc thì còn nhiều NKT lại rất khó khăn khi tìm cho mình một công việc thích hợp. Do đó, nhu cầu được hỗ trợ, tạo việc làm để có nguồn thu nhập là nhu cầu thiết yếu đối với NKT.

Trong quá trình NKT lao động không tránh khỏi những lúc ốm đau, tai nạn, thai sản, thất nghiệp, tuổi già và chết. Vào những hoàn cảnh đó, nguồn thu nhập của NKT bị giảm sút hoặc bị mất. Tham gia BHXH sẽ là giải pháp bảo đảm thu nhập trong những hoàn cảnh này. Nếu như tiền lương là thu nhập từ lao động thì trợ cấp BHXH là khoản thu nhập thay thế tiền lương. Trong quá trình lao động, NKT tham gia BHXH (gồm bảo hiểm bắt buộc và bảo hiểm tự nguyện), bảo hiểm thất nghiệp thì khi xảy ra những sự kiện rủi ro, NKT sẽ được hưởng một khoản tiền trợ cấp BHXH hay trợ cấp bảo hiểm thất nghiệp, khoản tiền này sẽ bù đắp, thay thế cho nguồn thu nhập bị giảm sút hoặc bị mất.

Như vậy, được bảo vệ thu nhập là quyền rất quan trọng đối với NKT. Để bảo vệ thu nhập cho NKT thì trước hết cần hỗ trợ tạo việc làm để NKT có nguồn thu nhập đồng thời bảo đảm cho NKT được bình đẳng tham gia và hưởng BHXH, bảo hiểm thất nghiệp.

Thứ hai, quyền được bảo vệ và chăm sóc sức khỏe

Sức khỏe là một trạng thái hoàn toàn khỏe mạnh về thể chất, tinh thần và xã hội và không chỉ đơn thuần là không có bệnh hoặc tật (theo Điều lệ của Tổ chức Y tế thế giới bổ sung tháng 10 năm 2006). NKT có những đặc trưng về tình trạng bệnh, tật nên với họ khó có thể đạt được trạng thái thoải mái như người bình thường. Để bảo vệ sức khỏe cho NKT thì cần thực hiện đồng thời các hoạt động đề phòng sự phát sinh bệnh tật, phát hiện sớm khuyết tật, điều trị kịp thời. Để chăm sóc sức khỏe cho NKT cần thực hiện các hoạt động phục hồi chức năng (PHCN), tổ chức cho NKT tham gia BHYT và hưởng BHYT giúp NKT ổn định sức khoẻ, vượt qua khó khăn của bệnh tật, vươn lên hòa nhập cộng đồng.

Với tiêu chí “phòng bệnh hơn chữa bệnh” nên NKT có quyền được chăm sóc sức khỏe ban đầu. Chăm sóc sức khỏe ban đầu được ghi nhận trong Tuyên ngôn Alma – Ata của Tổ chức Y tế Thế giới và Quỹ nhi đồng Liên Hợp quốc (UNICEF) năm 1978 về chăm sóc sức khỏe ban đầu. Theo tuyên bố Alma – Ata của Tổ chức Y tế Thế giới và Quỹ Nhi đồng Liên Hợp quốc (UNICEF) năm 1978 về chăm sóc sức khỏe ban đầu có 8 nội dung: Giáo dục liên quan đến các vấn đề sức khỏe hiện hóa gia đình; chủng ngừa các bệnh truyền nhiễm chính; phòng ngừa và kiểm soát các dịch bệnh tại địa phương; điều trị thích hợp các bệnh và thương tích phổ biến; và cung cấp thuốc thiết yếu.

Theo: Nguyễn Thị Thu Hường 

Link luận án: Tại đây

avatar
Nguyễn Mai Phương
872 ngày trước
Nội dung quyền của người khuyết tật trong pháp luật an sinh xã hội
2.2.1. Nội dung quyền của người khuyết tật trong pháp luật an sinh xã hộiTrong các văn bản của Liên hợp quốc như Tuyên ngôn nhân quyền năm 1948, Công ước ICESCR, Công ước CEDAW, Công ước CRC đều khẳng định con người có quyền được hưởng ASXH nhưng không có văn bản giải thích về nội dung của ASXH cho đến khi ILO thông qua Công ước 102 về quy phạm tối thiểu về an sinh xã hội vào ngày 28/06/1952. Có thể nói đây là công ước quan trọng nhất của ILO khi quy định về ASXH. Công ước gồm 87 điều chia là 14 phần và 9 chế độ. Bao gồm (1) chăm sóc y tế, (2) trợ cấp ốm đau, (3) trợ cấp thất nghiệp; (4) trợ cấp tuổi già (hưu bổng); (5) trợ cấp tai nạn lao động – bệnh nghề nghiệp; (6) trợ cấp thai sản; (7) trợ cấp tàn tật; (8) trợ cấp tiền tuất; (9) trợ cấp gia đình.Bên cạnh Công ước 102 về Quy phạm tối thiểu về ASXH , ILO còn ban hành một số công ước về ASXH với tiêu chuẩn cao hơn như Công ước số 103 bảo vệ thai sản (sửa năm 1952) (Sau này là công ước 183 năm 2000); Công ước số 121 về chế độ tai nạn lao động năm 1964; Công ước số 128 về chế độ mất sức lao động, tuổi già và tử tuất; Công ước số 130 về chế độ ốm đau và chăm sóc y tế năm 1969; Công ước số 168 về xúc tiến việc làm và chống thất nghiệp.Trong Bình luận chung số 19 về Quyền được an sinh xã hội của Uỷ ban Kinh tế, xã hội và văn hoá, thông qua ngày 23/11/2007 xác định quyền được ASXH bao gồm quyền tiếp cận và duy trì các phúc lợi, bằng tiền hay hiện vật, không có sự phân biệt đối xử nhằm đảm bảo sự bảo vệ về giảm thu nhập liên quan đến công việc do ốm đau, khuyết tật, thai sản, tai nạn lao động bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, tuổi già hoặc thành viên trong gia đình bị chết; khả năng tiếp cận dịch vụ chăm sóc khoẻ mà không chi trả được; không đủ hỗ trợ gia đình, đặc biệt là đối với trẻ em và người lớn phụ thuộc (khoản 2 mục I Giới thiệu). Đồng thời, Bình luận chung số 19 cũng xác định hệ thống ASXH gồm 9 nhánh: (1) Chăm sóc sức khoẻ; (2) trợ cấp ốm đau; (3) Trợ cấp tuổi già; (4) Trợ cấp thất nghiệp; (5) Trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp; (6) Trợ cấp gia đình; (7) Trợ cấp thai sản; (8) Trợ cấp khuyết tật; (9) Trợ cấp tiền tuất.Ngày 30/05/2012, Đại hội đồng của Tổ chức Lao động Quốc tế thông qua Khuyến nghị sàn An sinh xã hội (R202). Với mục đích đảm bảo cho mọi người có mức thu nhập tối thiểu và tiếp cận được các dịch vụ xã hội thiết yếu, bảo đảm các quyền cơ bản của con người nhằm ngăn ngừa hoặc giảm nghèo, giảm mức độ tổn thương và tăng cường hòa nhập xã hội.Điều 5 Khuyến nghị sàn ASXH năm 2012 thì các dịch vụ ASXH cơ bản bao gồm: (1) Tiếp cận đến các hàng hóa và dịch vụ theo tiêu chuẩn quốc gia, gồm dịch vụ chăm sóc sức khỏe cơ bản, cả trong trường hợp thai sản; (2) Bảo đảm thu nhập tối thiểu cho trẻ em, ít nhất ở mức tối thiểu của quốc gia, thông qua đảm bảo trẻ em được tiếp cận với dinh dưỡng, giáo dục, chăm sóc và bất kỳ hàng hóa, dịch vụ cần thiết nào; (3) Bảo đảm thu nhập cơ bản, ít nhất ở mức tối thiểu của quốc gia, cho những người trong độ tuổi lao động nhưng không thể kiếm đủ thu nhập, kể cả trong trường hợp ốm đau, thất nghiệp, thai sản và khuyết tật; (4) Bảo đảm thu nhập cơ bản, ít nhất ở mức tối thiểu của quốc gia, cho người cao tuổi.So với Công ước 102 về Quy phạm tối thiểu về ASXH và Bình luận chung số 19 về An sinh xã hội thì Khuyến nghị sàn ASXH đã đưa ra cách tiếp cận hiện đại hơn. Thứ nhất, sàn ASXH căn cứ vào từng nhóm độ tuổi để đưa ra những dịch vụ ASXH cơ bản phù hợp, bởi vì mỗi độ tuổi con người sẽ có nhu cầu khác nhau. Sàn ASXH đảm bảo quyền tiếp cận hiệu quả với dịch vụ ASXH cơ bản cho tất cả mọi người trong vòng đời, từ trẻ em, người trong độ tuổi lao động, người già và đặc biệt quan tâm đến những nhóm yếu thế như NKT, phụ nữ. Thứ hai, chế độ ASXH không chỉ bó hẹp trong 9 nhánh mà còn bao gồm các dịch vụ xã hội thiết yếu.Dịch vụ xã hội thiết yếu gắn liền với nhu cầu thiết yếu của con người. Con người có một số nhu cầu thiết yếu như ăn, uống, mặc, ở, khoẻ mạnh, học tập, lao động, vui chơi, thể thao, giải trí... Nên các dịch vụ thiết yếu gồm chăm sóc y tế; nước sinh hoạt hợp vệ sinh; nhà ở; giáo dục; lương thực, thực phẩm; và các dịch vụ khác theo ưu tiên của từng quốc gia. NKT gặp nhiều khó khăn trong tạo thu nhập và đảm bảo cuộc sống nên NKT đặc biệt được quan tâm trong lĩnh vực ASXH. Trong Công ước 102 về quy phạm tối thiểu về ASXH, Bình luận chung số 19 về quyền được ASXH đều đề cập đến “trợ cấp khuyết tật” và Khuyến nghị sàn ASXH cũng ghi nhận “bảo đảm thu nhập cơ bản... cho NKT”. Bên cạnh đó, NKT gặp nhiều khó khăn trong tiếp cận các dịch vụ chăm sóc sức khỏe, học tập, vui chơi giải trí, tham gia giao thông... do đó, bên cạnh nhu cầu được đảm bảo mức sống, NKT còn có thêm nhu cầu được tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản.Công ước CRPD ghi nhận các quyền cơ bản, quan trọng đáp ứng nhu cầu thiết yếu của NKT như sau:(1). Quyền có mức sống thỏa đáng (Điều 28).Mức sống thỏa đáng bao gồm điều kiện ăn, mặc, ở thoả đáng và điều kiện sống liên tục được cải thiện. NKT được đảm bảo có thực phẩm đầy đủ, nhà ở dễ tiếp cận, quần áo đầy đủ phù hợp với nhu cầu của NKT. Bên cạnh đó, cần có các thiết bị hỗ trợ để NKT có thể độc lập tham gia vào cuộc sống hàng ngày.(2). Quyền được phúc lợi xã hội thoả đáng (Điều 28).NKT được hưởng phúc lợi xã hội; được tiếp cận dịch vụ nước sạch; NKT và gia đình họ sống trong tình trạng nghèo khổ được tiếp cận sự giúp đỡ từ quỹ hỗ trợ NKT; NKT được tiếp cận chương trình nhà ở công cộng và chương trình phúc lợi hưu trí.(3). Quyền được giáo dục (Điều 24).(4). Quyền được chăm sóc y tế (Điều 25).(5). Quyền được tập luyện và phục hồi (Điều 26).(6). Quyền tham gia hoạt động văn hoá, vui chơi, giải trí và thể thao (Điều 30). Công ước về quyền của NKT đã bao quát hết các quyền NKT trong lĩnh vực ASXH, trên cơ sở đó, các quốc gia thành viên tiến hành nội luật hoá. Tuỳ thuộc vào điều kiện hoàn cảnh, các quốc gia ghi nhận tất cả hoặc một phần các quyền nói trên.Trong đó, quyền của NKT bao gồm bốn nhóm chủ yếu sau đây:Thứ nhất, quyền được bảo vệ thu nhập.Thu nhập được hiểu là nhận được tiền bạc, của cải vật chất từ một hoạt động nào đó. NKT sẽ có thu nhập khi họ có việc làm, vấn đề việc làm được giải quyết cũng đồng nghĩa với việc NKT được bảo đảm nguồn thu nhập. Bên cạnh những NKT tự tạo việc làm hoặc tự tìm cho mình một công việc thì còn nhiều NKT lại rất khó khăn khi tìm cho mình một công việc thích hợp. Do đó, nhu cầu được hỗ trợ, tạo việc làm để có nguồn thu nhập là nhu cầu thiết yếu đối với NKT.Trong quá trình NKT lao động không tránh khỏi những lúc ốm đau, tai nạn, thai sản, thất nghiệp, tuổi già và chết. Vào những hoàn cảnh đó, nguồn thu nhập của NKT bị giảm sút hoặc bị mất. Tham gia BHXH sẽ là giải pháp bảo đảm thu nhập trong những hoàn cảnh này. Nếu như tiền lương là thu nhập từ lao động thì trợ cấp BHXH là khoản thu nhập thay thế tiền lương. Trong quá trình lao động, NKT tham gia BHXH (gồm bảo hiểm bắt buộc và bảo hiểm tự nguyện), bảo hiểm thất nghiệp thì khi xảy ra những sự kiện rủi ro, NKT sẽ được hưởng một khoản tiền trợ cấp BHXH hay trợ cấp bảo hiểm thất nghiệp, khoản tiền này sẽ bù đắp, thay thế cho nguồn thu nhập bị giảm sút hoặc bị mất.Như vậy, được bảo vệ thu nhập là quyền rất quan trọng đối với NKT. Để bảo vệ thu nhập cho NKT thì trước hết cần hỗ trợ tạo việc làm để NKT có nguồn thu nhập đồng thời bảo đảm cho NKT được bình đẳng tham gia và hưởng BHXH, bảo hiểm thất nghiệp.Thứ hai, quyền được bảo vệ và chăm sóc sức khỏeSức khỏe là một trạng thái hoàn toàn khỏe mạnh về thể chất, tinh thần và xã hội và không chỉ đơn thuần là không có bệnh hoặc tật (theo Điều lệ của Tổ chức Y tế thế giới bổ sung tháng 10 năm 2006). NKT có những đặc trưng về tình trạng bệnh, tật nên với họ khó có thể đạt được trạng thái thoải mái như người bình thường. Để bảo vệ sức khỏe cho NKT thì cần thực hiện đồng thời các hoạt động đề phòng sự phát sinh bệnh tật, phát hiện sớm khuyết tật, điều trị kịp thời. Để chăm sóc sức khỏe cho NKT cần thực hiện các hoạt động phục hồi chức năng (PHCN), tổ chức cho NKT tham gia BHYT và hưởng BHYT giúp NKT ổn định sức khoẻ, vượt qua khó khăn của bệnh tật, vươn lên hòa nhập cộng đồng.Với tiêu chí “phòng bệnh hơn chữa bệnh” nên NKT có quyền được chăm sóc sức khỏe ban đầu. Chăm sóc sức khỏe ban đầu được ghi nhận trong Tuyên ngôn Alma – Ata của Tổ chức Y tế Thế giới và Quỹ nhi đồng Liên Hợp quốc (UNICEF) năm 1978 về chăm sóc sức khỏe ban đầu. Theo tuyên bố Alma – Ata của Tổ chức Y tế Thế giới và Quỹ Nhi đồng Liên Hợp quốc (UNICEF) năm 1978 về chăm sóc sức khỏe ban đầu có 8 nội dung: Giáo dục liên quan đến các vấn đề sức khỏe hiện hóa gia đình; chủng ngừa các bệnh truyền nhiễm chính; phòng ngừa và kiểm soát các dịch bệnh tại địa phương; điều trị thích hợp các bệnh và thương tích phổ biến; và cung cấp thuốc thiết yếu.Theo: Nguyễn Thị Thu Hường Link luận án: Tại đây