0888889366
Tra cứu thông tin hợp đồng
timeline_post_file64e38fd89f75a-Tranh-chấp-xây-dựng-về-khối-lượng-công-việc-phát-sinh.jpg

Tranh chấp xây dựng về khối lượng công việc phát sinh

1.Tranh chấp xây dựng về khối lượng công việc phát sinh

  Bài viết cung cấp một số giải pháp để hạn chế các tranh chấp phát sinh liên quan đến khối lượng công việc phát sinh tại các bước đàm phán, ký kết và thực hiện hợp đồng xây dựng.

TÓM TẮT: Trong quá trình thực hiện hợp đồng xây dựng (HĐXD), bên cạnh khái niệm về khối lượng công việc hoàn thành là khái niệm về công việc phát sinh, đây đều là các công việc được thực hiện bởi nhà thầu theo quy định của hợp đồng và pháp luật. Trong bối cảnh pháp luật xây dựng Việt Nam hiện nay chưa quy định một cách tập trung và cụ thể vấn đề này, hơn nữa rất nhiều văn bản pháp luật hướng dẫn Luật Xây dựng chỉ điều chỉnh các dự án có nguồn vốn nhà nước.

Bài viết nghiên cứu và làm rõ về khái niệm khối lượng công việc phát sinh, nguyên nhân phát sinh tranh chấp về khối lượng công việc phát sinh, cách xác định khối lượng công việc phát sinh trong quy định của pháp luật Việt Nam và một số mẫu hợp đồng điển hình thường được sử dụng trong thực tiễn tại Việt Nam. Và cuối cùng, bằng kinh nghiệm và góc nhìn của tác giả là luật sư, bài viết cung cấp một số giải pháp để hạn chế các tranh chấp phát sinh liên quan đến khối lượng công việc phát sinh tại các bước đàm phán, ký kết và thực hiện HĐXD.

Tranh chấp khối lượng công việc phát sinh là một trong những tranh chấp xây dựng xảy ra thường xuyên trong ngành Xây dựng. Nguyên nhân là do tại thời điểm giao kết HĐXD, các bên không lường trước được hết các công việc phát sinh yêu cầu nhà thầu phải thực hiện để hoàn thành công việc. Trên thực tế, việc xác định khối lượng phát sinh là không dễ dàng vì thông thường các bên sẽ không thống nhất về khối lượng thực tế công việc phát sinh và không thống nhất được đơn giá đối với từng hạng mục công việc nếu HĐXD chưa thỏa thuận đơn giá cho hạng mục công việc mới phát sinh.

Việc xác định khối lượng công việc phát sinh có ý nghĩa quan trọng trong xác định trách nhiệm của các bên trong HĐXD. Tuy nhiên, theo nghiên cứu, rà soát của tác giả, hiện nay chưa có nhiều công trình, bài viết nghiên cứu đề cập đến vấn đề này. Vì vậy, những người có mong muốn tìm hiểu, xem xét về công việc phát sinh và các khía cạnh của loại tranh chấp này gặp rất nhiều khó khăn trong việc tìm các nguồn tham khảo có giá trị và hữu ích.

Do đó, nghiên cứu này mong muốn làm rõ hơn về các thuật ngữ, các quy định của pháp luật cũng như thực tế các tranh chấp liên quan đến khối lượng phát sinh ở Việt Nam. Mục đích nhằm cung cấp cho độc giả cái nhìn tổng thể về tranh chấp liên quan đến khối lượng phát sinh trên cơ sở các quy định pháp luật của Việt Nam và các mẫu hợp đồng xây dựng thông thường được các bên lựa chọn áp dụng ở Việt Nam.

2. Định nghĩa về khối lượng công việc phát sinh theo quy định của pháp luật xây dựng Việt Nam

Khối lượng công việc phát sinh là thuật ngữ khá phổ biến trong lĩnh vực xây dựng và đối với người làm việc trong lĩnh vực này. Tuy nhiên, hiện nay các quy định của pháp luật xây dựng Việt Nam vẫn chưa đưa ra định nghĩa thống nhất về khối lượng công việc phát sinh.

Theo quy định của pháp luật xây dựng Việt Nam, trong quá trình thực hiện HĐXD, các bên có thể thỏa thuận về các loại điều chỉnh và thay đổi như sau (i) Thỏa thuận điều chỉnh về khối lượng công việc trong HĐXD; (ii) Thỏa thuận điều chỉnh đơn giá và giá HĐXD; và (iii) Thỏa thuận điều chỉnh tiến độ thi công. Trong phạm vi bài viết này chỉ xem xét và nghiên cứu về vấn đề điều chỉnh khối lượng công việc trong khi thực hiện HĐXD.

Luật Xây dựng 2014 được sửa đổi, bổ sung năm 2020 (“Luật Xây dựng 2014”) điều chỉnh tất cả các dự án trên lãnh thổ Việt Nam không phân biệt dự án vốn Nhà nước được liệt kê trong Điều 1.2 của Nghị định số 37/2015/NĐ-CP, Điều 1.2 Nghị định số 10/2021/NĐ-CP và Điều 1.2 Thông tư số 07/2016/TT-BXD (sau đây gọi chung là “Dự án có vốn Nhà nước”) hay các dự án không phải là Dự án có vốn Nhà nước.

Tuy nhiên, với đặc thù của pháp luật xây dựng Việt Nam, có rất nhiều văn bản hướng dẫn của Luật Xây dựng 2014 chỉ tập trung điều chỉnh riêng về dự án có vốn Nhà nước. Các văn bản pháp luật này được khuyến khích áp dụng cho tất cả các dự án xây dựng khác bằng cách các bên trong HĐXD đưa ra lựa chọn đồng ý áp dụng các văn bản pháp luật này. Vì vậy, khi nghiên cứu về công việc phát sinh nói chung các quy định tại các văn bản trên điều chỉnh về Dự án có vốn Nhà nước có thể được sử dụng để nghiên cứu và tham khảo.

Theo thông lệ trên thực tế, khi đàm phán và ký kết HĐXD các bên trong quan hệ hợp đồng sẽ thỏa thuận và lập ra một danh sách các công việc chi tiết cụ thể, thường được gọi là Bảng khối lượng (được viết tắt là “BOQ”) để làm cơ sở thực hiện cho nhà thầu thực hiện các công việc theo hợp đồng. Nói cách khác, mọi công việc thuộc BOQ sẽ là công việc theo hợp đồng; trong khi đó, công việc không thuộc BOQ sẽ là công việc phát sinh ngoài phạm vi công việc của hợp đồng (sau đây gọi là “công việc phát sinh”). Khối lượng công việc phát sinh sẽ là cơ sở để nhà thầu yêu cầu chủ đầu tư thanh toán nếu chúng đáp ứng (các) điều kiện/thủ tục theo quy định của pháp luật hoặc thỏa thuận hợp đồng đã được các bên ký kết.

Theo quy định tại Nghị định số 37/20015/NĐ-CP, công việc phát sinh đối với từng loại HĐXD khác nhau sẽ khác nhau, cụ thể là: (i) Đối với hợp đồng thi công xây dựng, công việc phát sinh là các công việc được nhà thầu thực hiện không thuộc phạm vi công việc theo thiết kế của chủ đầu tư và/hoặc đại diện của chủ đầu tư; và (ii) Đối với hợp đồng tư vấn, công việc phát sinh là các công việc được thực hiện không thuộc nhiệm vụ tư vấn do nhà thầu thực hiện theo hợp đồng.

Do đó, có thể hiểu khối lượng công việc phát sinh là khối lượng các công việc phát sinh thêm trong quá trình các bên thực hiện HĐXD và nằm ngoài phạm vi các công việc đã thỏa thuận tại hợp đồng đã được ký kết giữa chủ đầu tư và nhà thầu hoặc có thể giữa nhà thầu chính và nhà thầu phụ. Tuy nhiên, trong phạm vi của bài viết này, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu và đề cập đến khối lượng công việc phát sinh trong mối quan hệ giữa chủ đầu tư và nhà thầu (sau đây gọi là “các bên” hoặc “bên” nếu đề cập đến cụ thể hoặc là chủ đầu tư hoặc là nhà thầu).

Theo: Nguyễn Thị Thu Thảo

Link tham khảo: Tại đây

avatar
Phạm Linh Chi
845 ngày trước
Tranh chấp xây dựng về khối lượng công việc phát sinh
1.Tranh chấp xây dựng về khối lượng công việc phát sinh  Bài viết cung cấp một số giải pháp để hạn chế các tranh chấp phát sinh liên quan đến khối lượng công việc phát sinh tại các bước đàm phán, ký kết và thực hiện hợp đồng xây dựng.TÓM TẮT: Trong quá trình thực hiện hợp đồng xây dựng (HĐXD), bên cạnh khái niệm về khối lượng công việc hoàn thành là khái niệm về công việc phát sinh, đây đều là các công việc được thực hiện bởi nhà thầu theo quy định của hợp đồng và pháp luật. Trong bối cảnh pháp luật xây dựng Việt Nam hiện nay chưa quy định một cách tập trung và cụ thể vấn đề này, hơn nữa rất nhiều văn bản pháp luật hướng dẫn Luật Xây dựng chỉ điều chỉnh các dự án có nguồn vốn nhà nước.Bài viết nghiên cứu và làm rõ về khái niệm khối lượng công việc phát sinh, nguyên nhân phát sinh tranh chấp về khối lượng công việc phát sinh, cách xác định khối lượng công việc phát sinh trong quy định của pháp luật Việt Nam và một số mẫu hợp đồng điển hình thường được sử dụng trong thực tiễn tại Việt Nam. Và cuối cùng, bằng kinh nghiệm và góc nhìn của tác giả là luật sư, bài viết cung cấp một số giải pháp để hạn chế các tranh chấp phát sinh liên quan đến khối lượng công việc phát sinh tại các bước đàm phán, ký kết và thực hiện HĐXD.Tranh chấp khối lượng công việc phát sinh là một trong những tranh chấp xây dựng xảy ra thường xuyên trong ngành Xây dựng. Nguyên nhân là do tại thời điểm giao kết HĐXD, các bên không lường trước được hết các công việc phát sinh yêu cầu nhà thầu phải thực hiện để hoàn thành công việc. Trên thực tế, việc xác định khối lượng phát sinh là không dễ dàng vì thông thường các bên sẽ không thống nhất về khối lượng thực tế công việc phát sinh và không thống nhất được đơn giá đối với từng hạng mục công việc nếu HĐXD chưa thỏa thuận đơn giá cho hạng mục công việc mới phát sinh.Việc xác định khối lượng công việc phát sinh có ý nghĩa quan trọng trong xác định trách nhiệm của các bên trong HĐXD. Tuy nhiên, theo nghiên cứu, rà soát của tác giả, hiện nay chưa có nhiều công trình, bài viết nghiên cứu đề cập đến vấn đề này. Vì vậy, những người có mong muốn tìm hiểu, xem xét về công việc phát sinh và các khía cạnh của loại tranh chấp này gặp rất nhiều khó khăn trong việc tìm các nguồn tham khảo có giá trị và hữu ích.Do đó, nghiên cứu này mong muốn làm rõ hơn về các thuật ngữ, các quy định của pháp luật cũng như thực tế các tranh chấp liên quan đến khối lượng phát sinh ở Việt Nam. Mục đích nhằm cung cấp cho độc giả cái nhìn tổng thể về tranh chấp liên quan đến khối lượng phát sinh trên cơ sở các quy định pháp luật của Việt Nam và các mẫu hợp đồng xây dựng thông thường được các bên lựa chọn áp dụng ở Việt Nam.2. Định nghĩa về khối lượng công việc phát sinh theo quy định của pháp luật xây dựng Việt NamKhối lượng công việc phát sinh là thuật ngữ khá phổ biến trong lĩnh vực xây dựng và đối với người làm việc trong lĩnh vực này. Tuy nhiên, hiện nay các quy định của pháp luật xây dựng Việt Nam vẫn chưa đưa ra định nghĩa thống nhất về khối lượng công việc phát sinh.Theo quy định của pháp luật xây dựng Việt Nam, trong quá trình thực hiện HĐXD, các bên có thể thỏa thuận về các loại điều chỉnh và thay đổi như sau (i) Thỏa thuận điều chỉnh về khối lượng công việc trong HĐXD; (ii) Thỏa thuận điều chỉnh đơn giá và giá HĐXD; và (iii) Thỏa thuận điều chỉnh tiến độ thi công. Trong phạm vi bài viết này chỉ xem xét và nghiên cứu về vấn đề điều chỉnh khối lượng công việc trong khi thực hiện HĐXD.Luật Xây dựng 2014 được sửa đổi, bổ sung năm 2020 (“Luật Xây dựng 2014”) điều chỉnh tất cả các dự án trên lãnh thổ Việt Nam không phân biệt dự án vốn Nhà nước được liệt kê trong Điều 1.2 của Nghị định số 37/2015/NĐ-CP, Điều 1.2 Nghị định số 10/2021/NĐ-CP và Điều 1.2 Thông tư số 07/2016/TT-BXD (sau đây gọi chung là “Dự án có vốn Nhà nước”) hay các dự án không phải là Dự án có vốn Nhà nước.Tuy nhiên, với đặc thù của pháp luật xây dựng Việt Nam, có rất nhiều văn bản hướng dẫn của Luật Xây dựng 2014 chỉ tập trung điều chỉnh riêng về dự án có vốn Nhà nước. Các văn bản pháp luật này được khuyến khích áp dụng cho tất cả các dự án xây dựng khác bằng cách các bên trong HĐXD đưa ra lựa chọn đồng ý áp dụng các văn bản pháp luật này. Vì vậy, khi nghiên cứu về công việc phát sinh nói chung các quy định tại các văn bản trên điều chỉnh về Dự án có vốn Nhà nước có thể được sử dụng để nghiên cứu và tham khảo.Theo thông lệ trên thực tế, khi đàm phán và ký kết HĐXD các bên trong quan hệ hợp đồng sẽ thỏa thuận và lập ra một danh sách các công việc chi tiết cụ thể, thường được gọi là Bảng khối lượng (được viết tắt là “BOQ”) để làm cơ sở thực hiện cho nhà thầu thực hiện các công việc theo hợp đồng. Nói cách khác, mọi công việc thuộc BOQ sẽ là công việc theo hợp đồng; trong khi đó, công việc không thuộc BOQ sẽ là công việc phát sinh ngoài phạm vi công việc của hợp đồng (sau đây gọi là “công việc phát sinh”). Khối lượng công việc phát sinh sẽ là cơ sở để nhà thầu yêu cầu chủ đầu tư thanh toán nếu chúng đáp ứng (các) điều kiện/thủ tục theo quy định của pháp luật hoặc thỏa thuận hợp đồng đã được các bên ký kết.Theo quy định tại Nghị định số 37/20015/NĐ-CP, công việc phát sinh đối với từng loại HĐXD khác nhau sẽ khác nhau, cụ thể là: (i) Đối với hợp đồng thi công xây dựng, công việc phát sinh là các công việc được nhà thầu thực hiện không thuộc phạm vi công việc theo thiết kế của chủ đầu tư và/hoặc đại diện của chủ đầu tư; và (ii) Đối với hợp đồng tư vấn, công việc phát sinh là các công việc được thực hiện không thuộc nhiệm vụ tư vấn do nhà thầu thực hiện theo hợp đồng.Do đó, có thể hiểu khối lượng công việc phát sinh là khối lượng các công việc phát sinh thêm trong quá trình các bên thực hiện HĐXD và nằm ngoài phạm vi các công việc đã thỏa thuận tại hợp đồng đã được ký kết giữa chủ đầu tư và nhà thầu hoặc có thể giữa nhà thầu chính và nhà thầu phụ. Tuy nhiên, trong phạm vi của bài viết này, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu và đề cập đến khối lượng công việc phát sinh trong mối quan hệ giữa chủ đầu tư và nhà thầu (sau đây gọi là “các bên” hoặc “bên” nếu đề cập đến cụ thể hoặc là chủ đầu tư hoặc là nhà thầu).Theo: Nguyễn Thị Thu ThảoLink tham khảo: Tại đây