Khái quát về hậu quả pháp lý do vi phạm nghĩa vụ tiền hợp đồng
1.3. Khái quát về hậu quả pháp lý do vi phạm nghĩa vụ tiền hợp đồng
1.3.1. Khái niệm hậu quả pháp lý do vi phạm nghĩa vụ tiền hợp đồng
Nghĩa vụ tiền hợp đồng đặt ra các yêu cầu bắt buộc đối với các chủ thể có ý định giao kết hợp đồng. Họ phải tiến hành những xử sự nhất định hoặc không được tiến hành một số xử sự nhất định; trường hợp các chủ thể làm trái với những yêu cầu của nghĩa vụ tiền hợp đồng tất yếu dẫn đến hậu quả pháp lý nhất định. Điều 2.301, Bộ nguyên tắc PECL ghi nhận: Một bên được tự do đàm phán và không phải chịu trách nhiệm nếu không đạt được thoả thuận. Tuy nhiên, nếu họ đã đàm phán hoặc phá vỡ đàm phán một cách không thiện chí và không công bằng thì phải chịu trách nhiệm với những tổn thất đã gây ra cho bên kia. Không thiện chí và không công bằng có nghĩa là một bên bước vào đàm phán nhưng không có ý định đàm phán thực sự để đi tới thoả thuận cuối cùng với bên kia. Keit Hain, Lorman Frank cũng có quan điểm tương tự: “Tại thời điểm các bên bắt đầu tiến hành đàm phán, mỗi bên đều đáp ứng được yêu cầu về sự trung thực và công bằng trong việc xây dựng mối quan hệ với bên còn lại”.50 Như vậy, khi một người vi phạm nghĩa vụ tiền hợp đồng gây tổn hại cho các bên còn lại thì chính người đó phải gánh chịu bất lợi do hành vi của mình gây ra. Đây được hiểu là hậu quả pháp lý do vi phạm nghĩa vụ tiền hợp đồng của các chủ thể. Trong Bộ nguyên tắc của Unidroit nêu: “Việc thực hiện không đúng nghĩa vụ bảo mật trước tiên sẽ dẫn đến trách nhiệm bồi thường thiệt hại”; hay “Một bên có thể tuyên bố hợp đồng vô hiệu do lừa dối, ép buộc khi cam kết của họ được thiết lập, tuy nhiên, sự đe doạ này phải là cấp thiết, nghiêm trọng và không chính đáng”. Hầu hết các công trình nghiên cứu về nghĩa vụ tiền hợp đồng đều thống nhất quan điểm về sự bất lợi của các chủ thể nếu vi phạm nghĩa vụ tiền hợp đồng. Từ điển Tiếng việt cho thấy, hậu quả là “kết quả không hay về sau”51. Hậu quả pháp lý của vi phạm nghĩa vụ tiền hợp đồng được xem xét dựa trên mối quan hệ nhân quả, biện chứng giữa hành vi vi phạm nghĩa vụ tiền hợp đồng và sự gánh chịu trách nhiệm bất lợi; trong đó hành vi vi phạm nghĩa vụ tiền hợp đồng xuất hiện trước về mặt thời gian và tất yếu dẫn đến kết quả là các chủ thể phải gánh chịu sự bất lợi tương ứng.
Như vậy, hậu quả pháp lý do vi phạm nghĩa vụ tiền hợp đồng là sự gánh chịu những bất lợi đối với chủ thể tham gia giai đoạn tiền hợp đồng do không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ yêu cầu của nghĩa vụ tiền hợp đồng.
Ví dụ, trong công văn số 61/HHBH/2021 ngày 29/4/2021, Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam (IAV) với vai trò bảo vệ quyền lợi hợp pháp của hội viên đã tố giác khách hàng tên N.V.K (Hải Phòng) lên cơ quan an ninh điều tra – Bộ Công an. Tại công văn này, IAV cho biết, có những bằng chứng cho thấy ông K đã biết mình bị ung thư tuyến giáp (vì trước đó khách hàng này lấy tên khác đến khám tại Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 và nhận được kết quả chuẩn đoán là bị ung thư tuyến giáp). Sau đó, từ tháng 10/2019 đến tháng 2/2020, ông K mua 19 hợp đồng bảo hiểm sức khoẻ mức cao nhất (mỗi năm đóng trên 200 triệu đồng tiền phí bảo hiểm) tại 13 công ty bảo hiểm nhân thọ và phi nhân thọ mà không khai báo việc mình đã có bệnh nhằm mục đích yêu cầu chi trả quyền lợi bảo hiểm khi đã hợp pháp hoá hồ sơ bệnh án bằng cách đi khám và điều trị tại bệnh viện K Hà Nội.
Sau khi mua bảo hiểm được hơn ba tháng, ông K đã được Prudential, MB Ageas, Bảo hiểm Bảo Việt và VBI chi trả tiền bảo hiểm số tiền gần 4 tỷ đồng. Theo IAV, nếu không kịp thời điều tra làm rõ hành vi gian dối, trục lợi bảo hiểm của khách hàng này để ngăn chặn thì tới đây, các công ty bảo hiểm còn lại sẽ phải tiếp tục chi trả số tiền bảo hiểm ước tính lên tới 20 tỷ đồng và điều này gây thiệt hại lớn cho các công ty bảo hiểm.
Theo Quyết định số 3879/QĐ-BYT ngày 30/9/2014 của Bộ trưởng Bộ Y tế, để xác định một bệnh nhân chắc chắn bị ung thư thì phải căn cứ vào “xét nghiệm giải phẫu bệnh”, phải được một hội đồng chẩn đoán bệnh của bệnh viện kết luận, chứ không chỉ đơn thuần là kết luận của một vài bác sĩ hay các chỉ số xét nghiệm đặc thù, kể cả làm thủ thuật xét nghiệm tế bào. Bản thân khách hàng chưa từng làm “giải phẫu bệnh” cho đến cuối tháng 3/2020, nên dù là có đi khám trước đó thì cũng chỉ là người “có nghi vấn bệnh ung thư”. Các thông tin mà khách hàng nhận từ bác sĩ hay bệnh viện cũng chỉ là dạng thông tin “chắc chắn đã biết bệnh ung thư” như cáo buộc của IAV, một vị đại diện của ông K cho hay.
Về trường hợp này, có quan điểm cho rằng, việc ông K nói rằng do lỗi đánh máy của nhân viên y tế bệnh viện 108 đã chứng minh ông K có đến bệnh viện 108 để khám bệnh (căn cứ thêm giấy tờ tuỳ thân khi đi khám bệnh). Thêm nữa, theo chẩn đoán của bệnh viện 108 “Hình ảnh tế bào học nghi ngờ carcinoma tuyến giáp thể nhú, đề nghị phẫu thuật làm xét nghiệm sinh thiết tức thì”. Đây là nội dung rất quan trọng của vụ việc. Theo ý kiến luật sư bảo vệ quyền lợi cho ông K cho rằng với kết luận như trên của bệnh viện 108, chưa đủ căn cứ để xác định ông K đã bị K tuyến giáp (vị luật sư còn viện dẫn Quyết định 3879 của Bộ Y tế). Những lập luận của vị đại diện của ông K chứng minh: ông K có đi khám tuyến giáp tại bệnh viện 108. Nếu thực sự ông K đã đi khám tại bệnh viện 108 và có kết luận nghi ngờ bị K tuyến giáp thì hành vi không khai báo trung thực của ông K là vi phạm nghĩa vụ tiền hợp đồng (khách hàng phải có nghĩa vụ cung cấp thông tin về sức khoẻ trước khi giao kết hợp đồng cho doanh nghiệp bảo hiểm). Với hành vi vi phạm nghĩa vụ tiền hợp đồng của ông K, ông phải chịu hậu quả pháp lý là bị đơn phương chấm dứt hợp đồng và không được chi trả tiền bảo hiểm khi rủi ro xảy ra.
Với cách hiểu trên thì hậu quả pháp lý do vi phạm nghĩa vụ tiền hợp đồng có các đặc điểm sau:
Thứ nhất, đây là hậu quả pháp lý có thể xảy ra trong đàm phán hoặc thực hiện hợp đồng. Nếu hậu quả pháp lý do vi phạm nghĩa vụ trong hợp đồng chỉ phát sinh trong giai đoạn thực hiện hợp đồng (hoặc trong các trường hợp đặc biệt do pháp luật quy định) thì hậu quả pháp lý do vi phạm nghĩa vụ tiền hợp đồng phát sinh ở ngay giai đoạn đàm phán hợp đồng (vi phạm nghĩa vụ cung cấp thông tin hoặc vi phạm nghĩa vụ bảo mật thông tin…) hoặc quá trình thực hiện hợp đồng. Pháp luật quy định một khoảng rộng phải chịu trách nhiệm pháp lý khi vi phạm nghĩa vụ tiền hợp đồng đối với các chủ thể cho thấy các nghĩa vụ tiền hợp đồng không chỉ quan trọng ở giai đoạn tiền hợp đồng mà còn rất nhiều giá trị ở các giai đoạn khác của hợp đồng. Hơn nữa, điều đó cũng khẳng định mối quan hệ chặt chẽ giữa giai đoạn tiền hợp đồng và giai đoạn thực hiện hợp đồng.
Ở ví dụ trên (ông K đã giao kết 19 hợp đồng bảo hiểm khi có kết quả nghi ngờ bị ung thư tuyến giáp), theo xu hướng giải quyết của vụ việc, ông K phải gánh chịu sự bất lợi do vi phạm nghĩa vụ cung cấp thông tin tiền hợp đồng trong giai đoạn thực hiện 19 hợp đồng bảo hiểm. Trường hợp này hoàn toàn phù hợp với quy định của pháp luật cũng như quan điểm của các chuyên gia, cụ thể trong bài viết: “Nghĩa vụ thông tin trong pháp luật hợp đồng Việt Nam”, tác giả Đỗ Văn Đại đưa ra nhận xét: việc không tuân thủ nghĩa vụ thông tin có thể dẫn đến trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Ông cũng đồng tình với Toà án khi cho rằng: hành vi không cung cấp thông tin quan trọng mà mình biết được làm một hành vi lừa dối. Điều này đồng nghĩa với việc tác giả thừa nhận hậu quả pháp lý là hợp đồng vô hiệu (do bị lừa dối).
Thứ hai, cơ sở để phát sinh hậu quả pháp lý là có sự vi phạm nghĩa vụ tiền hợp đồng. Việc xác định có hay không vi phạm nghĩa vụ tiền hợp đồng là đặc biệt quan trọng tức phải xem xét kĩ có hành vi trái pháp luật tiền hợp đồng do chủ thể có năng lực trách nhiệm dân sự thực hiện với lỗi cố ý hoặc vô ý hay không. Trở lại với ví dụ trên, ông K đã có hành vi không cung cấp thông tin trung thực về tình hình sức khoẻ của mình với lỗi cố ý. Về tình huống này, tác giả Phạm Duy Nghĩa từng đề cập: “Trong nhiều trường hợp bên có thông tin buộc phải tiết lộ thông tin; vi phạm nghĩa vụ đó hợp đồng có thể bị toà án tuyên vô hiệu, có lợi cho bên không có thông tin”.53 Trong một số trường hợp, việc xác định hành vi trái pháp luật tiền hợp đồng hay pháp luật hợp đồng sẽ gặp khó khăn do ở cả hai giai đoạn đều tồn tại nghĩa vụ cung cấp thông tin. Do vậy, để buộc chủ thể phải gánh chịu sự bất lợi do vi phạm nghĩa vụ tiền hợp đồng phải tìm thấy hành vi trái pháp luật tiền hợp đồng.
1.3.2. Các loại hậu quả pháp lý do vi phạm nghĩa vụ tiền hợp đồng
Căn cứ vào hành vi trái pháp luật tiền hợp đồng, có thể thấy hậu quả pháp lý do vi phạm nghĩa vụ tiền hợp đồng bao gồm:
* Hợp đồng vô hiệu
Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ. Khi xác lập một hợp đồng thì các bên luôn mong muốn hợp đồng đó được thực hiện trên thực tế. Tuy nhiên vì nhiều lý do chủ quan hoặc khách quan mà hợp đồng có thể bị vô hiệu. Hậu quả pháp lý này cũng được ghi nhận trong quá trình hình thành hợp đồng từ Điều 4:102 đến Điều 4:110 của Bộ Nguyên tắc PECL, từ Điều 3.3 đến 3.10 của Bộ Nguyên tắc UNIDROIT, từ Điều 140 đến Điều 146 Dự luật PAVIE. Các văn bản này cho thấy vô hiệu là chế tài được áp dụng khi một bên vi phạm đáng kể nghĩa vụ trong quan hệ hợp đồng54. Điều này cũng được ghi nhận tại Điều 1455 BLDS Ý theo hướng hợp đồng chỉ có thể bị hủy bỏ khi việc không thực hiện nghĩa vụ gây ảnh hưởng nghiêm trọng với bên có quyền. Tại Điều 6:82-83 và 6:265 BLDS Hà Lan cũng quy định theo hướng không thực hiện ngay cả khi khả năng không thể này phát sinh vào lúc hình thành hợp đồng.
Theo: Đỗ Thị Hoa
Link luận án: Tại đây