0888889366
Tra cứu thông tin hợp đồng
timeline_post_file64d0f3d3c0bdf-Chi-nhánh-có-được-phép-ký-kết-hợp-đồng-thương-mại-với-đối-tác-không--27-.png

Chồng có được giảm trừ gia cảnh khi tính thuế thu nhập cá nhân vì vợ không có thu nhập không?

Tôi muốn được giải đáp một số điểm không rõ về việc giảm trừ gia cảnh. Để nói cụ thể, khoảng một năm về trước, vợ tôi đã sinh em bé. Sau kỳ nghỉ thai sản, bà xã tôi đã chọn việc ở nhà để chăm sóc con, và hiện tại bà không có nguồn thu nhập nào khác. Vì vậy, tôi muốn biết, ngoài việc tôi đã đăng ký con là người phụ thuộc, liệu tôi có thể thêm vợ vào danh sách phụ thuộc để được hưởng lợi từ việc giảm trừ gia cảnh khi đóng thuế thu nhập cá nhân? Đây là thắc mắc từ anh Quang Vinh, người Đồng Nai.

Một cá nhân có thể đăng ký nhiều người phụ thuộc để được giảm trừ gia cảnh khi tính thuế thu nhập cá nhân không?

Theo quy định tại tiết c.2 điểm c khoản 1 Điều 9 Thông tư 111/2013/TT-BTC, được sửa đổi bởi khoản 6 Điều 25 Thông tư 92/2015/TT-BTC về nguyên tắc giảm trừ gia cảnh cho người phụ thuộc như sau:

“Điều 9. Các khoản giảm trừ

...

1. Giảm trừ gia cảnh

...

c) Nguyên tắc tính giảm trừ gia cảnh

...

c.2) Giảm trừ gia cảnh cho người phụ thuộc

c.2.1) Người nộp thuế được tính giảm trừ gia cảnh cho người phụ thuộc nếu người nộp thuế đã đăng ký thuế và được cấp mã số thuế.

c.2.2) Khi người nộp thuế đăng ký giảm trừ gia cảnh cho người phụ thuộc sẽ được cơ quan thuế cấp mã số thuế cho người phụ thuộc và được tạm tính giảm trừ gia cảnh trong năm kể từ khi đăng ký. Đối với người phụ thuộc đã được đăng ký giảm trừ gia cảnh trước ngày Thông tư này có hiệu lực thi hành thì tiếp tục được giảm trừ gia cảnh cho đến khi được cấp mã số thuế.

c.2.3) Trường hợp người nộp thuế chưa tính giảm trừ gia cảnh cho người phụ thuộc trong năm tính thuế thì được tính giảm trừ cho người phụ thuộc kể từ tháng phát sinh nghĩa vụ nuôi dưỡng khi người nộp thuế thực hiện quyết toán thuế và có đăng ký giảm trừ gia cảnh cho người phụ thuộc. Riêng đối với người phụ thuộc khác theo hướng dẫn tại tiết d.4, điểm d, khoản 1, Điều này thời hạn đăng ký giảm trừ gia cảnh chậm nhất là ngày 31 tháng 12 của năm tính thuế, quá thời hạn nêu trên thì không được tính giảm trừ gia cảnh cho năm tính thuế đó.

c.2.4) Mỗi người phụ thuộc chỉ được tính giảm trừ một lần vào một người nộp thuế trong năm tính thuế. Trường hợp nhiều người nộp thuế có chung người phụ thuộc phải nuôi dưỡng thì người nộp thuế tự thỏa thuận để đăng ký giảm trừ gia cảnh vào một người nộp thuế.”

Theo quy định hiện hàng, không có giới hạn về số người phụ thuộc mà một người có thể đăng ký cho việc giảm trừ gia cảnh. Tuy vậy, một người phụ thuộc chỉ được áp dụng giảm trừ một lần cho một người chịu thuế trong kỳ đóng thuế hàng năm.

Như vậy, một cá nhân hoàn toàn có quyền khai báo nhiều người phụ thuộc trong việc xác định mức thuế thu nhập cá nhân của mình.

Mức giảm trừ gia cảnh đối với người phụ thuộc là bao nhiêu?

Căn cứ Điều 1 Nghị quyết 954/2020/UBTVQH14 quy định về mức giảm trừ gia cảnh như sau:

“Mức giảm trừ gia cảnh

Điều chỉnh mức giảm trừ gia cảnh quy định tại khoản 1 Điều 19 của Luật Thuế thu nhập cá nhân số 04/2007/QH12 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 26/2012/QH13 như sau:

1. Mức giảm trừ đối với đối tượng nộp thuế là 11 triệu đồng/tháng (132 triệu đồng/năm);

2. Mức giảm trừ đối với mỗi người phụ thuộc là 4,4 triệu đồng/tháng.”

Theo đó, mức giảm trừ gia cảnh đối với mỗi người phụ thuộc là 4,4 triệu đồng/tháng.

Vợ không có thu nhập thì chồng có được giảm trừ gia cảnh khi tính thuế thu nhập cá nhân hay không?

Căn cứ tiết d.2 điểm d, điểm đ khoản 1 Điều 9 Thông tư 111/2013/TT-BTC, được sửa đổi bởi khoản 6 “Điều 25 Thông tư 92/2015/TT-BTC quy định về người phụ thuộc như sau:

Các khoản giảm trừ

[...]

1. Giảm trừ gia cảnh

[...]

d) Người phụ thuộc bao gồm:

[...]

d.2) Vợ hoặc chồng của người nộp thuế đáp ứng điều kiện tại điểm đ, khoản 1, Điều này.

[...]

đ) Cá nhân được tính là người phụ thuộc theo hướng dẫn tại các tiết d.2, d.3, d.4, điểm d, khoản 1, Điều này phải đáp ứng các điều kiện sau:

đ.1) Đối với người trong độ tuổi lao động phải đáp ứng đồng thời các điều kiện sau:

đ.1.1) Bị khuyết tật, không có khả năng lao động.

đ.1.2) Không có thu nhập hoặc có thu nhập bình quân tháng trong năm từ tất cả các nguồn thu nhập không vượt quá 1.000.000 đồng.

đ.2) Đối với người ngoài độ tuổi lao động phải không có thu nhập hoặc có thu nhập bình quân tháng trong năm từ tất cả các nguồn thu nhập không vượt quá 1.000.000 đồng.

…”

Như vậy, vợ đang trong độ tuổi lao động có thể trở thành người phụ thuộc của chồng khi tính thuế thu nhập cá nhân khi đáp ứng đồng thời những điều kiện sau:

+ Vợ bị khuyết tật, không có khả năng lao động.

+ Vợ không có thu nhập hoặc có thu nhập bình quân tháng trong năm từ tất cả các nguồn thu nhập không vượt quá 1.000.000 đồng.

Tại trường hợp cụ thể của anh, dù vợ anh đang ở trong độ tuổi lao động nhưng hiện không có nguồn thu nhập. Tuy vậy, vợ anh đã quyết định tạm dừng công việc để tập trung chăm sóc con nhỏ, chứ không phải vì lý do sức khỏe hay không còn khả năng làm việc. Do đó, theo quy định, vợ anh không đủ tiêu chuẩn để được xem là người phụ thuộc trong mặt pháp lý.

Như vậy, mặc dù vợ anh không có thu nhập trong giai đoạn này, anh vẫn không thể yêu cầu khai vợ là người phụ thuộc để hưởng ưu đãi giảm trừ gia cảnh trong quá trình tính thuế thu nhập cá nhân.

avatar
Nguyễn Diễm Quỳnh
859 ngày trước
Chồng có được giảm trừ gia cảnh khi tính thuế thu nhập cá nhân vì vợ không có thu nhập không?
Tôi muốn được giải đáp một số điểm không rõ về việc giảm trừ gia cảnh. Để nói cụ thể, khoảng một năm về trước, vợ tôi đã sinh em bé. Sau kỳ nghỉ thai sản, bà xã tôi đã chọn việc ở nhà để chăm sóc con, và hiện tại bà không có nguồn thu nhập nào khác. Vì vậy, tôi muốn biết, ngoài việc tôi đã đăng ký con là người phụ thuộc, liệu tôi có thể thêm vợ vào danh sách phụ thuộc để được hưởng lợi từ việc giảm trừ gia cảnh khi đóng thuế thu nhập cá nhân? Đây là thắc mắc từ anh Quang Vinh, người Đồng Nai.Một cá nhân có thể đăng ký nhiều người phụ thuộc để được giảm trừ gia cảnh khi tính thuế thu nhập cá nhân không?Theo quy định tại tiết c.2 điểm c khoản 1 Điều 9 Thông tư 111/2013/TT-BTC, được sửa đổi bởi khoản 6 Điều 25 Thông tư 92/2015/TT-BTC về nguyên tắc giảm trừ gia cảnh cho người phụ thuộc như sau:“Điều 9. Các khoản giảm trừ...1. Giảm trừ gia cảnh...c) Nguyên tắc tính giảm trừ gia cảnh...c.2) Giảm trừ gia cảnh cho người phụ thuộcc.2.1) Người nộp thuế được tính giảm trừ gia cảnh cho người phụ thuộc nếu người nộp thuế đã đăng ký thuế và được cấp mã số thuế.c.2.2) Khi người nộp thuế đăng ký giảm trừ gia cảnh cho người phụ thuộc sẽ được cơ quan thuế cấp mã số thuế cho người phụ thuộc và được tạm tính giảm trừ gia cảnh trong năm kể từ khi đăng ký. Đối với người phụ thuộc đã được đăng ký giảm trừ gia cảnh trước ngày Thông tư này có hiệu lực thi hành thì tiếp tục được giảm trừ gia cảnh cho đến khi được cấp mã số thuế.c.2.3) Trường hợp người nộp thuế chưa tính giảm trừ gia cảnh cho người phụ thuộc trong năm tính thuế thì được tính giảm trừ cho người phụ thuộc kể từ tháng phát sinh nghĩa vụ nuôi dưỡng khi người nộp thuế thực hiện quyết toán thuế và có đăng ký giảm trừ gia cảnh cho người phụ thuộc. Riêng đối với người phụ thuộc khác theo hướng dẫn tại tiết d.4, điểm d, khoản 1, Điều này thời hạn đăng ký giảm trừ gia cảnh chậm nhất là ngày 31 tháng 12 của năm tính thuế, quá thời hạn nêu trên thì không được tính giảm trừ gia cảnh cho năm tính thuế đó.c.2.4) Mỗi người phụ thuộc chỉ được tính giảm trừ một lần vào một người nộp thuế trong năm tính thuế. Trường hợp nhiều người nộp thuế có chung người phụ thuộc phải nuôi dưỡng thì người nộp thuế tự thỏa thuận để đăng ký giảm trừ gia cảnh vào một người nộp thuế.”Theo quy định hiện hàng, không có giới hạn về số người phụ thuộc mà một người có thể đăng ký cho việc giảm trừ gia cảnh. Tuy vậy, một người phụ thuộc chỉ được áp dụng giảm trừ một lần cho một người chịu thuế trong kỳ đóng thuế hàng năm.Như vậy, một cá nhân hoàn toàn có quyền khai báo nhiều người phụ thuộc trong việc xác định mức thuế thu nhập cá nhân của mình.Mức giảm trừ gia cảnh đối với người phụ thuộc là bao nhiêu?Căn cứ Điều 1 Nghị quyết 954/2020/UBTVQH14 quy định về mức giảm trừ gia cảnh như sau:“Mức giảm trừ gia cảnhĐiều chỉnh mức giảm trừ gia cảnh quy định tại khoản 1 Điều 19 của Luật Thuế thu nhập cá nhân số 04/2007/QH12 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 26/2012/QH13 như sau:1. Mức giảm trừ đối với đối tượng nộp thuế là 11 triệu đồng/tháng (132 triệu đồng/năm);2. Mức giảm trừ đối với mỗi người phụ thuộc là 4,4 triệu đồng/tháng.”Theo đó, mức giảm trừ gia cảnh đối với mỗi người phụ thuộc là 4,4 triệu đồng/tháng.Vợ không có thu nhập thì chồng có được giảm trừ gia cảnh khi tính thuế thu nhập cá nhân hay không?Căn cứ tiết d.2 điểm d, điểm đ khoản 1 Điều 9 Thông tư 111/2013/TT-BTC, được sửa đổi bởi khoản 6 “Điều 25 Thông tư 92/2015/TT-BTC quy định về người phụ thuộc như sau:Các khoản giảm trừ[...]1. Giảm trừ gia cảnh[...]d) Người phụ thuộc bao gồm:[...]d.2) Vợ hoặc chồng của người nộp thuế đáp ứng điều kiện tại điểm đ, khoản 1, Điều này.[...]đ) Cá nhân được tính là người phụ thuộc theo hướng dẫn tại các tiết d.2, d.3, d.4, điểm d, khoản 1, Điều này phải đáp ứng các điều kiện sau:đ.1) Đối với người trong độ tuổi lao động phải đáp ứng đồng thời các điều kiện sau:đ.1.1) Bị khuyết tật, không có khả năng lao động.đ.1.2) Không có thu nhập hoặc có thu nhập bình quân tháng trong năm từ tất cả các nguồn thu nhập không vượt quá 1.000.000 đồng.đ.2) Đối với người ngoài độ tuổi lao động phải không có thu nhập hoặc có thu nhập bình quân tháng trong năm từ tất cả các nguồn thu nhập không vượt quá 1.000.000 đồng.…”Như vậy, vợ đang trong độ tuổi lao động có thể trở thành người phụ thuộc của chồng khi tính thuế thu nhập cá nhân khi đáp ứng đồng thời những điều kiện sau:+ Vợ bị khuyết tật, không có khả năng lao động.+ Vợ không có thu nhập hoặc có thu nhập bình quân tháng trong năm từ tất cả các nguồn thu nhập không vượt quá 1.000.000 đồng.Tại trường hợp cụ thể của anh, dù vợ anh đang ở trong độ tuổi lao động nhưng hiện không có nguồn thu nhập. Tuy vậy, vợ anh đã quyết định tạm dừng công việc để tập trung chăm sóc con nhỏ, chứ không phải vì lý do sức khỏe hay không còn khả năng làm việc. Do đó, theo quy định, vợ anh không đủ tiêu chuẩn để được xem là người phụ thuộc trong mặt pháp lý.Như vậy, mặc dù vợ anh không có thu nhập trong giai đoạn này, anh vẫn không thể yêu cầu khai vợ là người phụ thuộc để hưởng ưu đãi giảm trừ gia cảnh trong quá trình tính thuế thu nhập cá nhân.