×
0888889366
Nguyễn Mai Phương
Tìm kiếm công ty Luật/ Doanh nghiệp
Người theo dõi
1 người
Xem tất cả
Theo dõi
Đang theo dõi
1 người
Xem tất cả
Theo dõi
Nguyễn Mai Phương
479 ngày trước
Theo dõi
1.4. Ý NGHĨA CỦA CHẾ ĐỘ BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNGThất nghiệp là một hiện tượng kinh tế - xã hội tồn tại trong nền kinh tế thị trường. Ở hầu hết các quốc gia có chế độ chính trị, trình độ phát triển kinh tế-xã hội khác nhau đều có một tỷ lệ thất nghiệp nhất định (xem phụ lục 3).Điều này cho thấy thất nghiệp là vấn đề không chỉ có ở các nước nghèo, các nước đang phát triển, mà cả ở những nước phát triển nhất và vì vậy nó mang tính toàn cầu, là mối quan tâm của toàn nhân loại. Do vậy, ở hầu hết các nước phát triển đã xây dựng hệ thống bảo hiểm thất nghiệp để đảm bảo đời sống cho người thất nghiệp. Đồng thời, nhiều nước đã áp dụng các biện pháp để đưa người thất nghiệp trở lại làm việc như: đào tạo, đào tạo lại, môi giới việc làm, tư vấn nghề nghiệp, hỗ trợ kinh phí cho người thất nghiệp tự lập nghiệp, có chính sách bảo vệ chỗ làm việc, chống thất nghiệp, qui định chặt chẽ về điều kiện sa thải người lao động. Ngoài chế độ bảo hiểm thất nghiệp, nhiều nước còn có chế độ trợ giúp thất nghiệp trả cho những người thất nghiệp chưa đủ điều kiện để hưởng bảo hiểm thất nghiệp, hoặc đã hết thời gian hưởng bảo hiểm thất nghiệp.Từ cuối thế kỷ XIX, bảo hiểm thất nghiệp đã xuất hiện, khởi đầu là nguồn tài chính của quĩ công đoàn. Dần dần một số chủ doanh nghiệp vì lợi ích của chính họ để ổn định đội ngũ công nhân lành nghề đã thành lập quĩ trợ cấp thôi việc, nghỉ việc tạm thời, thất nghiệp một phần trong doanh nghiệp. Số người được hưởng hay “bảo vệ” chỉ đóng khung trong doanh nghiệp. Về sau một số thành phố, chính quyền đứng ra thành lập quĩ bảo hiểm thất nghiệp với phương thức tự nguyện. Với phương thức này, quĩ bảo hiểm thất nghiệp chỉ thu hút được những người lao động trong phạm vi thành phố đó. Họ là những người có việc làm không ổn định, người có thu nhập thấp mới tham gia, dẫn đến quĩ thu không đủ để chi. Ở những thành phố mà chính quyền không đứng ra thành lập quĩ bảo hiểm thất nghiệp, thì chính quyền tài trợ cho các quĩ bảo hiểm tư nhân, nhất là quĩ công đoàn để tăng thêm mức trợ cấp cho người thất nghiệp và đảm bảo an toàn cho quĩ. Để khắc phục tình trạng trên và muốn duy trì, phát triển quĩ bảo hiểm thất nghiệp để “bảo vệ” người lao động thì một đòi hỏi khách quan là phải mở rộng bảo hiểm thất nghiệp đến tầm quốc gia. Vì vậy, những năm đầu của thế kỷ XX, bảo hiểm thất nghiệp được tiến hành theo phương thức bắt buộc có sự tham gia của Nhà nước, người lao động và người sử dụng lao động, như: nước Anh thực hiện vào năm 1911, Hà Lan: 1916, Tây Ban Nha:1919, Bỉ:1920, Áo:1924, Cộng hoà liên bang Đức, Nam Tư :1927, Hoa Kỳ:1935, Italia:1937, Canada:1940, Bồ Đào Nha:1941; Pháp đến năm 1958 mới thực hiện bảo hiểm bắt buộc; Đan Mạch:1907; Phần Lan:1917; Nhật Bản:1947; Ba Lan: 1991; Trung Quốc, Mông Cổ: 1986…đến nay tính sơ bộ trên thế giới đã có 69 nước thực hiện bảo hiểm thất nghiệp [129].Bảo hiểm thất nghiệp có ý nghĩa rất lớn, nó không chỉ dừng lại ở việc đảm bảo đời sống cho cá nhân người thất nghiệp, tạo cơ hội cho họ quay trở lại với thị trường lao động mà còn góp phần quan trọng ổn định chính trị, xã hội, tạo nên sự phát triển bền vững của mỗi quốc gia.Về kinh tế, bất kỳ người lao động nào cũng muốn dễ dàng tìm cho mình một công việc ổn định, có thu nhập cao, đúng với trình độ, chuyên môn, tay nghề hoặc chí ít thì cũng có việc làm, có thu nhập để duy trì cuộc sống của bản thân và gia đình ở mức bình thường. Nếu không may vì một lý do nào đó mà họ bị mất việc làm thì điều này sẽ gây khó khăn về tài chính. Người lao động mất thu nhập, mất phương tiện sinh sống. Lúc này cuộc sống của họ không chỉ dừng lại ở những khốn khó về kinh tế mà thậm chí còn cả những khốn khó, bất hạnh, trầm uất về tinh thần. Hơn bao giờ hết, họ cần đến sự giúp đỡ của cộng đồng, sự chia sẻ khó khăn để vượt qua hoạn nạn. Bảo hiểm thất nghiệp chính là “bà đỡ” về kinh tế, giúp họ giữ được trạng thái cân bằng về tâm lý, hạn chế những “cú sốc” về tinh thần. Như đã nói, bảo hiểm thất nghiệp có hai chức năng chủ yếu: chức năng bảo vệ và chức năng khuyến khích. Với chức năng bảo vệ, bảo hiểm thất nghiệp chính là khoản tiền được sử dụng để giúp người lao động có được một cuộc sống tương đối ổn định sau khi bị mất việc. Với chức năng khuyến khích, bảo hiểm thất nghiệp kích thích người thất nghiệp tích cực tìm việc làm và sẵn sàng làm việc. Qua hai chức năng này có thể thấy bảo hiểm thất nghiệp không chỉ có ý nghĩa đối với người lao động mà còn có ý nghĩa đối với người sử dụng lao động và Nhà nước. Vì vậy, thực hiện chế độ bảo hiểm thất nghiệp được coi là một trong những biện pháp hữu hiệu để giải quyết nạn thất nghiệp, góp phần vào sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.Về chính trị, xã hội, bất kỳ một quốc gia nào, vào thời gian nào cũng tồn tại một đội quân thất nghiệp tuy mức độ và tỷ lệ là khác nhau. Thường trong giai đoạn hưng thịnh của nền kinh tế thì tỷ lệ thất nghiệp thấp còn trong giai đoạn khủng hoảng tỷ lệ này sẽ cao. Chính vì thế, thất nghiệp là chủ đề được nêu ra trong các cuộc tranh luận chính trị và bất kỳ một chính trị gia nào khi tranh cử cũng đưa vấn đề hạn chế thất nghiệp trong chương trình nghị sự. Hầu hết các nước có nền kinh tế thị trường phát triển đều có pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp để điều chỉnh các quan hệ xã hội trong lĩnh vực này và coi đó là một trong những chính sách xã hội cơ bản nhất của quốc gia. Nếu có chế độ bảo hiểm thất nghiệp sẽ tạo ra sự ổn định về mặt xã hội và ngược lại, nếu không có sẽ làm cho xã hội phát sinh nhiều tiêu cực, mất ổn định. Một trong những nguyên nhân dẫn đến tệ nạn xã hội là do thiếu việc làm và thất nghiệp gây nên. Người xưa có câu: “nhàn cư vi bất thiện”, khi không có việc làm con người ta sẽ lao vào những vòng xoáy của xã hội như: cờ bạc, rượu chè, nghiện hút, đĩ điếm, trộm cắp…Sở dĩ, thất nghiệp là một trong những nguyên nhân dẫn đến tệ nạn xã hội là vì thất nghiệp thường làm cho con người bị bần cùng hoá.Khi người lao động bị mất việc làm, thất nghiệp sẽ có ảnh hưởng rất lớn đến tinh thần, thái độ, tâm lý. Để góp phần hạn chế những hành vi tiêu cực có thể xảy ra khi người lao động bị mất việc làm, chế độ bảo hiểm thất nghiệp một mặt giúp đỡ họ ổn định cuộc sống thông qua việc trả trợ cấp thất nghiệp, mặt khác tạo cơ hội để họ có thể tiếp tục tham gia thị trường lao động. Rõ ràng, với chế độ này là chỗ dựa về mặt vật chất và tinh thần cho người lao động khi lâm vào tình trạng mất việc làm, góp phần giữ gìn sự ổn định xã hội.Về pháp lý, nếu nhìn nhận bảo hiểm thất nghiệp là một chế độ trong hệ thống bảo hiểm xã hội thì sự ra đời của chế độ này làm cho quyền được bảo hiểm của con người được nâng lên một bước. Việc xây dựng và tiến tới hoàn thiện pháp luật bảo hiểm xã hội là việc làm hết sức cần thiết, đây cũng là một trong những quyền cơ bản của con người. Trong Tuyên ngôn về nhân quyền của Liên hiệp quốc thông qua năm 1948, có đoạn: “Tất cả mọi người với tư cách là thành viên của xã hội có quyền được hưởng bảo hiểm xã hội. Quyền đó được đặt trên cơ sở thoả mãn các quyền về kinh tế, xã hội và văn hoá cần cho nhân cách và sự tự do phát triển của con người…”. Điều 25 có ghi: “Mỗi người có quyền có một mức sống cần thiết cho việc giữ gìn sức khoẻ bản thân và gia đình, có quyền được bảo đảm trong trường hợp thất nghiệp”. Quyền được hưởng bảo hiểm xã hội cũng là một trong những quyền cơ bản của côngdân được qui định ở hầu hết trong Hiến pháp của các quốc gia trên thế giới. Nhìn vào hệ thống pháp luật bảo hiểm xã hội, và thông qua các chế độ trợ cấp, có thể đánh giá phần nào tính chất ưu việt của một chế độ xã hội.Việc làm và giải quyết việc làm nhằm hạn chế thất nghiệp cũng là một phạm trù thuộc quyền con người, một vấn đề có tính pháp lý quốc tế sâu sắc: “Tự do thoát khỏi nỗi sợ hãi về đói nghèo đã được tuyên bố như là khát vọng cao cả nhất của loài người” [65, tr. 62]. “Mọi người đều có quyền làm việc, tự do chọn nghề, được có những điều kiện làm việc thuận lợi và chính đáng và được bảo vệ chống lại thất nghiệp” (Điều 23) [65, tr. 67]. Ông Rơ nê Đuy-mông, một chuyên gia người Pháp trong cuốn “Một thế giới không thể chấp nhận được” đã nói: “Đối với tôi, dù mầu sắc chính trị thế nào, quyền đầu tiên của con người là quyền được sống, quyền được ăn, sinh ra từ quyền được làm việc; nếu con người bị khai trừ ra khỏi xã hội hiện đại, bị tước quyền được làm việc là một hình thức ám sát trá hình”. Sự ra đời của chế độ bảo hiểm thất nghiệp là một biện pháp hữu hiệu tạo điều kiện cho các quyền cơ bản của con người, quyền công dân trở thành hiện thực.Thị trường sức lao động là một bộ phậncấu thành, hệ quả tất yếu của nền kinh tế thị trường, sự phát triển của thị trường sức lao động ảnh hưởng đến quá trình phát triển kinh tế và ngược lại. Vì vậy, tìm hiểu bản chất và sự vận động của thị trường sức laođộng là hết sức cần thiết, nhất là trong giai đoạn hiện nay. Với quan niệm thị trường sức lao động là nơi thực hiện các quan hệ xã hội giữa người bán sức lao độngvà người mua sức laođộng, thông qua các thoả thuận về giá cả và các điều kiện làm việc trên cơ sở hợp đồng lao động (văn bản hoặc bằng miệng) thì muốn lao động trở thành hàng hoá theo C. Mác phải thoả mãn hai điều kiện: 1/ Người lao động tự do về thân thể và tự nguyện ký hợp đồng bán sức lao động; 2/ Người lao động không có tư liệu sản xuất hay vốn. Trong giai đoạn chuyển đổi cơ cấu kinh tế, xây dựng nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay thị trường sức lao động đã và đang hình thành và có những đặc điểm sau: Cung lớn hơn cầu cả về qui mô lẫn cơ cấu; Mang tính tự phát và chia cắt, mối quan hệ cung cầu còn lỏng lẻo; Đang trong quá trình hình thành và chuyển đổi mạnh. Những đặc điểm này tác động mạnh mẽ đến việc làm và thất nghiệp ở nước ta những năm gần đây cũng như trong tương lai.Theo: Lê Thị Hoài Thu Link luận án: Tại đây
Nguyễn Mai Phương
479 ngày trước
Theo dõi
1.3.Vấn đề giải quyết việc làm cho người thất nghiệpDù xét ở góc độ nào đều thấy giữa chế độ bảo hiểm thất nghiệp và giải quyết việc làm cómối quan hệ rất chặt chẽ. Đó là hai giai đoạn của một quá trình, hai mặt của sự thống nhất.Giữa chế độ bảo hiểm thất nghiệp và giải quyết việc làm mặc dù cách thức tổ chức thực hiện khác nhau nhưng đều có một mục tiêu chung là hướng về người lao động, tạo lập an sinh xã hội thông qua đảm bảo việc làm, thu nhập và đời sống của người lao động. Nếu chế độ bảo hiểm thất nghiệp là việc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động thông qua các qui định về mức hưởng trợ cấp, thời gian hưởng và quyền của người lao động trong quá trình bảo hiểm, thì giải quyết việc làm chính là sự tiếp nối của bảo hiểm thất nghiệp.Bảo hiểm thất nghiệp còn là một trong những căn cứ quan trọng nhất có ảnh hưởng trực tiếp đến chính sách giải quyết việc làm của mỗi quốc gia. Trên cơ sở số lượng người thất nghiệp, mức đóng góp thất nghiệp, thời gian thụ hưởng để từ đó pháp luật bảo hiểm thất nghiệp có thể đưa ra các định hướng về tạo lập việc làm. Chế độ bảo hiểm thất nghiệp thông qua những chỉ tiêu cụ thể đến cách thức tổ chức thực hiện, từ việc dạy nghề, tư vấn việc làm đến việc đưa người lao động trở lại thị trường lao động.Mối quan hệ giữa chế độ bảo hiểm thất nghiệp và giải quyết việc làm còn thể hiện ở chỗ, giai đoạn này là điều kiện của giai đoạn khác. Giải quyết tốt việc làm cho người lao động chính là góp phần giảm thiểu thất nghiệp. Và việc thực hiện đầy đủ những qui định về bảo hiểm thất nghiệp cũng góp phần phát triển một thị trường lao động lành mạnh.Chế độ bảo hiểm thất nghiệp và giải quyết việc làm xét ở góc độ pháp lý có cùng đối tượng đó là người lao động (ở trạng thái mất việc làm hoặc có việc làm). Chính vì thế, khi xây dựng các qui định về giải quyết việc làm cần đặc biệt chú ý đến các qui định về bảo hiểm thất nghiệp để có sự tiếp nối hài hoà giữa các nhóm qui định nhằm đạt được mục tiêu chung và tạo sự đồng bộ trong tổng thể các qui định pháp luật về lĩnh vực an sinh xã hội.Ở các nước phát triển, bảo hiểm thất nghiệp chỉ được coi là một bộ phận của “ Bảo hiểm việc làm” và được hỗ trợ bằng những biện pháp “an ninh việc làm” qua hệ thống các cơ quan dịch vụ việc làm của Nhà nước. Mục đích của “bảo hiểm việc làm” là ngăn chặn thất nghiệp, ổn định điều kiện làm việc, tạo cơ hội việc làm, phát triển và hoàn thiện kỹ năng tay nghề của người lao động, đồng thời bù đắp thu nhập cho người thất nghiệp để họ duy trì cuộc sống và có điều kiện tìm việc làm mới phù hợp. Còn “an ninh việc làm” cung cấp dịch vụ tư vấn, hướng nghiệp, bố trí việc làm tạm thời, cung cấp lao động hoặc thông tin về chỗ làm trống. Một trong những nội dung quan trọng nhất của pháp luật về việc làm là quyền được làm việc của người dân. Người thất nghiệp thông qua việc vận dụng quyền này để có thể kiếm được việc làm và giải phóng khỏi sự lệ thuộc vào bảo hiểm thất nghiệp. Trách nhiệm của Nhà nước trong lĩnh vực này là rất quan trọng, nó giúp người thất nghiệp trở lại với thị trường lao động thông qua một số biện pháp cụ thể như: Hướng nghiệp, tư vấn nghề nghiệp, giới thiệu việc làm; Hỗ trợ kinh phí đào tạo, đào tạo lại cho những người thất nghiệp; Hỗ trợ kinh phí cho doanh nghiệp nhận người thất nghiệp vào làm việc; Hỗ trợ kinh phí cho người thất nghiệp tự tạo việc làm; Tổ chức việc làm tạm thời cho người thất nghiệp; Thực hiện các hoạt động ngăn chặn thất nghiệp như đề xuất chỗ làm việc thêm trong các doanh nghiệp, giảm giờ làm, đào tạo nâng cao tay nghề, đào tạo lại, nâng cao trình độ hiểu biết về pháp luật và kỷ luật lao động.Những phân tích trên cho thấy, chế độ bảo hiểm thất nghiệp có liên quan chặt chẽ đến giải quyết việc làm. Vì vậy, ngày nay các nước phát triển không coi chế độ bảo hiểm thất nghiệp chỉ là biện pháp giải quyết hậu quả của thất nghiệp một cách thụ động, mà coi bảo hiểm thất nghiệp là một chính sách của thị trường lao động tích cực. Chế độ bảo hiểm thất nghiệp không chỉ đơn thuần việc chi trả trợ cấp thất nghiệp mà còn thực hiện chức năng thúc đẩy, chuyển đổi cơ cấu ngành nghề, ngăn chặn thất nghiệp, bảo vệ việc làm, nâng cao năng lực nghề nghiệp cho người lao động, tìm việc làm cho người thất nghiệp. Các hoạt động này gắn liền với thị trường lao động, với các hoạt động tạo việc làm1.4. Mối quan hệ giữa chế độ bảo hiểm thất nghiệp với chế độ bảo hiểm xã hộiKhi nói về bảo hiểm xã hội, ILO cũng đưa ra Công ước 102 (1952) nhằm hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội trong đó có bảo hiểm xã hội, khuyến nghị các nước thành viên phải thực hiện một số chế độ bảo hiểm nhất định. Tại Điều 2 của công ước qui định: “Ít nhất là 3 phần trong 9 phần của bảo hiểm xã hội, bao gồm ít nhất là một trong các phần: trợ cấp thất nghiệp, trợ cấp tuổi già, trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, trợ cấp tàn tật, trợ cấp tiền tuất”. Như vậy, trợ cấp bảo hiểm thất nghiệp là một trong những chế độ của bảo hiểm xã hội. Với việc ban hành và thực hiện chế độ bảo hiểm thất nghiệp sẽ giúp cho hệ thống bảo hiểm xã hội đầy đủ, toàn diện hơn, quyền lợi của người lao động được quan tâm hơn. Cũng có không ít quốc gia đã thành công với chế độ này từ rất sớm. Ví dụ như ở Vương quốc Anh, ngay từ năm 1911 đã thông qua Đạo luật quốc gia về bảo hiểm thất nghiệp theo loại hình bắt buộc, và là quốc gia đầu tiên áp dụng loại hình bảo hiểm này. Tiếp đến Italia, vào năm 1919, là nước thứ hai thực hiện chế độ bảo hiểm thất nghiệp. Sau đó, trong thập kỷ 20 có thêm một số nước châu Âu. Sang đến đầu năm 30 có thêm Canada, Hoa Kỳ, Thụy Điển…có thể nói, đây là những quốc gia đầu tiên nhận thức đúng đắn về vấn đề thất nghiệp. Họ đã nhanh chóng nghiên cứu để ban hành và thực hiện chế độ bảo hiểm thất nghiệp là một nhánh trong hệ thống bảo hiểm xã hội.Tuy nhiên, ở một số nước phát triển không coi bảo hiểm thất nghiệp chỉ là một biện pháp giải quyết hậu quả của thất nghiệp một cách thụ động mà coi bảo hiểm thất nghiệp là một chính sách của thị trường lao động tích cực, không chỉ đơn thuần việc chi trả trợ cấp bảo hiểm thất nghiệp mà phải thực hiện các chức năng chủ yếu là thúc đẩy sự chuyển đổi cơ cấu ngành nghề, ngăn chặn thất nghiệp, bảo vệ việc làm, nâng cao năng lực nghề nghiệp cho người lao động, tìm việc làm cho người thất nghiệp. Các hoạt động này gắn với thị trường lao động, với các hoạt động tạo việc làm. Cũng như các chế độ bảo hiểm xã hội hiện hành, chế độ bảo hiểm thất nghiệp mở rộng khả năng khống chế và khắc phục hậu quả đối với các rủi ro, nó đảm bảo duy trì mức sống tối thiểu cho người lao động và ràng buộc chặt chẽ trách nhiệm của các bên tham gia quan hệ lao động. Tuy thế bảo hiểm thất nghiệp còn là một chính sách nằm trong hệ thống các chính sách kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. Xét về bản chất, cũng như các chế độ bảo hiểm xã hội khác, bảo hiểm thất nghiệp cũng bù đắp những rủi ro cho người lao động trong quan hệ lao động, nhưng bảo hiểm thất nghiệp có đối tượng, mục đích, cách thức giải quyết riêng so với bảo hiểm xã hội. Những điểm khác nhau cơ bản là:Về đối tượng, bảo hiểm thất nghiệp là những người trong độ tuổi lao động, có sức lao động, bị mất việc làm nhưng luôn sẵn sàng trở lại làm việc. Ngược lại, trong bảo hiểm xã hội, đối tượng được hưởng trợ cấp là những người đang làm việc và cả những người nghỉ hưu…Về mục đích, bảo hiểm thất nghiệp trợ giúp tài chính cho người lao động bị thất nghiệp để họ sớm ổn định cuộc sống. Bên cạnh đó mục đích thứ hai không kém phần quan trọng là tìm mọi cách đưa người thất nghiệp trở lại với thị trường lao động. Trong khi đó bảo hiểm xã hội có mục đích trợ cấp chủ yếu là nhằm bù đắp cho người lao động khi gặp phải các trường hợp bị ngừng hoặc bị mất thu nhập.Cách giải quyết, bảo hiểm thất nghiệp không chỉ dừng ở việc thu và chi tiền bảo hiểm mà còn gắn liền với tình trạng cung cầu trên thị trường lao động, với các dòng di chuyển lao động. Bảo hiểm thất nghiệp đòi hỏi phải vừa nhận đăng ký thất nghiệp, kiểm tra các điều kiện nhận bảo hiểm thất nghiệp của người đăng ký, vừa phải nắm chắc thông tin về thị trường lao động để môi giới, giới thiệu việc làm, đào tạo và đào tạo lại nghề hoặc tổ chức việc làm tạm thời cho người thất nghiệp. Bên cạnh đó còn thực hiện các chính sách hỗ trợ người thất nghiệp tự hành nghề, hỗ trợ các doanh nghiệp nhận người thất nghiệp vào làm việc. Chỉ khi đã làm đủ mọi biện pháp mà vẫn không bố trí được việc làm cho người lao động thì mới trả trợ cấp bảo hiểm thất nghiệp. Đây là điểm khác biệt của hoạt động quản lý bảo hiểm thất nghiệp so với các loại hình bảo hiểm xã hội khác.Ngoài ra, bảo hiểm thất nghiệp còn liên quan đến nhiều văn bản pháp luật khác như: luật lao động, luật doanh nghiệp, luật phá sản, luật việc làm và chống thất nghiệp… khác với bảo hiểm xã hội tuy cùng xuất phát từ lĩnh vực xã hội, nhưng khi thực hiện lại chủ yếu thuộc lĩnh vực việc làm.Chính vì sự khác nhau này mà hầu hết các nước trên thế giới, bảo hiểm thất nghiệp được tổ chức theo một hệ thống riêng độc lập với hệ thống bảo hiểm xã hội (các nước EU, OECD), chỉ có một số ít các nước thực hiện như một nhánh của bảo hiểm xã hội (Thái Lan, Cộng hoà liên bang Đức…). Một số nước như: Pháp, Tây Ban Nha, Hà Lan, Bồ Đào Nha, Đức, Italia, bên cạnh hệ thống bảo hiểm thất nghiệp còn có hệ thống trợ cấp thất nghiệp. Có những nước trợ cấp thất nghiệp do Tổ chức đại diện của người lao động (công đoàn) thực hiện, vừa do Nhà nước thực hiện. Theo: Lê Thị Hoài Thu Link luận án: Tại đây
Nguyễn Mai Phương
479 ngày trước
Theo dõi
1.2. Chế độ trợ cấp bảo hiểm thất nghiệpRủi ro thuộc phạm vi bảo hiểm thất nghiệp là rủi ro nghề nghiệp, rủi ro việc làm. Người lao động tham gia bảo hiểm thất nghiệp bị mất việc làm sẽ được hưởng trợ cấp bảo hiểm thất nghiệp. So với các chế độ bảo hiểm khác, trợ cấp bảo hiểm thất nghiệp phải thoả mãn các điều kiện cần và đủ tức là những điều kiện trước khi thất nghiệp, những điều kiện liên quan đến thất nghiệp và những điều kiện phải có trong quá trình hưởng bảo hiểm thất nghiệp. Trợ cấp bảo hiểm thất nghiệp là mức trợ cấp thay tiền lương cho người mất việc làm để họ ổn định cuộc sống và có điều kiện tham gia vào thị trường lao động. Chế độ trợ cấp bảo hiểm thất nghiệp bao gồm: điều kiện hưởng trợ cấp, mức trợ cấp; thời gian hưởng trợ cấp bảo hiểm thất nghiệp.1.2.1. Điều kiện hưởng trợ cấp bảo hiểm thất nghiệpLà những qui định của pháp luật mà người lao động phải thoả mãn các điều kiện đặt ra mới được hưởng trợ cấp bảo hiểm thất nghiệp; thông thường bao gồm:+ Người tham gia bảo hiểm phải nộp phí bảo hiểm trong một thời gian nhất định. Để được hưởng trợ cấp bảo hiểm thất nghiệp, thông thường người lao động phải có một quá trình làm việc nhất định và tham gia đóng bảo hiểm trong một thời gian tối thiểu. Việc qui định thời gian tối thiểu là bao nhiêu tuỳ thuộc vào mỗi nước. Ví dụ: Pháp qui định là 3 tháng trong 12 tháng cuối trước khi thất nghiệp; Nhật Bản có 6 tháng tham gia vào hệ thống bảo hiểm trong 12 tháng cuối cùng (hoặc 1 năm đóng bảo hiểm trong 2 năm cuối cho các đối tượng lao động bán thời gian). Hungari: người lao động đã có ít nhất 48 tháng làm việc trước khi mất việc. Trung Quốc tối thiểu 1 năm tham gia bảo hiểm việc làm, không tự nguyện thôi việc…+ Phải đăng ký thất nghiệp, đăng ký tìm việc làm tại cơ quan lao động có thẩm quyền do Nhà nước qui định. Để được hưởng trợ cấp bảo hiểm thất nghiệp, người lao động phải đăng ký với cơ quan dịch vụ việc làm hoặc cơ quan quản lý lao động. Chẳng hạn, ở Nhật, người thất nghiệp nhất thiết phải đăng ký tại cơ quan bảo đảm việc làm quốc gia, có khả năng và sẵn sàng đi làm nếu nhận được công việc. Việc đăng ký phải được làm thường xuyên 4 tuần một lần. Hoặc ở Anh đã đăng ký với văn phòng lao động, có năng lực và khả năng làm việc, tích cực tìm việc làm và có một bản hợp đồng tìm kiếm việc làm mới nhất [129] …Việc đăng ký này giúp cho cơ quan lao động theo dõi, quản lý, kiểm soát được số người thất nghiệp cũng như đảm bảo chi trả trợ cấp đúng đối tượng. Ngược lại, thông qua đăng ký thất nghiệp người lao động cũng phải chứng minh được họ có khả năng lao động và luôn sẵn sàng làm việc khi được giới thiệu việc làm. Thậm chí, người thất nghiệp còn phải tham dự các hoạt động tạo nghề mới hoặc đào tạo lại khi cơ quan quản lý lao động triệu tập. Một số nước cũng qui định rất cụ thể về việc điều tra thu nhập của người hưởng trợ cấp trong thời gian thất nghiệp. Nếu họ có nguồn thu nhập nào khác thì đương nhiên không được hưởng trợ cấp.+ Thất nghiệp không phải do lỗi của người lao động: trong trường hợp này người lao động phải chứng minh được việc thất nghiệp không do lỗi của bản thân họ. Các nước đều đưa ra các tiêu chí xác định trường hợp mất quyền hưởng trợ cấp bảo hiểm thất nghiệp với các lý do như: tự ý bỏ việc không có lý do chính đáng, vi phạm kỷ luật lao động dẫn đến mất việc…+ Có sổ bảo hiểm thất nghiệp. Sổ bảo hiểm thất nghiệp là cơ sở pháp lý chứng nhận sự tham gia bảo hiểm thất nghiệp của người lao động bao gồm mức đóng phí và thời hạn đóng.Bốn điều kiện nêu trên là những yếu tố bắt buộc phải có đối với người lao động khi thụ hưởng chế độ bảo hiểm thất nghiệp.1.2.2. Mức trợ cấp bảo hiểm thất nghiệpQua nghiên cứu pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp của nhiều nước cho thấy: Mức trợ cấp bảo hiểm thất nghiệp là khoản tiền mà người lao động (khi mất việc làm) nhận được từ cơ quan bảo hiểm thất nghiệp hay cơ quan quản lý lao động chi trả trợ cấp. Mức trợ cấp thất nghiệp được hình thành trên cơ sở mức đóng và thời gian đóng của người lao động.Về nguyên tắc mức trợ cấp bảo hiểm thất nghiệp phải thấp hơn mức thu nhập của người lao động khi đang làm việc nhưng vẫn phải đảm bảo đời sống tối thiểu cho ngườithất nghiệp. Theo ILO, mức trợ cấp bảo hiểm thất nghiệp tối thiểu bằng 45% thu nhập trước khi thất nghiệp. Thông thường, ở các nước thường thiết kế mức hưởng từ 50% đến 60% tiền lương trước khi thất nghiệp. Chẳng hạn:Ở Mông Cổ, Luật về trợ cấp bảo hiểm thất nghiệp (1994) qui định: “Tỷ lệ trợ cấp bảo hiểm thất nghiệp được tính dựa trên % mức lương hoặc thu nhập bình quân 3 tháng cuối của người thất nghiệp và dựa vào thời gian đóng bảo hiểm thất nghiệp nếu thời gian đóng: Từ 1 đến 5 nămtỷ lệ trợ cấp là 45%; Từ 5 đến 10 năm tỷ lệ trợ cấp là 50%; Từ 10 đến 15 năm tỷ lệ trợ cấp là 60%; Từ 15 năm trở lên tỷ lệ trợ cấp là 70%. Mức trợ cấp tối thiểu cũng không được thấp hơn 75% mức lương tối thiểu do chính phủ qui định” (Điều 3) [128, tr. 76-77]. Tại Nhật mức hưởng từ 60% đến 80% mức lương tiền công ngày (tỷ lệ này sẽ cao hơn đối với người có thu nhập thấp); 50% đến 80% cho người thất nghiệp trong khoảngđộ tuổi từ 60 đến 64. Mức trợ cấp tối thiểu ở mức 3.260 yên một ngày (2.610 yên cho đối tượng lao động lao động ngắn hạn) và tối đa là 10.900 Yên. Khoản trợ cấp này sẽ được trả sau 7 ngày cho đến từ 90 đến 300 ngày tuỳ thuộc vào độ dài của thời gian đóng bảo hiểm, tuổi tác, tương lai việc làm và các yếu tố khác [124, tr. 79 - 80].Tuy nhiên, cũng có nước qui định mức hưởng trợ cấp bảo hiểm thất nghiệp trên cơ sở mức tiền lương tối thiểu. Như ở thành phố Bắc Kinh (Trung Quốc) mức hưởng bảo hiểm thất nghiệp được cấp phát từ 70% đến 90% mức lương tối thiểu trong thành phố. Cụ thể là:Thời gian đóng tiền liên tục chưa tròn 5 năm sẽ hưởng 70% của mức lương tối thiểu;Thời gian đóng tiền liên tục tròn 5 năm nhưng chưa được 10 năm sẽ được hưởng 75% của mức lương tối thiểu;Thời gian đóng tiền liên tục tròn 10 năm nhưng chưa được 15 năm sẽ phát 80% của mức lương tối thiểu;Thời gian đóng tiền liên tục trên 15 năm nhưng chưa được 20 năm sẽ phát 85% của mức lương tối thiểu;Thời gian đóng tiền liên tục trên 20 năm sẽ phát 90% của mức lương tối thiểu (Điều 19).Cũng như Bắc Kinh (Trung Quốc), ở Hà Lan trả trợ cấp bảo hiểm thất nghiệp vừa căn cứ vào tiền lương tối thiểu vừa căn cứ vào mức lương cuối cùng trước khi bị thất nghiệp. Khác với các nước trên, một số nước mức trợ cấp bảo hiểm thất nghiệp xác định theo tỷ lệ giảm dần so với tiền lương tháng cuối cùng như ở Cộng hoà Séc qui định: “Trợ cấp bảo hiểm thất nghiệp được tính bằng 50% tiền lương tháng trong suốt 3 tháng làm việc đầu tiên; 40% cho 3 tháng tiếp theo; 60% trong trường hợp người lao động phải đào tạo lại”.Ở Hungari mức trả trợ cấp bảo hiểm thất nghiệp giảm dần theo thời gian thất nghiệp “Người thất nghiệp nhận được 70%lương thực lĩnh cho năm đầu tiên và 50% cho năm thứ hai” [129, tr. 167]. Chỉ riêng ở Anh là xác định một mức hưởng trợ cấp chung cho mọi đối tượng (32,75 bảng/tuần). Ngoài ra, một số nước cũng căn cứ vào điều kiện hoàn cảnh gia đình để xác định mức hưởng trợ cấp như: Bỉ, Phần Lan...Ngoài ra, mức trợ cấp bảo hiểm thất nghiệp còn được xác định theo tỷ lệ lũy tiến điều hoà, có nghĩa là mức lương thấp thì được hưởng tỷ lệ trợ cấp cao và ngược lại. Phương pháp này nhằm đảm bảo mức sống tối thiểu cho người thất nghiệp và tránh tình trạng lạm dụng quỹ bảo hiểm thất nghiệp. Các nước thực hiện mức trợ cấp này có Áo, Canada và một số nước EU.Như vậy, quá trình vận dụng của các nước tuy có sự khác nhau nhưng mức trợ cấp bảo hiểm thất nghiệp thường không cao để khuyến khích người lao động tích cực tìm kiếm việc làm. Qua phân tích trên, cho thấy có 3 phương pháp xác định mức trợ cấp bảo hiểm thất nghiệp cơ bản hiện nay mà nước ta có thể tham khảo là:Phương pháp thứ nhất: Xác định theo một tỷ lệ đồng đều cho tất cả mọi người thất nghiệp căn cứ vào mức lương tối thiểu, mức lương bình quân cá nhân hay mức lương tháng cuối cùng.Phương pháp thứ hai: Xác định theo tỷ lệ lũy thoái; những tháng đầu được hưởng tỷ lệ cao, những tháng sau tỷ lệ thấp hơn.Phương pháp thứ ba: Xác định theo lũy tiến điều hoà, những người thuộc nhóm lương thấp thì được hưởng tỷ lệ cao và những người ở nhóm lương cao được hưởng tỷ lệ thấp.Ngoài ra, có nước còn căn cứ vào số con trong gia đình, lao động trí óc, lao động chân tay, thành thị và nông thôn khi xác định mức trợ cấp bảo hiểm thất nghiệp.1.2.3. Thời gian hưởng trợ cấp bảo hiểm thất nghiệpThời gian hưởng trợ cấp bảo hiểm thất nghiệp tối đa phụ thuộc chủ yếu vào yếu tố tài chính, vào quỹ bảo hiểm và thời gian tham gia bảo hiểm thất nghiệp, ngoài ra còn phụ thuộc nhiều vào các điều kiện kinh tế - xã hội khác. Trong các thời kỳ mà tỷ lệ thất nghiệp thấp, người lao động có khả năng tìm kiếm được việc làm và xuất hiện nhiều ngành nghề có mức cầu về lao động dễ hơn, thì thời hạn hưởng trợ cấp sẽ hạ thấp xuống. Ngược lại, vào thời kỳ khủng hoảng kinh tế, số người thất nghiệp gia tăng thì thời hạn hưởng được kéo dài, nhưng cũng chỉ có thể kéo dài trong phạm vi quĩ bảo hiểm thất nghiệp có thể chịu được.Công ước số 102 của ILOqui định: “việcchi trả trợ cấp thất nghiệp có thể giới hạn ở 13 tuần trong thời kỳ 12 tháng, nếu người được bảo vệ là người làm công ăn lương; 26 tuần trong thời kỳ 12 tháng, nếu người được bảo vệ là người thường trú mà các phương tiện sinh sống trong khi trường hợp bảo vệ xảy ra không vượt quá giới hạn qui định” (khoản 1 Điều 24).Còn theo Công ước số 168 của ILO thì có thể được “Giới hạn tới 26 tuần cho mỗi kỳ thất nghiệp, hoặc tới 39 tuần trong mỗi giai đoạn 24 tháng” (Điều 19). Tuy nhiên, ở các nước khác nhau thời gian trả trợ cấp có qui định khác nhau. Thông thường ở các nước, thời hạn hưởng khoảng từ 12 tuần đến 52 tuần lễ như: Cộng hoà liên bang Đức 13 tuần, Anh 24 tuần, Italia 180 ngày, Canada 36 tuần, Áo 20 tuần…Tuy nhiên, cũng có một số nước qui định thời gian để hưởng trợ cấp bảo hiểm thất nghiệp rất chặt chẽ. Chẳng hạn như: Trung Quốc qui định: trợ cấp bảo hiểm thất nghiệp sẽ được hưởng trong vòng 12 tháng nếu người bị thất nghiệp đã đóng góp vào quĩ bảo hiểm thất nghiệp trong thời gian từ 1 đến 5 năm; những người đóng bảo hiểm thất nghiệp từ 5 đến 10 năm thì hưởng trợ cấpthất nghiệp tối đa là 18 tháng. Những người đóng bảo hiểm thất nghiệp trên 10 năm thì sẽ được nhận tối đa là 24 tháng. Khi người lao động lại bị thất nghiệp sau khi đã tìm được việc làm thì thời gian đóng góp cho quĩ sẽ được tính toán lại trên cơ sở xem xét khoảng thời gian họ đã nhận bảo hiểm thất nghiệp trước đây, tuy nhiên mức tối đa cũng không được vượt quá 24 tháng.Theo: Lê Thị Hoài Thu Link luận án: Tại đây
Nguyễn Mai Phương
484 ngày trước
Theo dõi
3.2. Đăng ký áp dụng mức dư lượng tối đaUỷ ban Châu Âu ban hành Quy định (EC) số 396/2005 để tạo khung pháp lý chung cho việc đăng ký sử dụng và thiết lập MRL thuốc BVTV cũng như điều chỉnh sự hài hoà hoá của hệ thống quy định về MRL trên toàn khu vực EU. Theo quy định của EU, tất cả các chủ thể có mối quan tâm hợp pháp đến sức khỏe, bao gồm các tổ chức xã hội dân sự, nhà sản xuất, người trồng trọt, nhà nhập khẩu và người sản xuất các sản phẩm được đề cập trong Phụ lục I của Quy định (EC) 396/2005 đều có thể nộp đơn đăng ký cấp phép sử dụng và thiết lập MRL cho một hoặc nhiều loại thuốc BVTV đến một quốc gia thành viên EU theo quy định tại Điều 7 Quy định (EC) 396/2005, bao gồm cả việc nộp đơn cho dung sai nhập khẩu. Quy trình đăng ký cấp phép sử dụng và thiết lập MRL thuốc BVTV được quy định cụ thể từ Điều 6 đến Điều 14 Quy định (EC) 396/2005. Theo đó, người nộp đơn sẽ nộp trực tiếp cho một quốc gia thành viên của EU, quốc gia thành viên sau khi xem xét hồ sơ sẽ gửi hồ sơ kèm với bản đánh giá của mình đến Uỷ ban Châu Âu, Uỷ ban Châu Âu sẽ chuyển hồ sơ này đến Cơ quan An toàn thực phẩm châu Âu (European Food Safety Authority), Cơ quan An toàn thực phẩm Châu Âu là cơ quan chuyên trách phụ trách xem xét hồ sơ và tham mưu cho Uỷ ban Châu Âu về việc chấp thuận đơn đăng ký và thiết lập, sửa đổi hoặc từ chối đơn yêu cầu thiết lập MRL171.Theo quy định tại khoản 1 Điều 7 Quy định (EC) 396/2005, những thông tin sau phải được cung cấp cho một quốc gia thành viên EU khi nộp đơn: Một là, tên và địa chỉ của người nộp đơn;Hai là, hồ sơ gồm: (i) Một bản tóm tắt của hồ sơ; (ii) Nội dung chính của yêu cầu áp dụng MRL; (iii) Một danh mục tài liệu; (iv) Bản sao một bộ GAP (bộ tiêu chuẩn về thực hành nông nghiệp tốt) liên quan đến việc sử dụng cụ thể của thuốc BVTV.Ba là, tổng quan toàn diện các bằng chứng khoa học về các mối quan tâm liên quan đến loại thuốc BVTV trong hồ sơ.Bốn là, dữ liệu được liệt kê trong Phụ lục II và III của Quy định (EC) số 91/414 về các dữ liệu cần thiết để thiết lập MRL.Những nội dung sau sẽ được Uỷ ban Châu Âu xem xét khi đưa ra quyết định về việc có chấp nhận đơn đăng ký để thiết lập một MRL thuốc BVTV hay không: (i) Thông tin khoa học và kỹ thuật; (ii) Khả năng tồn dư dư lượng thuốc BVTV phát sinh từ các nguồn khác với việc sử dụng các hoạt chất BVTV hiện tại, và các tác động tích lũy và cộng gộp khác; (iii) Kết quả đánh giá rủi ro tiềm ẩn đối với người tiêu dùng có lượng tiêu thụ cao và mức độ dễ bị tổn thương cao và đối với động vật (nếu cần thiết); (iv) Kết quả của tất cả các đánh giá và quyết định liên quan đến sửa đổi việc sử dụng các sản phẩm BVTV; (v) CXL hoặc GAP được thực hiện ở nước thứ ba để sử dụng hợp pháp một loại thuốc BVTV ở nước đó;(vi) Các yếu tố hợp pháp khác liên quan đến vấn đề đang được xem xét.Trong trường hợp cần thiết, quốc gia thành viên tiếp nhận hồ sơ có thể yêu cầu người nộp đơn cung cấp thêm thông tin liên quan đến hồ sơ, trong một khoảng thời gian cụ thể, toàn bộ quy trình đăng ký sẽ không vượt quá hai năm. Tuy nhiên, theo báo cáo của Uỷ ban Thương mại quốc tế Hoa Kỳ (USITC) thì thời gian thực tế để một loại thuốc BVTV được cấp phép là từ 2,5 đến 3,5 năm kể từ lúc nộp đơn. Sau khi hồ sơ đăng ký đã được xem xét bởi Cơ quan An toàn thực phẩm EU và dựa trên ý kiến tham vấn của cơ quan này, Uỷ ban Châu Âu trong thời hạn tối thiểu 03 tháng (nhưng thực tế có thể đến 02 năm) sẽ xem xét để thiết lập mức MRL cụ thể cho loại thuốc BVTV đã hoặc đang được xem xét cấp phép sử dụng. Cụ thể, Cơ quan An toàn thực phẩm của EU sẽ tự mình thực hiện các đánh giá rủi ro để qua đó tham mưu cho Uỷ ban Châu Âu ban hành MRL thích hợp. Trong trường hợp hồ sơ đăng ký MRL cụ thể không được chấp nhận, thì hàng hoá sử dụng loại thuốc trên sẽ bị áp dụng MRL mặc định hoặc ở mức giới hạn phát hiện thấp nhất (lowest limit of detection – LOD). Hai quy trình trên được đánh giá là có nhiều nội dung trùng lặp, gây nhiều tốn kém về thời gian và chi phí cho người nộp đơn và tạo ra trở ngại không cần thiết đối với hoạt động thương mại, đặc biệt là cho hàng hoá nhập khẩu.Cùng điều chỉnh vấn đề này, Hoa Kỳ có những quy định rất chi tiết về đối tượng nộp hồ sơ, thành phần hồ sơ và phí đăng ký. Theo đó, người nộp đơn (bao gồm tất cả các tổ chức, cá nhân) sẽ gửi hai bộ hồ sơ đến Cơ quan bảo vệ Môi trường (EPA) theo quy định tại Điều 180.7 phần 40 Bảo vệ môi trường của Bộ luật Liên bang (Section 180 Part 40 – Environment Protection e-CFR, viết tắt là 40 CFR 180). Hồ sơ đăng ký bao gồm 16 loại thông tin được quy định tại Điều 180.7(b), bao gồm một số thông tin chính như: (i) báo cáo tóm tắt các thông tin liên quan đến chất đăng ký; (ii) tên và thành phần của chất đăng ký; (iii) báo cáo đầy đủ các kết quả thí nghiệm (phòng thí nghiệm và thực nghiệm) của chất đăng ký; đề xuất MRL và mức dư lượng do Codex quy định (nếu có); (iv) các tài liệu bổ trợ cho đơn đăng ký khác hoặc tài liệu khác do EPA yêu cầu.Pháp luật Hoa Kỳ hiện không quy định cụ thể thời hạn cấp phép sử dụng thuốc BVTV từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ là bao lâu. Thực tế, thời hạn để được cấp phép sẽ tùy thuộc vào từng loại thuốc BVTV và số lượng mẫu thực nghiệm, nhưng trung bình từ thời điểm nộp đơn đến lúc có kết quả sau cùng của EPA là từ 2 đến 3 năm. Khi xem xét MRL của một loại thuốc BVTV cụ thể thì EPA phải xem xét khuyến cáo của Codex về loại thuốc đang đăng ký, trong trường hợp không sử dụng MRL do Codex khuyến cáo thì EPA hoặc người nộp đơn (trường hợp người nộp đơn đề nghị không sử dụng tiêu chuẩn của Codex) phải có giải thích và niêm yết công khai về lý do không sử dụng tiêu chuẩn của Codex. Khác với EU là người nộp đơn phải thực hiện cả bước nộp hồ sơ cấp phép sử dụng và hồ sơ đăng ký thiết lập MRL cho một loại thuốc BVTV cụ thể, pháp luật Hoa Kỳ quy định sau khi đơn đăng ký cấp phép sử dụng thuốc BVTV được chấp thuận, thì EPA sẽ tự mình thực hiện việc xem xét để thiết lập một MRL cụ thể. Song song đó, Hoa Kỳ quy định rất chi tiết về phí đăng ký thiết lập, điều chỉnh hoặc hủy bỏ MRL cũng như những trường hợp được miễn, được hoàn trả phí đăng ký, EU không có những quy định cụ thể này.Theo quy định của pháp luật Việt Nam, tất cả thuốc BVTV dùng để phòng trừ sinh vật gây hại thực vật; điều hòa sinh trưởng cây trồng; bảo quản thực vật; khử trùng kho; trừ mối hại công trình xây dựng và đê điều; trừ cỏ trên đất không trồng trọt; làm tăng độ an toàn, hiệu quả khi sử dụng (có tên thương phẩm riêng) phải được đăng ký vào “Danh mục thuốc bảo vệ thực vật được phép sử dụng ở Việt Nam”186. Tổ chức, cá nhân trong nước hoặc nước ngoài (có văn phòng đại diện, công ty, chi nhánh công ty kinh doanh thuốc BVTV đang được phép hoạt động tại Việt Nam) đều được trực tiếp đứng tên đăng ký thuốc BVTV do mình sản xuất.Điều 13 Thông tư số 21/2015/TT-BNNPTNT quy định hồ sơ và thành phần hồ sơ phải nộp để đăng ký sử dụng thuốc bảo vệ thực vật tại Việt Nam như sau:Một là, tổ chức, cá nhân nộp hồ sơ trực tiếp hoặc gửi qua đường bưu điện hoặc nộp trực tuyến đến Cục Bảo vệ thực vật; Cục Bảo vệ thực vật phải kiểm tra tính hợp lệ của hồ sơ trong thời hạn 02 ngày làm việc. Nếu hồ sơ hợp lệ theo quy định thì tiếp nhận hồ sơ, nếu không hợp lệ thì trả lại hồ sơ cho tổ chức, cá nhân và yêu cầu bổ sung, hoàn thiện hồ sơ;Hai là, số lượng hồ sơ: 01 bản giấy và 01 bản điện tử định dạng word hoặc excel hoặc powerpoint đối với mẫu nhãn.Thành phần hồ sơ bao gồm bốn loại tài liệu sau:i) Đơn đề nghị cấp Giấy chứng nhận đăng ký thuốc BVTV theo mẫu quy định tại Phụ lục II ban hành kèm theo Thông tư số 21/2015/TT-BNNPTNT;ii) Bản sao chụp Giấy phép khảo nghiệm đã được cấp;iii) Mẫu nhãn thuốc theo quy định tại Mục 1, 2, 3 Chương X của Thông tư số 21/2015/TT-BNNPTNT;iv) Bản chính kết quả khảo nghiệm hiệu lực sinh học, kết quả khảo nghiệm xác định thời gian cách ly và báo cáo tổng hợp kết quả khảo nghiệm theo mẫu quy định tại Phụ lục VI, Phụ lục VII và Phụ lục XI ban hành kèm theo Thông tư số 21/2015/TT-BNNPTNT.Bốn là, trong thời hạn 06 tháng kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, Cục Bảo vệ thực vật tổ chức thẩm định, trình Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn bổ sung thuốc BVTV vào Danh mục thuốc BVTV được phép sử dụng ở Việt Nam; cấp Giấy chứng nhận đăng ký thuốc BVTV theo mẫu quy định tại Phụ lục V ban hành kèm theo Thông tư số 21/2015/TT-BNNPTN . Mặc dù thời hạn quy định để cấp phép sử dụng thuốc BVTV là 06 tháng kể từ thời điểm Cục Bảo vệ thực vật nhận đủ hồ sơ hợp lệ, nhưng để được cấp phép thì trong hồ sơ phải kèm theo các số liệu khảo nghiệm đã được kiểm chứng theo quy định pháp luật. Tuỳ vào từng loại thuốc BVTV mà thời gian và phạm vi khảo nghiệm được quy định khác nhau, nhưng trung bình là từ 01 năm đến 03 năm. Do đó, để được cấp phép sử dụng ở Việt Nam thì người đăng ký phải tốn thời gian từ 02 năm đến 05 năm. Một điểm cần lưu ý ở đây là, nếu thuốc BVTV được sáng chế ở nước ngoài nhưng chưa được phép sử dụng ở nước ngoài (nước sáng chế hoặc nước thứ ba khác) thì không được phép đăng ký khảo nghiệm và sử dụng tại Việt Nam.Theo: Trần Vang PhủLink luận án: Tại đây
Nguyễn Mai Phương
484 ngày trước
Theo dõi
3.1. Yêu cầu đối với việc xác định mức dư lượng tối đa thuốc bảo vệ thực vậtQuy định về MRL cũng như các biện pháp về vệ sinh dịch tễ khác, đều được ban hành với mục tiêu cao nhất là để bảo vệ sức khỏe cho người tiêu dùng, sức khỏe cây trồng, vật nuôi và bảo vệ môi trường, tuy nhiên, những biện pháp này không được áp dụng quá mức cần thiết và gây trở ngại cho hoạt động thương mại. Vì vậy, việc xây dựng MRL phải tuân thủ những nguyên tắc chung của Hiệp định SPS của WTO như sau:Điều 3 của Hiệp định SPS quy định ba cách thức để các quốc gia thành viên có thể chọn khi đưa ra các biện pháp vệ sinh dịch tễ của riêng mình: (i) dựa trên các biện pháp SPS của quốc gia thành viên theo các tiêu chuẩn quốc tế theo Điều 3.1; (ii) tuân thủ các biện pháp SPS của quốc gia thành viên theo tiêu chuẩn quốc tế theo Điều 3.2; và (iii) áp đặt biện pháp SPS với mức độ bảo vệ cao hơn các tiêu chuẩn quốc tế được công nhận thông thường theo Điều 3.3150. Theo quan điểm của Hội đồng phúc thẩm trong vụ kiện EC - Hormones (1998), một biện pháp vệ sinh dịch tễ của quốc gia thành viên được coi là dựa trên tiêu chuẩn quốc tế nếu biện pháp đó có nguồn gốc từ một hoặc một số các tiêu chuẩn quốc tế hiện có (dựa trên các tiêu chuẩn quốc tế để xây dựng MRL cho quốc gia của mình). Liên quan đến phương thức thứ hai, nếu các biện pháp vệ sinh dịch tễ của một quốc gia thành viên tuân thủ các tiêu chuẩn quốc tế, các biện pháp đó sẽ được xem là có mức độ bảo vệ thích hợp và phù hợp với Hiệp định SPS cũng như Hiệp định GATT 1994 (nội luật hoá hoặc dẫn chiếu trực tiếp đến các tiêu chuẩn quốc tế về MRL, ví dụ như tiêu chuẩn của Codex). Trong trường hợp quốc gia thành viên quyết định áp dụng biện pháp cao hơn các tiêu chuẩn quốc tế hiện có (viện dẫn Điều 5.7 Hiệp định SPS), thì những biện pháp đó phải dựa trên các bằng chứng khoa học và phải thực hiện việc đánh giá rủi ro (risk assessment).Theo Báo cáo năm 2019 của WTO thì hiện có khoảng 51% các biện pháp về vệ sinh dịch tễ đang được các quốc gia áp dụng khác với các tiêu chuẩn quốc tế có sẵn. Bên cạnh đó, theo thống kê của FAO và Codex riêng đối với mặt hàng gạo, hiện nay tỷ lệ các quốc gia trên thế giới áp dụng các tiêu chuẩn về MRL thấp hơn Codex (nghĩa là yêu cầu cao hơn về MRL) đang có xu hướng gia tăng đặc biệt ở các quốc gia: Australia (khoảng 70% MRL thấp hơn Codex), Hoa Kỳ (hơn 70% MRL thấp hơn Codex), EU (hơn 80% MRL thấp hơn Codex), Nhật Bản (gần 80% MRL thấp hơn Codex), Ấn Độ (khoảng 75% MRL thấp hơn Codex), Trung Quốc (khoảng 55% MRL thấp hơn Codex), cá biệt trường hợp của Phillipine có đến gần 90% MRL thấp hơn Codex155… Điều này đã đi ngược lại mục tiêu hài hoà hoá các tiêu chuẩn quốc tế (standardization) và có khả năng tạo ra nhiều trở ngại cho hoạt động thương mại quốc tế, tác động tiêu cực đến nền kinh tế và chiến lược xóa đói, giảm nghèo ở các quốc gia đang và kém phát triển.Từ những nguyên tắc chung của WTO, mỗi quốc gia lại có quyền đưa ra những yêu cầu riêng khi xem xét việc cấp phép và thiết lập một mức MRL trong phạm vi lãnh thổ của mình. Chẳng hạn như:(i) Australia đưa ra nguyên tắc chung để xác định MRL của thuốc BVTV như sau: Cơ quan Thuốc trừ sâu và Thuốc thú y Australia (APVMA) đăng ký và phê duyệt tất cả các hóa chất nông nghiệp hoặc thú y ở Australia và quy định MRL cụ thể cho các chất này. MRL thuốc BVTV được thiết lập dựa trên nguyên tắc là lượng hóa chất cần thiết để kiểm soát sâu bệnh hoặc dịch bệnh và mức độ an toàn cho sức khỏe của con người khi sử dụng những thực phẩm có chứa tồn dư thuốc BVTV. Các giới hạn được thiết lập bằng cách sử dụng các phương pháp được quốc tế công nhận (phương pháp thực nghiệm), dữ liệu khoa học quốc gia và giới hạn phải thấp hơn nhiều so với mức có thể gây ra rủi ro về sức khỏe và an toàn cho người tiêu dùng.(ii) Trong Quy định (EC) 396/2005 do Ủy ban Châu Âu ban hành để quy định về việc đăng ký thuốc BVTV và thiết lập MRL tại EU đã nhiều lần nhấn mạnh yêu cầu của việc quản lý và thiết lập MRL là để bảo vệ sức khỏe cho người tiêu dùng ở mức độ cao (high level of protection)158. Theo đó, quy định người nộp đơn phải nộp những tài liệu được quy định tại khoản 2 Điều 14 Quy định (EC 396/2005 để làm căn cứ xem xét việc cấp phép sử dụng và thiết lập MRL cho thuốc BVTV. Sau khi xem xét các tài liệu có liên quan, trên cơ sở tham vấn của Cơ quan an toàn thực phẩm châu Âu (European Food Safety Authority)159, Uỷ ban Châu Âu sẽ xem xét và ban hành MRL thuốc BVTV để áp dụng chung cho tất cả các quốc gia thuộc Liên minh Châu Âu. Ở Liên hiệp Vương quốc An, căn cứ để ban hành MRL là dựa theo công thức tính MRL của OECD.(iii) Điều 408 Luật Thực phẩm, thuốc và mỹ phẩm của Hoa Kỳ (21 U.S.C. 346a) quy định MRL phải được đặt ở mức được cho là “an toàn - safe”. Mức an toàn được giải thích là “sự chắc chắn hợp lý rằng không có tác hại nào xảy ra khi tiếp xúc với dư lượng thuốc trừ sâu”. Cơ quan có thẩm quyền cấp phép sử dụng thuốc BVTV và thiết lập MRL ở Hoa Kỳ là Cơ quan Bảo vệ môi trường Hoa Kỳ (Environmental Protection Authority - EPA). Theo đó, trước khi cho phép sử dụng thuốc BVTV trên cây trồng, EPA căn cứ vào dữ liệu thực nghiệm để đưa ra giới hạn dư lượng tối đa mà một loại thuốc BVTV được phép tồn tại trong hoặc trên mỗi loại thực phẩm đã qua xử lý (Canada cũng áp dụng theo phương pháp này). Sau khi xem xét toàn diện hồ sơ đăng ký và các kiến nghị từ Hội đồng chuyên môn, EPA sẽ công bố một thông báo trên trang thông tin điện tử của Liên bang để các tổ chức, cá nhân có liên quan có thể cho ý kiến đối với MRL được đề xuất. Từ các dữ liệu có sẵn và trên cơ sở xem xét những ý kiến góp ý khác, EPA hoặc từ chối đơn đăng ký hoặc sẽ thiết lập một MRL cuối cùng. Sau khi đã thiết lập MRL cho một thuốc BVTV, EPA công bố công khai thông tin này và quy định về MRL mới cũng được bổ sung vào Bộ luật Quy định của Liên bang (CFR).Hiện nay ở Việt Nam, MRL thuốc BVTV được giao cho hai Bộ chuyên ngành quản lý ở hai góc độ khác nhau: (i) Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn quản lý danh mục thuốc BVTV cấm và cho phép sử dụng trong lĩnh vực nông nghiệp tại Việt Nam; (ii) Bộ Y tế quy định loại thuốc BVTV được phép sử dụng và MRL thuốc BVTV được tồn dư trong thực phẩm (nông sản). Tuy nhiên, hiện nay ở Việt Nam chưa có văn bản quy phạm pháp luật nào thống nhất quy định nguyên tắc xây dựng và ban hành MRL cho thuốc BVTV. Theo hướng dẫn của Tiêu chuẩn Việt Nam số TCVN 5139:2008 phương pháp khuyến cáo lấy mẫu để xác định dư lượng thuốc BVTV phù hợp với các giới hạn dư lượng tối đa do Bộ Khoa học và Công nghệ công bố, thì căn cứ để ban hành MRL thuốc BVTV là dựa vào kết quả có được từ phương pháp thực nghiệm, ngoài ra không có hướng dẫn nào khác về nguyên tắc để xác định MRL như thế nào là phù hợp với mục tiêu bảo vệ sức khỏe người sản xuất, người tiêu dùng, bảo vệ cây trồng – vật nuôi và hài hoà với tiêu chuẩn chung của quốc tế.Nguyên tắc ban hành quy định về MRL chỉ được quy định ở một văn bản là Thông tư số 24/2019/TT-BYT ngày 30/8/2019 của Bộ trưởng Bộ Y tế ban hành quy định về quản lý và sử dụng phụ gia thực phẩm của 400 loại chất phụ gia. Nội dung của Thông tư số 24/2019/TT-BYT là để điều chỉnh về MRL của chất phụ gia thực phẩm mà không phải là MRL thuốc BVTV. Điểm đáng lưu ý của Thông tư số 24/2019/TT-BYT là văn bản này quy định những nguyên tắc rất hoàn chỉnh để điều chỉnh MRL chất phụ gia theo thông lệ chung của thế giới. Cụ thể:Thứ nhất, MRL phải nhằm mục tiêu bảo đảm an toàn đối với sức khỏe con người; Hài hòa với tiêu chuẩn, quy định quốc tế về quản lý và sử dụng phụ gia thực phẩm; Cập nhật theo các khuyến cáo về quản lý nguy cơ đối với phụ gia thực phẩm của cơ quan quản lý có thẩm quyền của Việt Nam, Ủy ban Tiêu chuẩn thực phẩm quốc tế Codex, của Ủy ban chuyên gia về phụ gia thực phẩm của Tổ chức Nông Lương quốc tế (FAO) và Tổ chức Y tế thế giới (WHO) và của quốc gia khác.Thứ hai, quy định nguyên tắc xác định mức sử dụng tối đa phụ gia thực phẩm theo Thực hành sản xuất tốt (GMP): (i) Hạn chế đến mức thấp nhất lượng phụ gia thực phẩm sử dụng để đạt được hiệu quả kỹ thuật mong muốn; (ii) Lượng phụ gia thực phẩm được sử dụng trong quá trình sản xuất phải bảo đảm không làm thay đổi bản chất của thực phẩm hay công nghệ sản xuất thực phẩm; (iii) Phụ gia thực phẩm phải bảo đảm chất lượng, an toàn dùng cho thực phẩm và được chế biến, vận chuyển như đối với nguyên liệu thực phẩm.Như vậy, hiện nay Việt Nam vẫn chưa có quy định về nguyên tắc và yêu cầu để xác định MRL thuốc BVTV như thế nào là phù hợp để bảo vệ sức khoẻ cho con người, cây trồng, vật nuôi và môi trường. Căn cứ để xác định MRL thuốc BVTV trên cây trồng hiện nay là dựa theo hướng dẫn của TCVN 5139:2008, tức là áp dụng phương pháp thực nghiệm các mẫu thu thập được và thiếu hướng dẫn về các yếu tố cụ thể cần phải xem xét khi đưa ra quy định về MRL của một loại thuốc cụ thể như Hoa Kỳ, Liên minh Châu Âu hay Australia đang thực hiện.Theo: Trần Vang PhủLink luận án: Tại đây
Nguyễn Mai Phương
484 ngày trước
Theo dõi
2.3.. Ý nghĩa của việc hoàn thiện quy định pháp luật Việt Nam về vệ sinh dịch tễ đối với hàng nông sản xuất khẩuKể từ năm 1991, Việt Nam đã bắt đầu hình thành một số mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ yếu. Hiện nay, những mặt hàng trên vẫn được duy trì, trong đó đáng chú ý là lúa gạo, rau củ, cà phê, chè, cao su và hạt điều. Đây không chỉ là các mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu cao đối với Việt Nam, mà còn chiếm được thị phần lớn trên thị trường thế giới. Sản xuất và xuất khẩu nông sản đã góp phần cho tăng trưởng kinh tế và ổn định xã hội của Việt Nam. Tuy nhiên, theo quan điểm phát triển bền vững, việc phát triển sản xuất và xuất khẩu nông sản ở Việt Nam vẫn còn bất cập, đã và đang có nguy cơ tác động đến sự phát triển ổn định của kinh tế, xã hội và môi trường. Do đó, việc hoàn thiện quy định pháp luật nói chung, quy định pháp luật về các biện pháp vệ sinh dịch tễ nói riêng mang tính cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn, có ý nghĩa quan trọng cho sự phát triển trong giai đoạn hiện nay và chiến lược phát triển trong tương lai.Thứ nhất, hoàn thiện quy định pháp luật về vệ sinh dịch tễ để thể chế hoá chiến lược phát triển của Đảng Cộng sản Việt Nam về nông nghiệp và tạo hành lang pháp lý thông thoáng cho hoạt động sản xuất – xuất khẩu hàng nông sản chất lượng caoĐại hội lần thứ XII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định phương hướng, nhiệm vụ phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn là “Xây dựng nền nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa lớn, ứng dụng công nghệ cao, nâng cao chất lượng sản phẩm, đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm; nâng cao giá trị gia tăng, đẩy mạnh xuất khẩu” và “đẩy nhanh cơ cấu lại ngành nông nghiệp, xây dựng nền nông nghiệp sinh thái phát triển toàn diện cả về nông, lâm, ngư nghiệp theo hướng hiện đại, bền vững, trên cơ sở phát huy lợi thế so sánh và tổ chức lại sản xuất, thúc đẩy ứng dụng sâu rộng khoa học - công nghệ, nhất là công nghệ sinh học, công nghệ thông tin vào sản xuất, quản lý nông nghiệp và đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn để tăng năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh, bảo đảm chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh, bảo đảm vững chắc an ninh lương thực quốc gia cả trước mắt và lâu dài; nâng cao thu nhập và đời sống của nông dân. Chú trọng đầu tư vùng trọng điểm sản xuất nông nghiệp. Có chính sách phù hợp để tích tụ, tập trung ruộng đất, thu hút mạnh các nguồn lực đầu tư phát triển nông nghiệp; từng bước hình thành các tổ hợp nông nghiệp - công nghiệp - dịch vụ công nghệ cao”.Tiếp nối với chiến lược phát triển của Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XII, Đại hội lần thứ XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam xác định rõ phương hướng phát triển trong tương lai của Việt Nam là “phát triển các sản phẩm có lợi thế cạnh tranh, sản phẩm công nghệ cao, có giá trị gia tăng cao, thân thiện với môi trường, tham gia có hiệu quả vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu”119 và “đẩy mạnh cơ cấu lại nông nghiệp, khai thác và phát huy lợi thế nền nông nghiệp nhiệt đới, phát triển nông nghiệp hàng hóa tập trung quy mô lớn theo hướng hiện đại, vùng chuyên canh hàng hóa chất lượng cao. Phát triển mạnh nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp sinh thái, đạt tiêu chuẩn phổ biến về an toàn thực phẩm” .Theo Chiến lược phát triển nông nghiệp, nông thôn giai đoạn 2011 – 2020, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã xác định “Sản xuất kinh doanh nông nghiệp phát triển hiệu quả và bền vững theo hướng phát huy lợi thế so sánh, tăng năng suất, tăng chất lượng, tăng giá trị gia tăng, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, bảo vệ môi trường, đảm bảo an ninh lương thực, đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của nhân dân”121. Chính vì vậy, cần thiết phải thể chế hoá chủ trương phát triển ngành nông nghiệp nêu trên để tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho hoạt động kinh tế nông nghiệp Việt Nam.Thứ hai, hoàn thiện pháp luật để phát huy tiềm năng, thế mạnh của Việt Nam.Với xuất phát điểm là một nước nông nghiệp nên đối với sản xuất và xuất khẩu hàng nông sản, Việt Nam có tiềm năng rất lớn, thể hiện ở:Một là về đất đai: tính đến ngày 31/12/2019, diện tích của nhóm đất nông nghiệp ở Việt Nam là gần 28 triệu hecta, nhưng chỉ sử dụng khoảng 65% quỹ đất nông nghiệp, còn lại là đồng cỏ tự nhiên và mặt nước. Chất lượng đất ở Việt Nam có tầng dày, kết cấu tơi xốp, nhiều chất dinh dưỡng cung cấp cho cây trồng, nhất là phù sa, đất xám, chủng loại đất cũng rất phong phú với 64 loại thuộc 14 nhóm. Những điều kiện này kết hợp với nguồn nhiệt ẩm dồi dào sẽ là điều kiện tốt để phát triển ngành nông nghiệp.Hai là về khí hậu: khí hậu Việt Nam là khí hậu nhiệt đới gió mùa do ảnh hưởng khá sâu sắc của chế độ gió mùa Châu Á. Đây chính là điều kiện thuận lợi để Việt Nam đa dạng hoá các loại cây trồng nông nghiệp. Bên cạnh đó, với độ ẩm trong năm thường cao hơn 80%, lượng mưa lớn (trung bình từ 1800- 2000mm/năm)… đây là điều kiện thuận lợi cho việc sinh trưởng và phát triển của các loại động thực vật, nhất là đối với một số loại cây trồng như: lúa, cây ăn trái, cà phê, điều, cao su…Ba là về nhân lực: với dân số hơn 90 triệu người, cơ cấu dân số trẻ và tính chung năm 2020, tổng số lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc là 53,4 triệu người, trong đó, lao động đang làm việc trong khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản là 17,5 triệu người. Đồng thời, với truyền thống lâu đời trong sản xuất nông nghiệp, nên người lao động ở Việt Nam tích luỹ được nhiều kinh nghiệm và kỹ thuật canh tác, đây là những điều kiện thuận lợi cho Việt Nam để phát triển một nền sản xuất nông nghiệp tiên tiến, hiện đại… cung cấp sản lượng lớn nông sản cho tiêu dùng và xuất khẩu.Nhờ những tiềm năng, thế mạnh trên của ngành nông nghiệp, việc hoàn thiện quy định pháp luật về bảo đảm chất lượng hàng nông sản nói chung, quy định về vệ sinh dịch tễ nói riêng để hàng nông sản Việt Nam có thể đáp ứng được tiêu chuẩn nhập khẩu của các nước phát triển là yêu cầu cấp thiết hiện nay. Bên cạnh đó, nếu hoạt động xuất khẩu nông sản được đẩy mạnh cả về sản lượng và giá trị xuất khẩu sẽ giúp cho những người nông dân, những doanh nghiệp sản xuất dưới quy mô vừa và nhỏ có thể tạo ra những sản phẩm đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế về sức khỏe và an toàn. Điều này mở ra nhiều cơ hội để tiếp cận các thị trường mới, đồng nghĩa với việc thu nhập cao hơn, nhiều việc làm và cơ hội kinh doanh hơn, đặc biệt là đối với phụ nữ.Thứ ba, hoàn thiện pháp luật về vệ sinh dịch tễ để phục vụ mục tiêu bảo vệ sức khoẻ của con người, bảo vệ môi trường và phát triển bền vững.Nhiều mặt hàng xuất khẩu nông, lâm, thủy sản của Việt Nam đều dựa vào tài nguyên thiên nhiên (đất, nước, biển, rừng...) nên sự phát triển sản xuất nông nghiệp đang có nguy cơ hủy hoại các nguồn tài nguyên này. Hơn nữa, sản xuất và xuất khẩu nông sản của Việt Nam tiềm ẩn nguy cơ cao về ô nhiễm môi trường. Việc mở rộng diện tích trồng trọt cũng như thâm canh tăng vụ là nguyên nhân dẫn đến sự thoái hóa đất nông nghiệp. Bên cạnh đó, việc sử dụng các loại thuốc BVTV và hoạt chất không đúng quy cách và quá mức nhằm tăng năng suất cây trồng còn gây ô nhiễm môi trường đất, nước, không khí; làm tăng mức độ quen thuốc, tăng tính chống thuốc ở các loài sâu bệnh, gây độc cho gia súc, gia cầm và gây độc trực tiếp cho người nông dân; để lại dư lượng chất độc trong nông sản gây ngộ độc thực phẩm cho người tiêu dùng. Trong thời gian qua nhiều lô hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam đã bị các quốc gia nhập khẩu tiêu huỷ hoặc trả lại, nhiều trong số đó có nguyên nhân từ việc hàng nông sản Việt Nam chứa mức dư lượng tối đa thuốc BVTV, chất kháng sinh vượt quá mức cho phép (vượt ngưỡng an toàn đối với sức khoẻ của người tiêu dùng).Theo: Trần Vang PhủLink luận án: Tại đây
Nguyễn Mai Phương
484 ngày trước
Theo dõi
2.3. Vai trò của hoạt động xuất khẩu hàng nông sản đối với Việt Nam và ý nghĩa của việc hoàn thiện quy định pháp luật Việt Nam về vệ sinh dịch tễ đối với hàng nông sản xuất khẩu2.3.1. Vai trò của hoạt động xuất khẩu hàng nông sản đối với Việt NamLý thuyết tự do kinh tế cổ điển của Adam Smith đã chỉ ra rằng, tự do thương mại và hoạt động ngoại thương sẽ giúp cho một quốc gia trở nên thịnh vượng và có thể tích lũy nhiều tư bản. Hiện nay, Lý thuyết kinh tế mới về tự do kinh tế, mà điển hình là Lý thuyết về lợi thế cạnh của Michael Porter đã chứng minh được rằng thông qua hoạt động xuất khẩu, chất lượng của hàng hoá trong nước sẽ được nâng cao, sức cạnh tranh và sự phát triển của ngành sản xuất trong nước cũng được cải thiện, không chỉ ngành hàng xuất khẩu có sự phát triển mà các ngành sản xuất phụ trợ khác cũng có sự phát triển và kéo theo sự thay đổi về chính sách để đầu tư thúc đẩy hoạt động sản xuất trong nước. Thực tiễn thương mại quốc tế cũng đã chứng minh rằng nhiều quốc gia trên thế giới nhờ đẩy mạnh hoạt động ngoại thương mà thoát khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu. Do sự khác biệt về điều kiện tự nhiên, vốn, công nghệ, lao động cũng như chính sách phát triển của mỗi nước mà vai trò của ngành nông nghiệp có sự thay đổi tương ứng trong tổng kim ngạch xuất khẩu của một quốc gia.Ở Việt Nam, đẩy mạnh xuất khẩu nông sản đang là một trong những chính sách quan trọng trong quá trình tái cơ cấu nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững, hoạt động xuất khẩu nông sản có vai trò cụ thể đối với Việt Nam như sau:Một là, xuất khẩu và xuất khẩu nông sản góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế và thúc đẩy sản xuất phát triển theo hướng sử dụng có hiệu quả nhất nguồn lực và lợi thế của quốc gia.Thông qua hoạt động xuất khẩu (nông sản) sẽ cho phép mở rộng quy mô sản xuất, tạo phản ứng dây chuyền thúc đẩy các ngành kinh tế khác phát triển theo, kết quả là làm tăng tổng sản phẩm xã hội và nền kinh tế phát triển nhanh. Ví dụ, xuất khẩu gạo sẽ kéo theo sự phát triển các ngành sản xuất và dịch vụ khác như sản xuất bao bì, chăn nuôi, trồng trọt, vận chuyển… Bên cạnh đó, thông qua hoạt động xuất khẩu sẽ giúp các doanh nghiệp có thể tiếp cận với các thành tựu khoa học, kỹ thuật tiên tiến trên thế giới để cải tiến quy trình sản xuất trong nước, tăng năng xuất và chất lượng hàng hoá.Hai là, hàng nông sản xuất khẩu mang lại giá trị kinh tế cao, giúp nâng cao thu nhập cho người lao động và doanh nghiệp trong cả chuỗi sản xuất và xuất khẩu.Tính chung năm 2020, tổng số lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc là 53,4 triệu người, trong đó, lao động đang làm việc trong khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản là 17,5 triệu người, tỷ lệ thiếu việc làm ở nông thôn hiện nay là khoảng 252. Hoạt động sản xuất và chế biến nông sản cần sử dụng nhiều lao động, đây là một ưu thế quan trọng hiện nay vì hàng năm Việt Nam phải giải quyết thêm việc làm cho hơn 1,4 triệu người bước vào tuổi lao động. Để nắm vững và làm chủ được công nghệ trong quá trình sản xuất, người lao động buộc phải nâng cao trình độ cả lý thuyết và thực hành. Như vậy, đẩy mạnh xuất khẩu sẽ có tác động đến việc chuyển dịch cơ cấu lao động cả về tính chất ngành nghề và cả về chất lượng lao động. Đồng thời, với việc đẩy mạnh xuất khẩu nông sản sẽ góp phần tăng thu nhập của người lao động, tạo điều kiện để họ nâng cao đời sống vật chất, văn hóa và tinh thần . Kết hợp với thành quả từ Chương trình quốc gia về xây dựng nông thôn mới, khi người lao động có việc làm, thu nhập ổn định thì họ sẽ có xu hướng làm việc ngay tại quê hương, vừa giải quyết được tình trạng thiếu lao động nông nghiệp đang có xu hướng gia tăng hiện nay, vừa giảm tải được tình trạng di cư của lao động nông thôn vào các đô thị lớn để tìm việc làm.Ba là, xuất khẩu nông sản góp phần giữ ổn định nền kinh tế của đất nước.Nông nghiệp đã có những đóng góp quan trọng cho nền kinh tế trong nhiều giai đoạn phát triển của Việt Nam. Chẳng hạn như năm 1989, công nghiệp tăng trưởng âm nhưng sản xuất và xuất khẩu nông nghiệp phát triển mạnh mẽ nên cứu được khủng hoảng; đến năm 1999 và giai đoạn 2008-2011 một lần nữa, công nghiệp - dịch vụ đều chững lại, chỉ có nông nghiệp tăng trưởng tốt nên đã làm trụ đỡ cho nền kinh tế trong những giai đoạn khó khăn nhất. Trong thời gian gần đây, với sự bùng phát của dịch bệnh Covid-19, tuy bị ảnh hưởng lớn nhưng hoạt động sản xuất nông nghiệp vẫn được giữ vững và duy trì xuất khẩu tốt.Bốn là, xuất khẩu nông sản góp phần mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại, tăng cường vị thế kinh tế của quốc gia trên thị trường thế giới. Xuất khẩu và các quan hệ kinh tế đối ngoại có tác động qua lại phụ thuộc vào nhau, xuất khẩu cũng đồng thời là một hoạt động kinh tế đối ngoại. Hoạt động xuất khẩu nói chung và xuất khẩu hàng nông sản nói riêng có vai trò thúc đẩy các hoạt động kinh tế đối ngoại khác. Bởi vì khi xuất khẩu hàng hóa phát triển sẽ kéo theo sự phát triển của các hoạt động dịch vụ quốc tế trong các lĩnh vực khác như: đầu tư tài chính - tín dụng, bảo hiểm, thanh toán quốc tế, phát triển vận tải quốc tế... Ngược lại, các hoạt động kinh tế đối ngoại phát triển sẽ tạo điều kiện thuận lợi để mở rộng xuất khẩu. Ví dụ, hoạt động đầu tư quốc tế sẽ mang đến nguồn vốn và công nghệ tiên tiến để mở rộng sản xuất hàng nông sản xuất khẩu như việc đầu tư xây dựng các nhà máy chế biến nông sản, chuyển giao giống và kỹ thuật canh tác cây trồng có năng suất và chất lượng cao, tạo nguồn nguyên liệu đầu vào cho sản xuất. Việc ký kết các hiệp định thương mại song phương, đa phương và gia nhập các tổ chức kinh tế quốc tế sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các mặt hàng nông sản xuất khẩu thâm nhập và mở rộng thị trường. Khi Việt Nam có thể xuất khẩu những mặt hàng nông sản có chất lượng cao, không chỉ mang lại giá trị kinh tế lớn cho doanh nghiệp, mà còn tạo dựng được uy tín và vị thế của quốc gia khi tham gia đàm phán các hiệp định thương mại quốc tế. Bên cạnh đó, hoạt động xuất nhập khẩu cũng là thước đo đánh giá kết quả của quá trình hội nhập quốc tế của một quốc gia. Để giữ được vị thế trên trường quốc tế, yêu cầu khách quan đặt ra là mỗi quốc gia phải lựa chọn cho mình một số hàng hóa có lợi thế cạnh tranh với các quốc gia khác để đầu tư sản xuất và cung cấp cho thị trường toàn cầu, đồng thời nhập khẩu trở lại các sản phẩm mà mình sản xuất không có hiệu quả bằng các quốc gia khác, từ đó hình thành sự phân công lao động quốc tế và sự gắn kết giữa các quốc gia trên thế giới.Theo: Trần Vang PhủLink luận án: Tại đây
Nguyễn Mai Phương
484 ngày trước
Theo dõi
2.2. Vai trò của việc áp dụng các quy định về mức dư lượng tối đa thuốc bảo vệ thực vật và kiểm tra an toàn thực phẩm, kiểm dịch thực vật đối với hàng nông sản xuất khẩu2.2.1. Vai trò của quy định về mức dư lượng tối đa thuốc bảo vệ thực vậtKhông thể phủ nhận những hiệu quả tích cực của việc sử dụng thuốc BVTV trong sản xuất và chế biến hàng hoá nói chung, hàng nông sản nói riêng như có thể phòng trừ sâu bệnh, tăng năng suất, kéo dài thời gian bảo quản… Tuy nhiên, việc sử dụng thuốc BVTV không đúng cách sẽ gây ra những hậu quả nghiêm trọng cho con người, động thực vật và môi trường, cần tốn nhiều thời gian và chi phí để khắc phục hậu quả. Chính vì vậy, các quy định về đăng ký sử dụng thuốc bảo vệ thực vật và thiết lập MRL thuốc BVTV có những vai trò quan trọng sau:Một là, bảo vệ sức khoẻ của con người. Do tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu, diện tích đất nông nghiệp và điều kiện sản xuất nông nghiệp ngày càng gặp khó khăn, nhưng nhu cầu về lương thực, thực phẩm lại có xu hướng gia tăng theo sự gia tăng dân số và nhu cầu của con người. Để đáp ứng nhu cầu này, các quốc gia có xu hướng thâm canh tăng vụ để tăng năng suất, hoặc ở một số vùng đồng bằng đã xây dựng các tuyến “đê bao khép kín” để ngăn lũ và đồng thời có thể tăng vụ sản xuất. Việc làm này đã dẫn đến hệ quả là đất bị suy thoái, môi trường bị khai thác quá mức, dịch bệnh xuất hiện nhiều và khó kiểm soát. Để khắc phục hiện trạng bạc màu đất và chống lại dịch bệnh, nhiều nơi đã xem thuốc BVTV là cách giải quyết tối ưu nhất để tăng độ màu mỡ của đất, để chống lại sinh vật gây hại, tăng năng suất cây trồng, vật nuôi… Sự lạm dụng thuốc BVTV đã gây nguy hiểm nghiêm trọng cho sức khoẻ của con người, động thực vật và môi trường. Chính vì vậy, việc kiểm soát loại thuốc BVTV nào được sử dụng, cách sử dụng và MRL sẽ giúp bảo vệ tốt hơn sức khoẻ cho con người, bao gồm người sử dụng trực tiếp thuốc, người sử dụng hàng hoá sau cùng có chứa dư lượng của thuốc BVTV và cho những người xung quanh (người không trực tiếp sử dụng thuốc BTVT hoặc người không trực tiếp sử dụng hàng hoá, vì có thể hạn chế được sự lây truyền của các chất độc hại do tiếp xúc gián tiếp). Đồng thời, kiểm soát thuốc BVTV và MRL còn giúp hạn chế được tình trạng “quen thuốc”, “quen kháng sinh” trong điều trị bệnh và còn có ý nghĩa to lớn đối với việc bảo vệ sức khoẻ và sự phát triển khoẻ mạnh của các thế hệ về sau.Hai là, giúp khai thác tối đa ưu điểm của thuốc BVTV để phục vụ cho con người, bảo vệ động thực vật và môi trường tự nhiên. Theo đó, việc sử dụng thuốc BVTV đúng theo hướng dẫn sẽ hỗ trợ hiệu quả cho hoạt động sản xuất, giúp phòng trừ sâu bệnh gây hại, tăng sản lượng và tạo ra được sản phẩm chất lượng, qua đó tăng giá trị hàng hoá. Đồng thời, sử dụng thuốc BVTV đúng liều lượng còn giúp bảo vệ các giống cây trồng, vật nuôi có ích, bảo vệ được sự cân bằng của hệ sinh thái, từ đó có thể khai thác các nguồn tài nguyên một cách bền vững.2.2.2. Vai trò của quy định về kiểm tra an toàn thực phẩm và kiểm dịch thực vật đối với hàng nông sản xuất khẩuCác quy định pháp luật về kiểm tra an toàn đối với thực phẩm xuất khẩu có nguồn gốc thực vật và kiểm dịch thực vật đối với hàng hoá nói chung, hàng nông sản xuất khẩu nói riêng có những vai trò sau:Một là, trên nền tảng của lý thuyết về bảo vệ người tiêu dùng, các biện pháp kiểm tra an toàn thực phẩm và kiểm dịch thực vật được thực hiện để bảo vệ sức khoẻ của con người. Kiểm tra an toàn thực phẩm và kiểm dịch thực vật nhằm bảo vệ sức khỏe cộng đồng bằng cách giảm nguy cơ lây truyền dịch bệnh do thực phẩm; bảo vệ người tiêu dùng khỏi thực phẩm không hợp vệ sinh, không sạch, dán nhãn sai hoặc pha trộn; và đóng góp vào sự phát triển kinh tế bằng cách duy trì niềm tin của người tiêu dùng vào hệ thống thực phẩm và cung cấp nền tảng pháp lý hợp lý cho thương mại thực phẩm trong nước và quốc tế.Hai là, ở góc độ quản lý nhà nước. Kiểm tra an toàn thực phẩm và kiểm dịch thực vật được xem là giai đoạn hậu kiểm để kiểm tra lại việc tuân thủ các quy định pháp luật và khuyến cáo khoa học trong khi sử dụng thuốc BVTV nhằm qua đó đánh giá lại sự phù hợp và hiệu quả thực thi của quy định pháp luật về quản lý và sử dụng thuốc BVTV, đồng thời bảo đảm hiệu quả, an toàn cho người trực tiếp sử dụng thuốc, an toàn đối với thực phẩm, hạn chế tối đa ô nhiễm môi trường, bảo vệ hệ sinh thái, phục vụ cho chiến lược phát triển bền vững và mục tiêu bảo vệ môi trường. Bên cạnh đó, việc thực thi quy định về kiểm dịch thực vật còn thể hiện trách nhiệm của quốc gia xuất khẩu đối với sự an toàn về sức khoẻ của con người, động thực vật, môi trường và sự an ninh lương thực của các quốc gia khác trên thế giới.Ba là, ý nghĩa về mặt kinh tế. Nếu việc kiểm tra an toàn thực phẩm và kiểm dịch thực vật không được thực hiện một cách chặt chẽ sẽ gây ra những thiệt hại nghiêm trọng về kinh tế. Theo đó, nếu một lô hàng hoá được kiểm tra và phát hiện sớm các mối nguy về hoá học, vật lý và sinh học thì có thể kịp thời áp dụng các biện pháp xử lý phù hợp nhằm giữ lại được lô hàng tránh bị hư hỏng trong quá trình bảo quản, vận chuyển hoặc sử dụng về sau. Trường hợp doanh nghiệp xuất khẩu và cả cơ quan chức năng của quốc gia xuất khẩu đều xem nhẹ vấn đề kiểm tra an toàn thực phẩm và kiểm dịch thực vật sẽ dẫn đến khả năng lô hàng bị nước nhập khẩu từ chối nhập khẩu hoặc thậm chí là tiêu huỷ, điều này gây thiệt hại to lớn về mặt kinh tế cho doanh nghiệp xuất khẩu và đồng thời cũng gây ảnh hưởng xấu hoạt động xuất khẩu hàng hoá của các doanh nghiệp khác. Do đó, kiểm tra an toàn thực phẩm và kiểm dịch thực vật mang ý nghĩa bảo vệ lợi ích kinh tế và uy tín không chỉ cho riêng doanh nghiệp xuất khẩu mà còn cho cả quốc gia xuất khẩu. Bên cạnh đó, kiểm tra an toàn thực phẩm và kiểm dịch thực vật còn giúp bảo vệ cả lợi ích kinh tế cho quốc gia nhập khẩu, bởi vì nếu hai hoạt động kiểm tra này không được thực hiện nghiêm túc thì có thể dẫn đến tình trạng lây lan dịch bệnh sang quốc gia nhập khẩu, gây thiệt hại nghiêm trọng về kinh tế như công dân của quốc gia nhập khẩu bị nhiễm bệnh, phải đình trệ hoạt động sản xuất – kinh doanh, hoa màu bị sâu bệnh, vật nuôi bị nhiễm bệnh, tốn nhiều thời gian và chi phí để khắc phục hậu quả...Theo: Trần Vang PhủLink luận án: Tại đây
Nguyễn Mai Phương
484 ngày trước
Theo dõi
2.1.1. Khái niệm kiểm tra an toàn thực phẩmTheo định nghĩa của Codex thì Thực phẩm là “tất cả các chất đã chế biến, sơ chế hoặc chưa chế biến nhằm sử dụng cho con người bao gồm đồ ăn, uống, nhai, ngậm và tất cả các chất được sử dụng để xử lý, chế biến hoặc xử lý thực phẩm, không bao gồm mỹ phẩm hoặc thuốc lá hoặc các chất chỉ được dùng làm dược phẩm”. Thuật ngữ “An toàn thực phẩm – Food Safety” được FAO và WHO sử dụng để “đề cập đến tất cả các mối nguy, dù là mãn tính hay cấp tính, có thể làm cho thực phẩm gây hại cho sức khỏe của người tiêu dùng”90. Bên cạnh đó, theo giải thích của Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ thì “An toàn thực phẩm” là thuật ngữ được sử dụng để đề cập đến các điều kiện và hoạt động bảo quản chất lượng của thực phẩm nhằm ngăn ngừa ô nhiễm và các bệnh lây truyền qua thực phẩm.Theo quy định của Việt Nam tại khoản 20 Điều 2 Luật An toàn thực phẩm năm 2010 (được sửa đổi, bổ sung năm 2018) thì Thực phẩm được hiểu là sản phẩm mà con người ăn, uống ở dạng tươi sống hoặc đã qua sơ chế, chế biến, bảo quản. Thực phẩm không bao gồm mỹ phẩm, thuốc lá và các chất sử dụng như dược phẩm; và An toàn thực phẩm là việc bảo đảm để thực phẩm không gây hại đến sức khỏe, tính mạng con người.Như vậy có thể hiểu kiểm tra an toàn thực phẩm là việc cơ quan chức năng thực hiện việc kiểm tra (hậu kiểm) xem thực phẩm nói chung, hàng nông sản xuất khẩu nói riêng về việc tuân thủ các quy chuẩn, tiêu chuẩn về an toàn thực phẩm và khả năng xảy ra các tác nhân gây ô nhiễm xâm nhập vào thực phẩm trong quá trình sản xuất, kinh doanh. Đồng thời, còn để kiểm tra việc tuân thủ quy định pháp luật về việc sử dụng phụ gia thực phẩm, chất hỗ trợ chế biến thực phẩm có thuộc trường hợp cấm như: sử dụng chất phụ gia đã quá thời hạn sử dụng; ngoài danh mục được phép sử dụng hoặc trong danh mục được phép sử dụng nhưng vượt quá giới hạn cho phép; sử dụng hóa chất không rõ nguồn gốc, hóa chất bị cấm sử dụng trong hoạt động sản xuất, kinh doanh thực phẩm. Kiểm tra an toàn thực phẩm đối với thực phẩm xuất khẩu có nguồn gốc thực vật (nông sản) là để nhằm bảo đảm nông sản đã được sản xuất, sơ chế, chế biến tuân thủ đúng quy định pháp luật để bảo đảm sự an toàn của nông sản cho người tiêu dùng và phù hợp với yêu cầu của hợp đồng xuất khẩu, quy định của quốc gia nhập khẩu.2.1.2. Khái niệm kiểm dịch thực vậtThuật ngữ “Kiểm dịch” có nguồn gốc từ tiếng Latin: “Quaranta giorni” với nghĩa gốc là khoảng thời gian 40 ngày. Nguyên nhân là vào năm 1403, để ngăn chặn bệnh dịch hạch lan rộng ở Châu Âu, Cộng hòa Venice đã đưa ra quy định những người đến từ Levant và Ai Cập sẽ bị cách ly 40 ngày trong một bệnh viện để theo dõi phát hiện bệnh. Thuật ngữ Kiểm dịch thực vật được FAO giải thích là “Tất cả các hoạt động được thiết kế để ngăn chặn sự du nhập hoặc lây lan của dịch hại kiểm dịch hoặc để đảm bảo sự kiểm soát chính thức của chúng”.Theo quy định của Việt Nam tại khoản 3 Điều 3 Luật Bảo vệ và kiểm dịch thực vật năm 2013 (được sửa đổi, bổ sung năm 2018) thì Kiểm dịch thực vật là hoạt động ngăn chặn, phát hiện, kiểm soát đối tượng kiểm dịch thực vật, đối tượng phải kiểm soát và sinh vật gây hại lạ. Đối tượng kiểm dịch thực vật là sinh vật gây hại có nguy cơ gây thiệt hại nghiêm trọng đối với thực vật, chưa có hoặc có nhưng phân bố hẹp ở Việt Nam và phải được kiểm soát nghiêm ngặt. Kiểm dịch thực vật được thực hiện đối với vật thể thuộc diện kiểm dịch thực vật nhập khẩu, xuất khẩu, quá cảnh và kiểm dịch thực vật nội địa theo quy định tại Luật Bảo vệ và kiểm dịch thực vật, trừ trường hợp được miễn trừ kiểm dịch thực vật theo quy định của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Căn cứ vào tình hình cụ thể Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn sẽ ban hành các danh mục sau:i) Danh mục vật thể thuộc diện kiểm dịch thực vật;ii) Danh mục vật thể thuộc diện kiểm dịch thực vật phải phân tích nguy cơ dịch hại trước khi nhập khẩu vào Việt Nam;iii) Danh mục đối tượng kiểm dịch thực vật;iv) Danh mục đối tượng phải kiểm soát.Các biện pháp kiểm dịch thực vật hiện được các quốc gia trên thế giới áp dụng có thể được chia thành năm loại sau:Một là, các biện pháp ngăn chặn sự du nhập của các loài gây hại và cỏ dại từ nước ngoài (kiểm dịch quốc tế - International quarantine).Hai là, các biện pháp để ngăn chặn sự lây lan của sâu, bệnh và cỏ dại từ một khu vực này sang khu vực khác của một quốc gia (kiểm dịch trong nước - Domestic quarantine).Ba là, các biện pháp bắt buộc nông dân phải áp dụng để kiểm soát hữu hiệu và ngăn ngừa thiệt hại do dịch bệnh gây ra (Farmer's quarantine).Bốn là, các biện pháp để ngăn chặn sự pha trộn và ghi nhãn sai của thuốc BVTV và xác định mức dư lượng tối đa cho phép của từng loại thuốc BVTV trong thực phẩm (Food quarantine).Năm là, các biện pháp nhằm điều chỉnh hoạt động của những người tham gia hoạt động kiểm soát sinh vật gây hại và sử dụng thuốc BVTV nguy hiểm (Quarantine for pest control operations).Như vậy, thuật ngữ Kiểm dịch thực vật được hiểu theo nghĩa chung nhất là các biện pháp do cơ quan nhà nước ban hành được áp dụng để ngăn chặn việc xâm nhập hoặc lan rộng của sâu bệnh, cỏ dại và mầm bệnh có hại cho nông nghiệp hoặc môi trường từ việc đưa cây trồng, vật liệu trồng trọt, sản phẩm thực vật, đất, sinh vật sống... từ quốc gia hoặc khu vực này sang quốc gia hoặc khu vực khác. Kiểm dịch thực vật đối với hàng nông sản xuất khẩu có thể hiểu là các biện pháp được sử dụng để kiểm soát và ngăn chặn sự lây lan của sâu bệnh trên nông sản trong quá trình vận chuyển và phân phối ra thị trường nước ngoài. Biện pháp kiểm dịch thực vật là một trong những biện pháp về vệ sinh dịch tễ được quy định tại Hiệp định SPS để hạn chế đến mức thấp nhất sự lây lan sâu bệnh trên diện rộng nhằm bảo vệ sức khoẻ của người tiêu dùng, động thực vật và môi trường ở quốc gia nhập khẩu. Biện pháp kiểm dịch thực vật thông thường sẽ được thực hiện ở quốc gia xuất khẩu, nhưng trong một số trường hợp có thể được thực hiện ở cả quốc gia xuất khẩu và nhập khẩu.Theo: Trần Vang PhủLink luận án: Tại đây
Xem thêm