0888889366
Tra cứu thông tin hợp đồng
banner
avatar

Phạm Linh Chi

Điểm thưởng: 201
Tìm kiếm công ty Luật/ Doanh nghiệp

Người theo dõi

1 người
Xem tất cả

Đang theo dõi

0 người
Xem tất cả
avatar
Phạm Linh Chi
243 ngày trước
Bài viết
Khái quát về mua lại, sáp nhập ngân hàng thương mại tại Việt Nam.
4.5. Khái quát về mua lại, sáp nhập ngân hàng thương mại tại Việt Nam. Ngoài việc cần đáp ứng các yêu cầu chung trong việc hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam, phương hướng hoàn thiện pháp luật về mua lại, sáp nhập ngân hàng thương mại ở Việt Nam hiện nay được xác định dựa trên một số yêu cầu chính là đáp ứng các yêu cầu về mua lại, sáp nhập doanh nghiệp; đáp ứng các yêu cầu về mua lại, sáp nhập ngân hàng thương mại; đáp ứng các yêu cầu của nền kinh tế trị trường và đáp ứng các yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế.Khi hoàn thiện pháp luật về mua lại, sáp nhập ngân hàng thương mại ở Việt Nam hiện nay cần đảm bảo nguyên tắc không để xảy ra đổ vỡ, mất an toàn hệ thống ngân hàng, đảm bảo an toàn hệ thống tài chính, tiền tệ quốc gia; đáp ứng yêu cầu về tính thống nhất, đồng bộ, minh bạch và hiệu quả trong hệ thống pháp luật, phù hợp với những cam kết quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia là thành viên; tạo môi trường thuận lợi, ổn định cho hoạt động mua lại, sáp nhập và tổ chức lại doanh nghiệp; đồng thời khung pháp lý về mua lại, sáp nhập ngân hàng cần được xây dựng chuyên biệt, vừa mang tính áp dụng thực tiễn, vừa có tính dự liệu cao. Để đảm bảo sự chặt chẽ và mang tính khách quan, pháp luật cần bổ sung việc quy định một cơ quan giám sát độc lập quá trình mua lại, sáp nhập ngân hàng thương mại bên cạnh chức năng thanh tra, kiểm tra, giám sát của Ngân hàng Nhà nước.Các giải pháp hoàn thiện pháp luật được đề xuất, kiến nghị bao gồm những nội dung cụ thể hoàn thiện pháp luật về mua lại, sáp nhập doanh nghiệp nói chung và trong lĩnh vực ngân hàng thương mại, các giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về mua lại, sáp nhập ngân hàng thương mại ở Việt Nam hiện nay. Các giải pháp này có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, gắn với đổi mới tư duy hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về mua lại, sáp nhập ngân hàng thương mại ở Việt Nam hiện nay. Thông qua phương hướng và các giải pháp đề xuất, kiến nghị sẽ giúp hoàn thiện pháp luật về mua lại, sáp nhập ngân hàng thương mại, giúp các ngân hàng phát triển an toàn, hiệu quả, vững chắc sau khi mua lại, sáp nhập, đồng thời đáp ứng quyền tự do kinh doanh của các chủ thể sở hữu ngân hàng theo quy định của pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội trong giai đoạn mới, yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam, góp phần trong quá trình tái cơ cấu nền kinh tế và tái cấu trúc hệ thống ngân hàng.Qua nghiên cứu đề tài luận án “Pháp luật về mua lại và sáp nhập ngân hàng thương mại ở Việt Nam hiện nay”, tác giả rút ra một số kết luận chính như sau:Thứ nhất, ngân hàng thương mại có những đặc điểm riêng biệt so với các doanh nghiệp thông thường. Ngân hàng thương mại mặc dù có bản chất là doanh nghiệp nhưng việc thành lập, hoạt động và tổ chức lại ngân hàng chịu sự điều chỉnh trực tiếp của pháp luật về ngân hàng. Việc nghiên cứu để phát hiện chính xác và đầy đủ các đặc thù của ngân hàng thương mại sẽ giúp xây dựng được một cơ chế pháp lý hiệu quả để giải quyết những vấn đề phát sinh khi thực hiện mua lại, sáp nhập ngân hàng thương mại.Thứ hai, việc mua lại, sáp nhập ngân hàng thương mại chịu sự điều chỉnh của nhiều quy định pháp luật khác nhau, thể hiện sự đa dạng của pháp luật điều chỉnh dưới từng khía cạnh, góc độ, phù hợp với bản chất quan hệ của pháp luật cần điều chỉnh. Với những đặc thù của ngân hàng thương mại, của hoạt động mua lại, sáp nhập ngân hàng thương mại, nên ngoài việc sử dụng khung pháp lý như đối với các doanh nghiệp thông thường khi thực hiện mua lại, sáp nhập ngân hàng thương mại, pháp luật về mua lại, sáp nhập ngân hàng thương mại có những điều chỉnh riêng so với các loại hình doanh nghiệp khác.Thứ ba, những nội dung điều chỉnh chủ yếu của pháp luật về mua lại, sáp nhập ngân hàng thương mại được xác định bao gồm: tiêu chuẩn, điều kiện mua lại, sáp nhập; trình tự, thủ tục mua lại, sáp nhập; hệ quả pháp lý khi mua lại, sáp nhập và giải quyết tranh chấp khi mua lại, sáp nhập. Ngoài ra, còn có nhiều quan hệ xã hội khác phát sinh khi thực hiện mua lại, sáp nhập ngân hàng thương mại cần phải có pháp luật điều chỉnh.Thứ tư, pháp luật về mua lại, sáp nhập ngân hàng thương mại ở Việt Nam liên quan đến nhiều lĩnh vực pháp luật khác nhau. Luật các tổ chức tín dụng là luật chuyên ngành điều chỉnh trực tiếp đến việc thành lập, hoạt động và tổ chức lại ngân hàng thương mại, đồng thời được đặt trong mối quan hệ với các luật khác khi các giải quyết các vấn đề liên quan đến việc mua lại, sáp nhập ngân hàng thương mại.Thứ năm, bên cạnh những thành công mang lại, pháp luật về mua lại, sáp nhập ngân hàng thương mại ở Việt Nam còn có một số tồn tại, hạn chế như khung pháp lý còn thiếu, chưa cụ thể và chặt chẽ, còn có những khoảng trống pháp lý để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh khi thực hiện mua lại, sáp nhập; chưa tạo được cơ sở pháp lý vững chắc để thúc đẩy hoạt động này. Trong quá trình thực hiện mua lại, sáp nhập ngân hàng thương mại thời gian qua, đã có nhiều bất cập nảy sinh, trong đó có những vấn đề liên quan đến cơ chế pháp lý cần phải giải quyết.Thứ sáu, điều chỉnh pháp lý về mua lại, sáp nhập ngân hàng thương mại bao gồm nhiều nội dung. Trên cơ sở một số vấn đề cốt lõi về phương diện pháp lý đã được nghiên cứu theo hướng tiếp cận của đề tài luận án, còn có nhiều vấn đề pháp lý khác cần được tiếp tục nghiên cứu chuyên sâu trong lĩnh vực này như: định giá ngân hàng; thực hiện lãi suất tiền gửi, lãi suất, phí cấp tín dụng; hợp đồng mua lại, sáp nhập; hợp đồng cấp tín dụng hợp vốn; mức độ tương thích của các chính sách, pháp luật về mua lại, sáp nhập ngân hàng thương mại ở Việt Nam so với các chuẩn mực, thông lệ quốc tế, trong các Hiệp định thương mại tự do và các điều ước quốc tế liên quan; những nguy cơ, rủi ro về mặt pháp lý khi thực hiện mua lại, sáp nhập NHTM.Theo: Phạm Minh SơnLink luận án: Tại đây
avatar
Phạm Linh Chi
243 ngày trước
Bài viết
Nhóm giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về mua lại, sáp nhập
4.4.2. Nhóm giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về mua lại, sáp nhậpĐể thực hiện pháp luật về mua lại, sáp nhập NHTM một cách hiệu quả, một số giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật được kiến nghị như sau:Một là, đẩy mạnh công tác thanh tra, giám sát của Ngân hàng nhà nước.Trong thời gian qua, tổ chức và hoạt động của cơ quan Thanh tra, giám sát ngành ngân hàng đã được củng cố và hoàn thiện. Ngày 7/4/2014, Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành Nghị định số 26/2014/NĐ-CP quy định về tổ chức và hoạt động của Thanh tra, giám sát ngành ngân hàng. Nghị định được nhìn nhận là trao thêm quyền lực, nhưng cũng là áp lực để Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng hoàn thành trọng trách của nhà nước giao phó. Nghị định số 26/2014/NĐ-CP đã thể hiện sự đổi mới căn bản về mô hình tổ chức thanh tra trong NHNN theo hướng bảo đảm nguyên tắc tập trung, thống nhất trong chỉ đạo, thực hiện nhiệm vụ từ Trung ương đến địa phương. Điều này cũng phù hợp với xu hướng tập trung hóa quản trị, điều hành về trụ sở chính của các TCTD trong thời gian gần đây, từ đó tạo khuôn khổ pháp lý về tổ chức, phù hợp với chức năng, nhiệm vụ có tính đặc thù của thanh tra, giám sát ngành ngân hàng. Tuy nhiên, Nghị định mới chỉ quy định riêng về hoạt động của thanh tra, giám sát ngân hàng. Vì thế cần có những văn bản hướng dẫn của NHNN hoặc những văn bản liên ngành quy định cụ thể hơn về việc phối hợp giữa thanh tra, giám sát ngân hàng và các cơ quan thanh tra, giám sát khác trong việc chia sẻ thông tin, kết quả có được từ các đợt thanh tra, kiểm tra, giám sát. Điều này nhằm đảm bảo hiệu quả của các cơ quan quản lý nhà nước, đồng thời tránh gây ra những áp lực và phiền hà cho đối tượng được thanh tra, giám sát.Trong thời gian tới, cần đẩy mạnh công tác thanh tra, giám sát ngân hàng nhằm củng cố, chấn chỉnh kỷ cương, kỷ luật thị trường và đánh giá, nhận diện những vấn đề của hệ thống và từng TCTD để có biện pháp tái cấu trúc, đáp ứng yêu cầu tăng cường quản lý nhà nước trong lĩnh vực ngân hàng, hỗ trợ tích cực hơn cho việc triển khai mạnh mẽ các giải pháp xử lý nợ xấu và cơ cấu lại các TCTD. Hoạt động thanh tra, giám sát ngân hàng cần đẩy mạnh nhằm phát hiện, xử lý những rủi ro, vi phạm pháp luật, đánh giá chất lượng tín dụng và hoạt động của các TCTD, trong đó có việc thực hiện pháp luật về mua lại, sáp nhập NHTM.Công tác thanh tra, giám sát cần phát hiện những tồn tại, hạn chế, rủi ro tiềm ẩn và vi phạm ở nhiều TCTD như vi phạm quy định về các giới hạn, chuẩn mực an toàn, phân loại nợ, trích lập dự phòng rủi ro; vi phạm và rủi ro trong hoạt động cấp tín dụng, góp vốn, mua cổ phần, đầu tư tài chính, huy động vốn, chất lượng tài sản thấp, nợ xấu lớn, tình hình tài chính kém lành mạnh... Từ đó có những giải pháp phù hợp để thực hiện mua lại, sáp nhập NHTM, nhất là việc xử lý những NHTM yếu kém, không có khả năng tự cơ cấu, cần có sự can thiệp của nhà nước thông qua mua lại, sáp nhập bắt buộc.Phát hiện và xử lý nghiêm những vi phạm pháp luật của các NHTM trong quá trình thực hiện mua lại, sáp nhập như che giấu nợ xấu, không công bố thông tin kịp thời, tẩu tán tài sản khi thực hiện mua lại, sáp nhập… Nếu những vụ việc có dấu hiệu hình sự cần chuyển cho cơ quan điều tra để xem xét, xử lý theo quy định của pháp luật. Công tác giám sát cần được đẩy mạnh nhằm phòng ngừa, phát hiện sớm các rủi ro, nguy cơ, dấu hiệu vi phạm, xu hướng, diễn biến bất lợi để có cảnh báo và biện pháp ngăn chặn, xử lý kịp thời. Tập trung thanh tra, giám sát để phát hiện những yếu kém, tồn tại của các NHTM được xử lý dứt điểm, đặc biệt là NHTM yếu kém được áp dụng các biện pháp can thiệp mạnh mẽ của NHNN như được đặt vào tình trạng kiểm soát đặc biệt và buộc mua lại, sáp nhập, đáp ứng thực hiện đúng mục tiêu, lộ trình đã đặt ra tại Đề án cơ cấu lại các TCTD giai đoạn 2011-2015 theo quy định tại Quyết định số 254/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 01/3/2012.Hai là, nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan tổ chức thực hiện pháp luật trong lĩnh vực ngân hàng và mua lại, sáp nhập ngân hàng thương mại.Nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan, tổ chức thực hiện pháp luật trong lĩnh vực ngân hàng và mua lại, sáp nhập NHTM, chú trọng xây dựng, hoàn thiện cơ chế phối hợp, giám sát việc tổ chức thực hiện pháp luật trong lĩnh vực này một cách chặt chẽ. Một trong những đặc điểm của pháp luật về mua lại, sáp nhập NHTM chính là sự đa dạng của pháp luật điều chỉnh dưới từng khía cạnh, góc độ, phù hợp với bản chất quan hệ của pháp luật cần điều chỉnh. Vì thế để quản lý hoạt động này, tùy theo chức năng, nhiệm vụ được giao, pháp luật quy định nhiều cơ quan cùng tham gia như: Bộ Kế hoạch và Đầu tư, NHNN, Bộ Tài chính, Bộ Công thương, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, UBND cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.... Do đó việc xây dựng cơ chế phối hợp, giám sát việc tổ chức thực hiện pháp luật trong lĩnh vực ngân hàng và mua lại, sáp nhập NHTM là hết sức cần thiết. Cần có kế hoạch nâng cao năng lực cán bộ ở những vị trí quan trọng trong quá trình thực hiện mua lại, sáp nhập NHTM tại Cục quản lý cạnh tranh, các vụ, cục thuộc NHNN, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước... Cung cấp thông tin về chính sách, pháp luật về ngân hàng ở trong và ngoài nước kịp thời đến các cơ quan, tổ chức, cá nhân được giao quản lý và thực hiện mua lại, sáp nhập NHTM.Ba là, tăng cường và đổi mới nội dung công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, cung cấp kiến thức về mua lại, sáp nhập ngân hàng thương mại.Hoạt động mua lại, sáp nhập doanh nghiệp đã trở nên quen thuộc và được thực hiện tại nhiều quốc gia trên thế giới. Ở Việt Nam, hoạt động này bắt đầu chưa lâu nhưng ngày càng trở nên sôi động tuy rằng những hiểu biết hiện tại về mua lại, sáp nhập còn hạn chế. Pháp luật về mua lại, sáp nhập NHTM mới được xây dựng nhưng đã được bổ sung, hoàn thiện trong thời gian gần đây. Trên thực tế, nếu muốn tiến hành mua lại, sáp nhập, các ngân hàng phải tự mình “dò dẫm” đường đi và tự tìm hiểu học hỏi kinh nghiệm từ các thương vụ mua lại, sáp nhập ngân hàng đã thực hiện. Vì thế cần tăng cường và đổi mới nội dung công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, cung cấp kiến thức về mua lại, sáp nhập NHTM.Theo: Phạm Minh SơnLink luận án: Tại đây
avatar
Phạm Linh Chi
243 ngày trước
Bài viết
Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về mua lại, sáp nhập ngân hàng thương mại Việt Nam
4.4. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về mua lại, sáp nhập ngân hàng thương mại Việt NamCác nội dung phân tích trong luận án cho thấy, ngân hàng là một loại hình doanh nghiệp, vì vậy ngân hàng cũng bị điều chỉnh bởi các quy định của pháp luật về hoạt động mua lại, sáp nhập đối với doanh nghiệp nói chung. Pháp luật về mua lại, sáp nhập NHTM xuất phát từ việc xem xét hành vi mua lại, sáp nhập NHTM dưới mỗi góc độ khác nhau thì hoạt động mua lại, sáp nhập NHTM sẽ chịu sự điều chỉnh của pháp luật phù hợp với các quan hệ xã hội tương ứng. Ngoài việc sử dụng khung pháp lý như đối với các doanh nghiệp thông thường khi thực hiện mua lại, sáp nhập NHTM, pháp luật về mua lại, sáp nhập NHTM còn có những điều chỉnh riêng do những đặc thù của NHTM và hoạt động mua lại, sáp nhập NHTM. Căn cứ vào thực trạng pháp luật, phương hướng hoàn thiện pháp luật, các giải pháp hoàn thiện pháp luật về mua lại, sáp nhập NHTM ở Việt Nam bao gồm những giải pháp cụ thể như sau:4.4.1. Nhóm giải pháp hoàn thiện các quy định về mua lại, sáp nhậpMột là, sửa đổi, bổ sung các quy định về mua lại, sáp nhập trong một số văn bản luật.Sửa đổi, bổ sung hình thức pháp lý về mua lại, sáp nhập để thống nhất giữa các luật điều chỉnh:Luật doanh nghiệp năm 2014 quy định việc chia, tách, hợp nhất, sáp nhập hoặc chuyển đổi loại hình doanh nghiệp được xem là hành vi “tổ chức lại doanh nghiệp”. Luật không quy định về mua lại doanh nghiệp. Tuy nhiên, qua nghiên cứu và phân tích của luận án thì bản chất pháp lý khi mua lại, sáp nhập NHTM chính là việc giành quyền kiểm soát doanh nghiệp thông qua các hoạt động đầu tư, tổ chức lại doanh nghiệp; việc chuyển giao tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp giữa các bên, đồng thời xác định tư cách pháp lý của các bên sau khi thực hiện mua lại, sáp nhập. Vì vậy, kiến nghị bổ sung trong Luật doanh nghiệp hình thức mua lại là một trong những hình thức pháp lý tổ chức lại doanh nghiệp để phù hợp bản chất pháp lý của việc mua lại, phù hợp với quy định của Luật cạnh tranh. Luật các TCTD bổ sung quy định việc mua lại, sáp nhập đối với NHTM, thay vì quy định chung là tổ chức lại TCTD dưới hình thức chia, tách, hợp nhất, sáp nhập, chuyển đổi hình thức pháp lý.Sửa đổi, bổ sung các quy định về tiêu chuẩn, điều kiện, trình tự, thủ tục, hệ quả pháp lý và giải quyết tranh chấp khi thực hiện mua lại, sáp nhập:Sửa đổi, bổ sung trong Luật các TCTD và các văn bản pháp luật quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành các quy định về: tiêu chuẩn, điều kiện mua lại, sáp nhập; trình tự, thủ tục mua lại, sáp nhập; hệ quả pháp lý khi mua lại, sáp nhập và giải quyết tranh chấp khi mua lại, sáp nhập NHTM. Đồng thời quy định việc chuyển đổi hình thức pháp lý sau khi thực hiện mua lại, sáp nhập NHTM; giải quyết quyền lợi, nghĩa vụ hợp pháp của các bên liên quan, trong đó quyền của người gửi tiền để làm cơ sở ban hành văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thực hiện.Sửa đổi, bổ sung các quy định về về cơ sở pháp lý cho việc Nhà nước được quyền mua lại bắt buộc NHTM yếu kém:Để bảo đảm chắc chắn và rõ ràng về cơ sở pháp lý cho việc Nhà nước được quyền mua lại bắt buộc NHTM yếu kém, kiến nghị sửa đổi, bổ sung Luật các TCTD quy định rõ ràng, cụ thể về tiêu chuẩn, điều kiện, trình tự, thủ tục và biện pháp mua lại bắt buộc, hoặc sửa Luật trưng mua, trưng dụng theo hướng cho phép nhận chuyển nhượng bắt buộc phần vốn góp hoặc cổ phần, cổ phiếu của các TCTD trong các trường hợp cần thiết. Ngoài ra xem xét sửa đổi, bổ sung Quyết định số 48/2013/QĐ-TTg ngày 01/8/2013 của Thủ tướng Chính phủ về việc góp vốn, mua cổ phần bắt buộc của TCTD được kiểm soát đặc biệt, theo đó ngoài việc cho phép NHNN trực tiếp góp vốn và mua cổ phần của các TCTD, còn phải cho phép việc nhận chuyển nhượng phần vốn góp của các thành viên công ty TNHH và mua bán cổ phiếu, nhận chuyển nhượng cổ phần của các cổ đông công ty cổ phần mới bảo đảm thống nhất quy định của Luật doanh nghiệp, Luật các TCTD và Luật chứng khoán.Hai là, hoàn thiện các quy định giới hạn về mức độ tập trung kinh tế của pháp luật cạnh tranh.Theo kinh nghiệm của một số nước, cơ quan quản lý cạnh tranh có thể đặt ra một mức giá trị làm căn cứ đầu tiên cho việc kiểm soát tập trung kinh tế, giúp cơ quan quản lý kiểm soát vấn đề này dễ hơn và không bỏ sót các thương vụ lớn. Luật cạnh tranh quy định về mức giá giới hạn giá trị của các thương vụ giao dịch để phân chia trách nhiệm quản lý giữa Cục Quản lý cạnh tranh và cơ quan quản lý hoạt động này ở địa phương. Mức giới hạn giá trị giao dịch có thể quy định dựa vào giá trị của hợp đồng giao dịch hoặc giá trị tổng hợp các doanh nghiệp sau khi mua lại, sáp nhập.Xác định thị phần để kiểm soát hành vi tập trung kinh tế khi quyết định chấp thuận hay từ chối một thương vụ M&A nên sử dụng chỉ số đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trong tương lai. Do đó, đối với qui định sử dụng doanh thu để xác định thị phần (Nghị định số 116/2005/NĐ-CP) của các TCTD chưa phản ánh đúng bản chất của sự tập trung trong hoạt động ngân hàng mà nên sử dụng kết hợp các tiêu chí: (1) Tỉ trọng tiền gửi/tổng tiền gửi của toàn ngành; (2) Tỉ trọng tín dụng/tổng tín dụng của toàn ngành; (3) Tỉ trọng thu nhập từ lãi suất/tổng thu nhập từ lãi suất của toàn ngành. Mặt khác, khi tính toán mức độ tập trung, có thể xem xét sử dụng hệ số HHI để tính toán sẽ có ý nghĩa hơn về mặt thực tiễn thay vì chỉ cộng dồn thị phần của các tổ chức có liên quan mà không xét đến yếu tố trọng số liên quan. Trong văn bản ban hành quy định chi tiết Luật cạnh tranh, quy định rõ khái niệm “thị trường liên quan” để có thể xác định một hoạt động mua lại, sáp nhập NHTM có thuộc trường hợp tập trung kinh tế hay không. Văn bản hướng dẫn này có thể được thể hiện dưới hình thức Nghị định của Chính phủ hoặc Thông tư của Bộ Công thương.Theo: Phạm Minh SơnLink luận án: Tại đây
avatar
Phạm Linh Chi
243 ngày trước
Bài viết
Hoàn thiện pháp luật về mua lại, sáp nhập đáp ứng các yêu cầu của nền kinh tế thị trường Trong nền kinh tế thị trường, khi các quan hệ dân sự, kinh tế ngày càng trở nên phức tạp và k
4.3. Hoàn thiện pháp luật về mua lại, sáp nhập đáp ứng các yêu cầu của nền kinh tế thị trườngTrong nền kinh tế thị trường, khi các quan hệ dân sự, kinh tế ngày càng trở nên phức tạp và khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại Thế giới thì yêu cầu hoàn thiện pháp luật để đáp ứng những đòi hỏi của nền kinh tế thị trường càng trở nên cấp thiết. Đối với mọi nền kinh tế, cho dù là kế hoạch hóa tập trung hay nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa như ở nước ta hiện nay đều cần phải dựa vào pháp luật để tồn tại và phát triển. Nền kinh tế thị trường tự thân vận động là chủ yếu thông qua nguyên tắc tự do kinh doanh, tự định đoạt, tự chịu trách nhiệm và tự do cạnh tranh nên cần tới pháp luật nhiều hơn.Tại nhiều công trình khoa học, các tác giả đã nghiên cứu, phân tích những đặc thù của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam tác động đến pháp luật nói chung và pháp luật về mua lại, sáp nhập doanh nghiệp nói riêng, trên cơ sở đó đề ra những giải pháp hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực này. Khái quát chung nhất để thấy nền kinh tế thị trường ảnh hưởng đến việc hoàn thiện pháp luật về mua lại, sáp nhập doanh nghiệp và yêu cầu đối với việc hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực này là nền kinh tế thị trường với việc vận hành theo các quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh, quy luật cung cầu, trong khi nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung với việc nhà nước quản lý nền kinh tế chủ yếu bằng mệnh lệnh, thông qua hệ thống các chỉ tiêu kế hoạch, quy luật giá trị hầu như chưa được tính đầy đủ.Bằng pháp luật, nhà nước ghi nhận những nguyên tắc cơ bản của nền kinh tế thị trường như tự do sở hữu, tự do kinh doanh, tự do cạnh tranh, tự định đoạt, tự chịu trách nhiệm để thiết kế mô hình nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa như ở Việt Nam. Nhà nước can thiệp bằng cách thức tạo hành lang pháp lý an toàn cho các nhà đầu tư trong hoạt động đầu tư, kinh doanh. Vì vậy, xây dựng nền kinh tế thị trường tất yếu phải xóa bỏ những tồn tại của cơ chế kế hoạch hóa tập trung để thị trường hoạt động theo đúng quy luật. Khi pháp luật hiện hành chưa dự liệu, phản ánh được các quy luật cạnh tranh và các quy luật thị trường khác có thể ảnh hưởng đến hoạt động mua bán doanh nghiệp trên thực tiễn... Do đó, để khắc phục những hạn chế và thích ứng với nền kinh tế thị trường, những giải pháp hoàn thiện pháp luật về mua lại, sáp nhập doanh nghiệp cần được xây dựng trên một số cơ sở sau đây:Thứ nhất, pháp luật về mua lại, sáp nhập doanh nghiệp phải bảo đảm để thị trường hoạt động theo các quy luật của kinh tế thị trường như quy luật giá trị, cạnh tranh, cung cầu. Sự hoàn thiện của cơ chế kinh tế thị trường là điều kiện tiên quyết để hình thành thị trường mua bán doanh nghiệp. Nắm bắt và thực hiện theo các quy luật này sẽ tác động có hiệu quả đến hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động mua lại, sáp nhập doanh nghiệp nói riêng. Đồng thời để thúc đẩy hoạt động mua lại, sáp nhập doanh nghiệp phát triển, pháp luật cần ghi nhận hoạt động mua lại, sáp nhập doanh nghiệp của các nhà đầu tư một cách rõ ràng nhằm đáp ứng quyền tự do kinh doanh của các chủ thể. Nhà nước cần tạo môi trường pháp lý an toàn để các nhà đầu tư thực hiện quyền tự do kinh doanh theo quy định, hạn chế và tiến tới xóa bỏ việc can thiệp thị trường theo mệnh lệnh hành chính.Thứ hai, trong nền kinh tế thị trường, nhà nước chỉ kiểm soát hoạt động mua lại, sáp nhập doanh nghiệp khi hoạt động đó có khả năng gây hạn chế cạnh tranh trên thị trường thông qua việc ban hành và thực thi pháp luật cạnh tranh. Các quy phạm của pháp luật cạnh tranh cần được thiết kế để phản ánh đúng thực tiễn mua lại, sáp nhập doanh nghiệp. Việc bảo hộ sản xuất, kinh doanh trong nước là cần thiết khi quá trình hội nhập quốc tế đang diễn ra nhanh chóng và sâu rộng, có thể làm cho những ngành sản xuất, kinh doanh gặp nhiều khó khăn, thách thức. Quá trình mua lại, sáp nhập của nhà đầu tư nước ngoài đối với doanh nghiệp trong nước là một phương thức tốt để có thể tận dụng ngay được những lợi thế của doanh nghiệp sở tại, nhất là trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng. Việc bảo hộ của nhà nước cần tuân theo các lộ trình mà Việt Nam đã cam kết. Thay đổi được tư duy quản lý kinh tế và điều chỉnh pháp luật trong nền kinh tế thị trường, khi đó việc vận hành nền kinh tế thị trường sẽ theo đúng quy luật, tạo ra sự cạnh tranh bình đẳng, đảm bảo sự công bằng cho các nhà đầu tư kinh doanh, trong đó bao gồm cả lĩnh vực mua lại, sáp nhập.Thứ ba, khắc phục những mặt trái và giảm thiểu những tác động của kinh tế thị trường khi hoàn thiện pháp luật về mua lại, sáp nhập. Tích tụ tư bản thông qua tập trung kinh tế bằng hình thức mua lại, sáp nhập có thể hình thành doanh nghiệp với vị trí thống lĩnh thị trường và có thể lạm dụng vị trí đó để hạn chế cạnh tranh, gây thiệt hại cho nhà nước, doanh nghiệp và người dân. Mặt khác khi thực hiện tập trung kinh tế còn có thể dẫn đến việc người lao động bị sa thải, thất nghiệp, ảnh hưởng đến quyền lợi của cổ đông thiểu số… Trong nền kinh tế thị trường, lợi nhuận luôn là mục tiêu mà doanh nghiệp hướng đến. Tuy nhiên nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa như ở nước ta là một hình thái kinh tế thị trường vừa tuân theo những quy luật của kinh tế thị trường, vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, khi đề ra những giải pháp hoàn thiện pháp luật về mua lại, sáp nhập doanh nghiệp nói chung và trong lĩnh vực NHTM phải bảo đảm giải quyết được những yêu cầu hoàn thiện hệ thống pháp luật, vừa phải bảo vệ người gửi tiền, người lao động, cổ đông thiểu số…Theo: Phạm Minh SơnLink luận án: Tại đây
avatar
Phạm Linh Chi
243 ngày trước
Bài viết
Hoàn thiện pháp luật đáp ứng các yêu cầu về mua lại, sáp nhập ngân hàng thương mại
4.2. Hoàn thiện pháp luật đáp ứng các yêu cầu về mua lại, sáp nhập ngân hàng thương mạiVới những kết quả thực hiện tái cấu trúc hệ thống ngân hàng trong thời gian vừa qua cho thấy, hệ thống NHTM nước ta đã giữ được sự ổn định trong quá trình tái cơ cấu, ổn định kinh tế vĩ mô, đóng góp vào tăng trưởng kinh tế của đất nước. Tuy nhiên, các kết quả của quá trình này còn chưa tương xứng với mục tiêu và kỳ vọng phát triển của nền kinh tế. Nguyên nhân chủ yếu là do còn thiếu một cách tiếp cận tổng hợp để xử lý tổng thể các vấn đề của tái cơ cấu hệ thống NHTM, đặc biệt là còn thiếu một khung khổ pháp lý mang tính hệ thống để tái cơ cấu NHTM trong bối cảnh tái cơ cấu nền kinh tế. Để giải quyết vấn đề này, phương hướng hoàn thiện pháp luật đáp ứng các yêu cầu về mua lại, sáp nhập NHTM, phục vụ cho mục tiêu tái cơ cấu hệ thống ngân hàng được đặt ra như sau:Thứ nhất, pháp luật về mua lại, sáp nhập NHTM cần được hoàn thiện theo hướng đảm bảo nguyên tắc không để xảy ra đổ vỡ và mất an toàn hệ thống ngân hàng ngoài tầm kiểm soát của nhà nước, tuy nhiên cũng không loại trừ khả năng một hoặc một số ngân hàng quá yếu kém có thể đổ vỡ. Các quy định pháp luật được xây dựng và hoàn thiện nhằm phục vụ mục tiêu tái cơ cấu nền kinh tế nói chung, tái cấu trúc hệ thống ngân hàng nói riêng, nhằm giảm nhanh số lượng ngân hàng yếu kém, hoặc đặt ra những vấn đề cần xử lý đối với một số ngân hàng cụ thể để ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an toàn hệ thống. Chính phủ cần xây dựng các kịch bản có thể xảy ra cũng như các biện pháp ứng phó kịp thời và hiệu quả khi hệ thống ngân hàng có những biến động. Ngoài ra, cần xây dựng những quy định để bảo vệ người gửi tiền, người lao động, cổ đông thiểu số và minh bạch hóa giao dịch của các bên liên quan.Thứ hai, pháp luật về mua lại, sáp nhập NHTM phải tạo môi trường thuận lợi, ổn định cho hoạt động mua bán, sáp nhập và tổ chức lại doanh nghiệp. Hoàn thiện pháp luật về mua lại, sáp nhập trong lĩnh vực ngân hàng cần tạo ra hành lang pháp lý để thu hút vốn từ nhà đầu tư nước ngoài thông qua hoạt động mua bán, sáp nhập và tổ chức lại ngân hàng. Việc nhà nước mua lại hoặc đầu tư vào vốn cổ phần của các ngân hàng yếu kém là một trong những giải pháp tạm thời cuối cùng đối với các NHTM không có khả năng khắc phục hoặc tái cơ cấu. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy hầu hết các nước công nghiệp phát triển đều phải thực hiện nghĩa vụ này. Tuy nhiên, việc mua lại hoặc đầu tư của nhà nước chỉ mang tính tạm thời, phần lớn nhà nước sẽ bán lại cổ phần cho các nhà đầu tư khác sau khi tiến hành các biện pháp nhằm khôi phục hoạt động của các ngân hàng này. Trong một số trường hợp, sau khi rà soát và xác định nhóm các ngân hàng yếu kém, nhà nước có thể tiến hành kêu gọi các nhà đầu tư bên ngoài đồng tài trợ hay góp vốn cùng nhà nước để khôi phục hoạt động của các ngân hàng yếu kém. Nguồn vốn này có thể được trích ra từ các quỹ đặc biệt của nhà nước để tái cấu trúc hệ thống ngân hàng [3], do đó cần tạo quy định pháp lý để có thể huy động được nguồn lực trong việc tái cấu trúc ngân hàng. Bên cạnh đó là việc cần giữ vững ổn định kinh tế, xã hội và đảm bảo việc quản lý, kiểm soát hiệu quả của nhà nước, đồng thời tạo môi trường kinh doanh bình đẳng, phát huy tính cạnh tranh của các thành phần kinh tế.Việc hoàn thiện pháp luật về mua lại, sáp nhập trong lĩnh vực ngân hàng cũng cần phải đáp ứng một số yêu cầu: (i) Tháo gỡ triệt để các khó khăn, vướng mắc đang cản trở hoạt động mua lại, sáp nhập và tổ chức lại ngân hàng; (ii) Bảo đảm tối đa sự phát triển ổn định của hệ thống pháp luật có liên quan, hạn chế đưa ra quá nhiều văn bản pháp luật mới, đồng thời bảo đảm các quy định mới được đưa ra tương thích với các quy định còn hiệu lực khác của hệ thống pháp luật; (iii) Phù hợp với các cam kết quốc tế của Việt Nam, với thông lệ, tập quán quốc tế, bảo đảm chủ quyền và lợi ích quốc gia.Thứ ba, xây dựng khung pháp lý về mua lại, sáp nhập NHTM cần chuyên biệt, rõ ràng và đầy đủ. Ngân hàng là một doanh nghiệp đặc biệt có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế. Với tầm quan trọng như vậy, quy định về mua lại, sáp nhập NHTM cần được quy định nguyên tắc trong Luật các TCTD, để từ đó các văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực pháp lý thấp hơn sẽ quy định chi tiết. Hiến pháp 2013 đã quy định, mọi người có quyền tự do kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm và quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết. Kinh doanh hoạt động ngân hàng không bị pháp luật cấm nhưng có điều kiện chặt chẽ. Vì thế, nếu quy định hạn chế quyền kinh doanh của các chủ thể trong lĩnh vực ngân hàng cần được quy định bởi luật. Trong xu hướng xây dựng pháp luật hiện nay, đòi hỏi luật phải được xây dựng càng cụ thể càng tốt, để các quy định của luật có thể thi hành được ngay. Tuy nhiên, mua lại, sáp nhập NHTM đòi hỏi sự điều chỉnh của nhiều ngành luật với mức độ phức tạp cao, có nhiều quan hệ xã hội phát sinh, biến động liên tục khi thực hiện mua lại, sáp nhập cần phải điều chỉnh kịp thời, phù hợp, do đó cần quy định nguyên tắc trong luật, để từ đó các văn bản hướng dẫn có cơ sở pháp lý để ban hành.Theo: Phạm Minh SơnLink luận án: Tại đây
avatar
Phạm Linh Chi
243 ngày trước
Bài viết
Phương hướng hoàn thiện pháp luật về mua lại, sáp nhập ngân hàng thương mại ở Việt Nam.
4. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về mua lại, sáp nhập ngân hàng thương mại ở Việt Nam.Pháp luật về mua lại, sáp nhập NHTM vẫn còn những hạn chế, bất cập. Trước những yêu cầu mới của Hiến pháp năm 2013, yêu cầu hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam và thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, xã hội của đất nước trong giai đoạn tới thì việc hoàn thiện pháp luật về mua lại, sáp nhập NHTM ở Việt Nam là đòi hỏi cấp thiết. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về mua lại, sáp nhập NHTM ở Việt Nam được xác định dựa trên một số yêu cầu chính sau đây:4.1. Hoàn thiện pháp luật đáp ứng các yêu cầu về mua lại, sáp nhập doanh nghiệpKhi thực hiện mua lại, sáp nhập, các bên trong quan hệ mua lại, sáp nhập có nhu cầu chính đáng là cần một hành lang pháp lý vững chắc để thực hiện các hoạt động kinh doanh của mình, cũng như bảo vệ được quyền, lợi ích hợp pháp và thực hiện trách nhiệm của các bên trong quan hệ mua lại, sáp nhập. Để đáp ứng yêu cầu này, một số phương hướng nhằm hoàn thiện pháp luật đáp ứng yêu cầu tạo hành lang pháp lý khi thực hiện mua lại, sáp nhập doanh nghiệp được đặt ra như sau:Thứ nhất, pháp luật về mua lại, sáp nhập phải đáp ứng yêu cầu về tính thống nhất, đồng bộ, minh bạch và hiệu quả trong hệ thống pháp luật, phù hợp với những cam kết của các quốc gia thành viên, của các tổ chức quốc tế như WTO, EU, ASEAN... Nguyên tắc công khai, minh bạch cần được hết sức tôn trọng để bảo đảm niềm tin và định hướng đúng cho thị trường. Bởi vậy, mọi biện pháp và kết quả thực hiện liên quan đến tái cấu trúc doanh nghiệp cần được cơ quan chức năng công bố một cách công khai, kịp thời. Các quy phạm về mua lại, sáp nhập phải thống nhất với nhau một cách tương đối, không được mâu thuẫn, chồng chéo với nhau. Để đáp ứng yêu cầu về tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật, các quy phạm pháp luật về mua lại, sáp nhập phải phù hợp với nội dung và tinh thần của Hiến pháp; các quy phạm pháp luật do cơ quan cấp dưới ban hành phải phù hợp với quy phạm do cơ quan cấp trên ban hành; các quy phạm pháp luật do cùng một cơ quan ban hành phải phù hợp với văn bản, quy phạm do chính cơ quan mình đã ban hành trước đó; các quy phạm pháp luật trong một văn bản quy phạm pháp luật phải thống nhất với nhau; văn bản quy phạm pháp luật, các quy phạm pháp luật phải phù hợp với các điều ước, thoả thuận quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia.Thứ hai, pháp luật về mua lại, sáp nhập phải rõ ràng, thông suốt, đúng đắn. Các quy phạm pháp luật phải mang tính hệ thống, nhất quán, chặt chẽ, tránh trùng lắp và mâu thuẫn. Pháp luật về mua lại, sáp nhập phải tạo ra hành lang pháp lý bình đẳng cho các chủ thể để có thể tham gia vào các quan hệ pháp lý khi thực hiện mua lại, sáp nhập, đồng thời pháp luật phải có tính khả thi, duy trì niềm tin của nhà đầu tư, tạo được niềm tin đối với người dân và xã hội... Để đáp ứng yêu cầu về tính minh bạch thì quy phạm pháp luật về mua lại, sáp nhập cần phải nhất quán, công khai, dễ tiếp cận, phải tin cậy được, phải lường trước và có thể dự đoán trước được. Pháp luật về mua lại, sáp nhập cần đáp ứng yêu cầu về hiệu quả để có thể thực hiện với những chi phí thấp, mang lại nhiều lợi ích cho xã hội. Pháp luật được ban hành kịp thời, đầy đủ, đồng bộ, phù hợp với các quy luật khách quan và phù hợp với các điều kiện kinh tế, xã hội; phải xem xét mức độ chi phí cụ thể, nhất là trong trường hợp cần có sự can thiệp của nhà nước nhằm đạt được các kết quả thực tế [74].Thứ ba, văn bản pháp luật chuyên biệt điều chỉnh hoạt động mua lại, sáp nhập đối với một số loại hình doanh nghiệp cần được bổ sung những quy định về nội dung bên cạnh quy định về mặt thủ tục. Hiện nay, các quy định liên quan đến mua lại, sáp nhập đã được quy định trong Bộ luật dân sự, Luật doanh nghiệp, Luật đầu tư, Luật cạnh tranh, Luật chứng khoán…Tuy nhiên, các quy định này mới phần lớn dừng lại ở việc xác lập về mặt hình thức, trong khi đó các vấn đề về nội dung cần phải được quy định đầy đủ, cụ thể, rõ ràng, tránh chồng chéo.Thứ tư, các văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động mua lại, sáp nhập cần được xây dựng sao cho vừa mang tính phù hợp thực tiễn, vừa phải có tính dự liệu để đảm bảo điều chỉnh linh hoạt các hoạt động này. Do đó cần phải xây dựng chính sách phù hợp với chiến lược và định hướng chiến lược tái cấu trúc doanh nghiệp nói chung và trong lĩnh vực ngân hàng ở hiện tại cũng như trong tương lai, phù hợp với tiến trình tái cơ cấu nền kinh tế, phù hợp với tình hình phát triển kinh tế, xã hội. Trên cơ sở này, pháp luật mới tạo được môi trường pháp lý bình đẳng cho các đối tượng bị điều chỉnh. Vì vậy, cần thay đổi cách thức xây dựng và phê duyệt chính sách, đó là công khai, tham vấn, trưng cầu ý kiến của những đối tượng bị điều chỉnh có lợi ích liên quan đến hoạt động tái cấu trúc doanh nghiệp, ngân hàng.Theo: Phạm Minh SơnLink luận án: Tại đây
avatar
Phạm Linh Chi
243 ngày trước
Bài viết
Đánh giá thực tiễn thực hiện pháp luật về mua lại, sáp nhập ngân hàng thương mại
3.8. Đánh giá thực tiễn thực hiện pháp luật về mua lại, sáp nhập ngân hàng thương mạiQua nghiên cứu hai trường hợp mua lại, sáp nhập NHTM đã thực hiện trong năm 2012 và năm 2015, đồng thời tìm hiểu, phân tích thêm một số trường hợp mua lại, sáp nhập NHTM trong thời gian gần đây, có thể đánh giá khái quát thực tiễn thực hiện pháp luật về mua lại, sáp nhập NHTM ở Việt Nam hiện nay như sau:Một là, các trường hợp mua lại, sáp nhập tự nguyện đều thực hiện theo lộ trình tái cơ cấu ngân hàng của NHNN và định hướng phát triển của các NHTM. Các bên tham gia mua lại, sáp nhập đã chủ động xây dựng chiến lược kinh doanh, báo cáo đại hội đồng cổ đông. Phương án mua lại, sáp nhập của các NHTM được cơ quan quản lý ngân hàng chấp thuận. Các NHTM sau mua lại, sáp nhập đều hoạt động có hiệu quả, theo đúng lộ trình đề ra trong đề án mua lại, sáp nhập được phê duyệt. Việc vận dụng pháp luật về mua lại, sáp nhập bước đầu đáp ứng được yêu cầu để thực hiện tái cơ cấu ngân hàng, tuy rằng một số quy định pháp lý còn thiếu, chưa đồng bộ và chặt chẽ.Hai là, do việc vận dụng pháp luật phức tạp, thiếu kiến thức và kinh nghiệm nên các NHTM thực hiện mua lại, sáp nhập không tự mình thực hiện được tất cả các nội dung, yêu cầu của pháp luật về mua lại, sáp nhập mà phải thông qua các công ty tư vấn, luật sư để xây dựng phương án mua lại, sáp nhập, thẩm định pháp lý, lập hồ sơ và tiến hành các trình tự, thủ tục để thực hiện thương vụ mua lại, sáp nhập.Ba là, trên cơ sở tìm hiểu, trao đổi và nhận được sự đồng thuận của ban lãnh đạo các bên tham gia mua lại, sáp nhập, các bên mua lại, nhận sáp nhập đã có những thông tin liên quan đến ngân hàng mục tiêu, khẳng định được rằng, NHTM mục tiêu được hình thành, quản lý và sở hữu một cách hợp pháp, không là đối tượng của các thủ tục giải thể, phá sản… Các quyền và nghĩa vụ pháp lý mà NHTM mục tiêu đã xác lập là phù hợp với pháp luật. Các ngân hàng mua lại, nhận sáp nhập đã hiểu rõ các quyền và nghĩa vụ pháp lý, chế độ pháp lý đối với các loại tài sản, hợp đồng lao động, hồ sơ đất đai, đầu tư… của NHTM mục tiêu. Qua đó giúp nhận diện được các yếu tố rủi ro để có giải pháp loại trừ. Những vấn đề này được trình bày trong dự thảo đề án mua lại, sáp nhập; hợp đồng mua lại, sáp nhập; điều lệ của NHTM nhận sáp nhập.Bốn là, các trường hợp mua lại, sáp nhập NHTM theo hình thức tự nguyện cơ bản đều tuân thủ quy định về nguyên tắc mua lại, sáp nhập; các hình thức mua lại, sáp nhập; bố cáo mua lại, sáp nhập; điều kiện để được mua lại, sáp nhập; trình tự, thủ tục mua lại, sáp nhập; hồ sơ đề nghị mua lại, sáp nhập; đề án mua lại, sáp nhập theo quy định hiện hành về việc mua lại, sáp nhập TCTD. Hợp đồng mua lại, sáp nhập đã được soạn thảo chặt chẽ, có các điều khoản về quyền và nghĩa vụ của mỗi bên, về tính hợp pháp và trách nhiệm của các bên đối với các giao dịch và nghĩa vụ xác lập trước thời điểm mua lại, sáp nhập; những rủi ro đã được nhận diện, khoanh vùng cùng phương án loại trừ và/hoặc chuyển giao một cách có điều kiện những rủi ro đó sang NHTM mua lại, nhận sáp nhập… Do việc chuẩn bị kỹ lưỡng, quá trình tư vấn pháp lý, thẩm định pháp lý được chú trọng đã giúp hoạt động mua lại, sáp nhập diễn ra thuận lợi và cũng là điều kiện để thương vụ mua lại, sáp nhập NHTM được công nhận tính hợp pháp và hợp lệ.Năm là, theo chức năng, nhiệm vụ được giao, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền liên quan đến mua lại, sáp nhập như NHNN, UBCKNN, UBND tỉnh, thành phố nơi có NHTM đặt trụ sở, chi nhánh đã thực hiện nhanh chóng, có trách nhiệm các nội dung phải thực thi theo quy định, đồng thời hỗ trợ tích cực cho các NHTM trong quá trình mua lại, sáp nhập. NHNN và các cơ quan quản lý đã theo dõi chặt chẽ hoạt động của các NHTM sau mua lại, sáp nhập để có thể can thiệp, hỗ trợ, xử lý kịp thời những khó khăn, vướng mắc nhằm bảo đảm khả năng chi trả tiền gửi của người dân và không làm gián đoạn việc cung cấp dịch vụ ngân hàng. NHNN sẵn sàng hỗ trợ về mặt thanh khoản trong trường hợp ngân hàng sau mua lại, sáp nhập gặp khó khăn về thanh khoản. NHNN đã chỉ định công ty kiểm toán độc lập quốc tế để có số liệu khách quan, làm căn cứ ban hành quyết định mua lại, sáp nhập. Sự hỗ trợ của cơ quan chức năng trong quá trình mua lại, sáp nhập được cho là rất quan trọng dẫn đến thành công của các thương vụ mua lại, sáp nhập NHTM, giúp tiết tiệm thời gian, chi phí, bảo đảm an toàn hệ thống ngân hàng.Sáu là, việc công bố thông tin khi thực hiện mua lại, sáp nhập NHTM theo hình thức tự nguyện bước đầu đã đáp ứng yêu cầu pháp luật, nhưng việc công bố thông tin khi NHNN buộc mua lại, sáp nhập NHTM yếu kém còn chưa kịp thời, không đầy đủ và liên tục đã gây ra những tranh luận không cần thiết đối với xã hội. Điều này có ý nghĩa rất quan trọng bởi nó cho thấy sự can thiệp của nhà nước đối với các ngân hàng yếu kém là mang tính khách quan, bình đẳng và minh bạch.Trên thực tế, nhiều thông tin về mua lại, sáp nhập NHTM trong quá trình thực hiện được báo chí đăng tải, suy đoán, có trường hợp khi thực hiện đàm phán đã bị rò rỉ thông tin. Trách nhiệm pháp lý của các đối tượng cung cấp thông tin về việc đàm phán chưa rõ ràng. Thông tin về việc kiểm soát đặc biệt đối với VNCB được chính thức công bố tại đại hội đồng cổ đông thường niên của ngân hàng này [99], là một trong những hình thức công bố thông tin kiểm soát đặc biệt quy định tại Điều 7, Thông tư số 07/2013/TT-NHNN ngày 14/3/2013 của NHNN. Tuy nhiên do trên các phương tiện thông tin đại chúng không có thông tin chính thức nào về việc kiểm soát đặc biệt VNCB tại thời điểm này, những thông tin chính thức về cơ sở pháp lý, thực trạng VNCB còn thiếu, chưa kịp thời, rõ ràng, minh bạch trong khi vấn đề NHNN mua lại bắt buộc VNCB tại thời điểm này được dư luận đặc biệt quan tâm. Các NHTM không tuân thủ kỷ luật công bố thông tin nghiêm túc, nên chỉ khi NHNN tuyên bố mua lại thì các cổ đông nhỏ lẻ mới được biết.Theo: Phạm Minh SơnLink luận án: Tại đây
avatar
Phạm Linh Chi
243 ngày trước
Bài viết
Đánh giá về trình tự, thủ tục mua lại, sáp nhập ngân hàng thương mại
3.7. Đánh giá về trình tự, thủ tục mua lại, sáp nhập ngân hàng thương mạiTrường hợp HBB sáp nhập vào SHB:Để triển khai sáp nhập, hai ngân hàng đã phối hợp xây dựng đề án sáp nhập, hợp đồng sáp nhập và điều lệ của SHB - là TCTD nhận sáp nhập theo quy định của Thông tư 04/2010/TT-NHNN. Dự thảo đề án sáp nhập HBB vào SHB được hội đồng quản trị của HBB trình đại hội đồng cổ đông xem xét (ngày 28/4/2012). Đối với các ngân hàng HBB và SHB, do là hai ngân hàng niêm yết nên phải có quyết định ở ba cấp thẩm quyền là đại hội đồng cổ đông, NHNN và UBCKNN mới được tiến hành sáp nhập. Phương án sáp nhập đã được hơn 85% cổ đông HBB thông qua tại Đại hội cùng các văn bản là đề án sáp nhập, hợp đồng sáp nhập, điều lệ ngân hàng sau sáp nhập, cao hơn quy định tại điều lệ của HBB là ít nhất phải được 65% tổng số cổ phần có quyền biểu quyết thông qua [147].Đại hội đồng cổ đông SHB (ngày 5/5/2012) được 99,4% cổ đông biểu quyết thông qua giao dịch sáp nhập HBB vào SHB, bao gồm cả việc thông qua đề án sáp nhập, hợp đồng sáp nhập, điều lệ của ngân hàng sau sáp nhập. Tỷ lệ hoán đổi cổ phiếu để thực hiện giao dịch sáp nhập cũng được thông qua. Theo quy định, đề án sáp nhập HBB vào SHB đã được ban lãnh đạo hai ngân hàng thông qua, hoàn tất thủ tục theo quy định, được SHB trình lên NHNN (công văn số 110/HĐQT ngày 12/6/2012). Hai ngân hàng cũng đã có văn bản thông báo sáp nhập cho Cục quản lý cạnh tranh để có ý kiến không phản đối đối với giao dịch sáp nhập. Công việc này được các bên sáp nhập xác định là một trong những điều kiện tiên quyết của hoạt động sáp nhập [147].Để được chấp thuận nguyên tắc sáp nhập, SHB và HBB đã phối hợp lập hồ sơ theo quy định gửi Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng xem xét, quyết định. Trên cơ sở ý kiến tham gia của các cơ quan, Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng đã thẩm định hồ sơ, đề xuất ý kiến, trình Thống đốc NHNN xem xét chấp thuận nguyên tắc việc sáp nhập. NHNN đã có văn bản số 3651/NHNN ngày 15/6/2012, chấp thuận về nguyên tắc việc sáp nhập HBB vào SHB. NHNN yêu cầu các ngân hàng SHB và HBB có trách nhiệm hoàn tất hồ sơ trình Thống đốc xem xét chấp thuận sáp nhập chính thức. SHB đã nộp hồ sơ xin phép phát hành chứng khoán lên UBCKNN; nhận giấy chứng nhận chào bán chứng khoán ra công chúng. Căn cứ nội dung yêu cầu hoàn tất hồ sơ, các bên đã phối hợp chỉnh sửa đề án sáp nhập, lấy ý kiến của cơ quan có thẩm quyền quyết định của ngân hàng để thông qua các nội dung thay đổi tại đề án sáp nhập và các vấn đề có liên quan, lập bộ hồ sơ theo quy định gửi Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng xem xét chấp thuận. Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng đã tiến hành thẩm định hồ sơ, đề xuất ý kiến, trình Thống đốc NHNN chấp thuận chính thức việc sáp nhập [147].Chấp thuận sáp nhập: Thống đốc NHNN đã có Quyết định số 1559/QĐ- NHNN ngày 7/8/2012 về việc sáp nhập HBB vào SHB. Quyết định có hiệu lực từ ngày 28/8/2012. Khi quyết định của Thống đốc NHNN có hiệu lực, HBB phải bàn giao toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp cho SHB. Theo quyết định, tên TCTD sau khi sáp nhập là SHB với tổng vốn điều lệ 8.865.795.470.000 đồng. Cũng tại quyết định này, NHNN thu hồi Giấy phép hoạt động của HBB. SHB có trách nhiệm tiếp nhận toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của HBB; hoàn tất các thủ tục về đăng ký doanh nghiệp và bố cáo sáp nhập theo quy định của pháp luật. Đồng thời, SHB thực hiện các nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật có liên quan. HBB có trách nhiệm bàn giao toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp cho SHB; bố cáo sáp nhập, bố cáo chấm dứt hoạt động và giải quyết các quyền và nghĩa vụ có liên quan theo quy định của pháp luật; thực hiện các nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật có liên quan. Hai bên tiến hành các thủ tục để thoái niêm yết cổ phiếu HBB tại Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội, hoàn thiện hồ sơ, xin phép UBCKNN phát hành cổ phiếu hoán đổi. SHB đã hoàn tất các thủ tục về đăng ký kinh doanh và đăng bố cáo sáp nhập theo quy định. HBB hoàn tất các thủ tục rút Giấy phép thành lập và hoạt động [143].Trường hợp NHNN mua lại bắt buộc VNCB:Theo quy định của pháp luật hiện hành, đến thời điểm hiện tại không có văn bản pháp luật nào quy định về trình tự, thủ tục mua lại, sáp nhập NHTM theo hình thức bắt buộc. Qua thực tế đối với trường hợp NHNN mua lại bắt buộc toàn bộ cổ phần của ngân hàng yếu kém và chuyển thành ngân hàng thuộc sở hữu nhà nước như áp dụng đối với VNCB, khái quát lại một số nội dung về trình tự, thủ tục mua lại bắt buộc đã được NHNN thực hiện như sau:VNCB tổ chức họp đại hội đồng cổ đông bất thường năm 2015 lần thứ 3 (ngày 31/1/2015). Tại Đại hội đã quyết định không thông qua phương án bổ sung vốn điều lệ để đảm bảo giá trị thực vốn điều lệ tối thiểu của ngân hàng bằng mức vốn pháp định (3.000 tỷ đồng). NHNN đã tuyên bố sẽ mua lại bắt buộc toàn bộ vốn cổ phần của ngân hàng với giá bằng 0 đồng/1 cổ phần [147].Ngày 05/03/2015, Thống đốc NHNN đã ban hành Quyết định số 249/QĐ- NHNN, quyết định mua toàn bộ cổ phần và chuyển đổi VNCB thành công ty TNHH một thành viên (NHTM TNHH MTV Xây dựng Việt Nam - CBBank). Thông cáo báo chí của NHNN nêu rõ, thời gian qua, hoạt động của VNCB đã bộc lộ nhiều yếu kém, việc quản trị, điều hành ngân hàng vi phạm nghiêm trọng quy định của pháp luật. Trước tình hình đó, để kiểm soát rủi ro, giảm thiểu tổn thất tài sản của ngân hàng, NHNN đã quyết định đặt VNCB vào tình trạng kiểm soát đặc biệt theo quy định của pháp luật. VNCB không có các giải pháp tái cơ cấu khả thi theo yêu cầu của NHNN. NHNN đã tuyên bố quyết định sẽ mua lại bắt buộc toàn bộ vốn cổ phần của VNCB với giá bằng 0 đồng/1 cổ phần. Theo đó, NHNN trở thành chủ sở hữu (100% vốn điều lệ) của VNCB, chấm dứt toàn bộ quyền, lợi ích và tư cách cổ đông đối với các cổ đông hiện hữu của VNCB [61].Tại Lễ công bố quyết định chuyển đổi mô hình VNCB thành CBBank, NHNN thông báo các quyết định bổ nhiệm nhân sự chủ chốt của ngân hàng: Ông Nguyễn Văn Tuân, Phó Tổng Giám đốc NHTMCP Ngoại thương Việt Nam được bổ nhiệm giữ chức Chủ tịch Hội đồng thành viên. Các cán bộ khác của NHTMCP Ngoại thương cũng được bổ nhiệm các chức vụ trong Hội đồng Thành viên, Ban Tổng Giám đốc, Ban Kiểm soát [146].Theo: Phạm Minh SơnLink luận án: Tại đây
avatar
Phạm Linh Chi
243 ngày trước
Bài viết
Nghiên cứu, phân tích một số trường hợp thực hiện mua lại, sáp nhập ngân hàng thương mại
3.5. Nghiên cứu, phân tích một số trường hợp thực hiện mua lại, sáp nhập ngân hàng thương mạiĐể phục vụ việc đánh giá thực tiễn thực hiện pháp luật về mua lại, sáp nhập NHTM ở Việt Nam hiện nay, ngoài việc nghiên cứu và phân tích chuyên sâu hai trường hợp mua lại, sáp nhập NHTM đã thực hiện trong năm 2012 và năm 2015, đó là trường hợp NHTMCP Nhà Hà Nội (HBB) sáp nhập vào NHTMCP Sài Gòn-Hà Nội (SHB) và trường hợp NHNN mua lại bắt buộc NHTMCP Xây dựng Việt Nam (VNCB), luận án cũng đã tổng hợp, phân tích một số ngân hàng khác đã thực hiện mua lại, sáp nhập trong thời gian qua (Xem chi tiết tại phần phụ lục).Đối với trường hợp HBB sáp nhập vào SHB: Các nguyên nhân gây ra khó khăn về tài chính cho HBB dẫn đến việc sáp nhập bao gồm một số lý do, trong đó nổi lên là việc tập trung dư nợ cho vay các công ty thuộc Tập đoàn Vinashin trước đây. Đây là vấn đề cốt lõi làm cho ngân hàng rơi vào tình trạng khó khăn. Việc tập trung quá nhiều vào nhóm khách hàng này (tương đương 83% vốn điều lệ của ngân hàng) dẫn đến khi kinh tế suy thoái, ngân hàng đã bị ảnh hưởng nặng nề từ việc tập trung tín dụng. Riêng chi phí huy động vốn hằng năm ngân hàng phải trả để duy trì dư nợ này đã làm ngân hàng phát sinh chi phí đến khoảng 500 tỷ đồng/năm. Với thực trạng khó khăn của HBB thì cần phải thực hiện các giải pháp toàn diện để giúp ngân hàng vượt qua giai đoạn hiện tại. Cốt lõi của giải pháp là ngân hàng phải có nguồn vốn mới để bổ sung hoạt động. Ban lãnh đạo HBB đã quyết định lựa chọn giải pháp sáp nhập HBB vào SHB do các cổ đông hiện hữu của HBB chưa sẵn sàng để góp vốn bổ sung cho HBB trong giai đoạn này [64].Đối với trường hợp NHNN mua lại bắt buộc VNCB: Trong quá trình hoạt động, một số NHTM đã được NHNN phân loại thuộc nhóm ngân hàng yếu kém cần phải tái cơ cấu, xử lý trong đó có VNCB. Trong quá trình hoạt động của VNCB đã bộc lộ nhiều yếu kém, việc quản trị, điều hành ngân hàng vi phạm nghiêm trọng quy định của pháp luật. VNCB có nợ xấu rất cao, nguy cơ mất vốn rất lớn, đã âm vốn chủ sở hữu. Trước tình hình đó, để kiểm soát rủi ro, giảm thiểu tổn thất tài sản của ngân hàng, NHNN đã quyết định đặt VNCB vào tình trạng kiểm soát đặc biệt theo quy định của pháp luật. Đại hội đồng cổ đông của các ngân hàng này được tổ chức nhưng không thông qua được kế hoạch tăng vốn điều lệ để đảm bảo mức vốn pháp định theo quy định. Để xử lý dứt điểm các vấn đề của VNCB, Thống đốc NHNN đã ban hành Quyết định số 249/QĐ-NHNN ngày 05/03/2015 về việc mua toàn bộ cổ phần và chuyển đổi VNCB thành công ty TNHH một thành viên với tên gọi là NHTM TNHH MTV Xây dựng Việt Nam (CBBank) [61]*Về tiêu chuẩn, điều kiện thực hiện mua lại, sáp nhập ngân hàng thương mạiTrường hợp HBB sáp nhập vào SHB:Thương vụ HBB sáp nhập vào SHB là hình thức sáp nhập được phép của một NHTM sáp nhập với một NHTM trong nước, thực hiện tự nguyện giữa các bên tham gia sáp nhập, không thuộc trường hợp tập trung kinh tế bị cấm theo quy định của Luật cạnh tranh. Hai bên đã phối hợp xây dựng đề án sáp nhập theo quy định tại Thông tư 04/2010/TT-NHNN của NHNN. Đề án sáp nhập giữa hai ngân hàng SHB và HBB xác định vốn điều lệ mới của ngân hàng sau sáp nhập là vốn điều lệ cộng ngang của hai ngân hàng, được phân chia cho các cổ đông của SHB và HBB theo tỷ lệ trong thỏa thuận hợp tác đã được ký kết giữa hai ngân hàng. Ngân hàng sau khi sáp nhập đăng ký vốn điều lệ mới của ngân hàng là 8.865.795.470.000 đồng. Đề án sáp nhập xác định theo Luật kế toán và Nghị định số 57/2012/NĐ-CP ngày 20/7/2012 của Chính phủ, lỗ phát sinh trong quá trình hoạt động kinh doanh không được cấn trừ vào vốn điều lệ mà được mang sang thành lỗ lũy kế trong các năm tiếp theo và TCTD phải có trách nhiệm sử dụng lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh để bù đắp cho khoản lỗ lũy kế này [64]. Tuy nhiên, sau này khi Thông tư số 36/2014/TT-NHNN ngày 20/11/2014 của NHNN quy định các giới hạn, tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đã quy định giá trị thực của vốn điều lệ được xác định bằng vốn điều lệ thực góp, vốn được cấp, cộng (trừ) lợi nhuận lũy kế chưa phân phối.Đề án sáp nhập hai ngân hàng cũng cho biết, báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của HBB đã được kiểm toán soát xét đặc biệt theo yêu cầu của NHNN và tạo ra một khoản lỗ 4.066 tỷ đồng so với vốn điều lệ là 4.050 tỷ đồng. Tuy nhiên, để đảm bảo quyền lợi cho các cổ đông cũng như tạo thuận lợi cho sự phát triển của ngân hàng sau sáp nhập, SHB sau sáp nhập đã đề nghị xin cổ đông thông qua phương án trích dự phòng rủi ro cho các khoản cho vay và đầu tư trái phiếu của Vinashin trong vòng 5 năm, mỗi năm khoảng 372 tỷ đồng dự phòng cho vay và 75,2 tỷ đồng dự phòng trái phiếu Vinashin. Theo đó, số lỗ lũy kế HBB tại thời điểm 29/02/2012 sẽ là 1.829 tỷ đồng [64]. Nếu không xử lý trích lập dự phòng như vậy, trường hợp HBB có khoản lỗ lớn hơn vốn điều lệ sẽ bị mua lại bắt buộc theo quy định hiện hành chứ không thể thực hiện tự nguyện giữa các bên.Theo yêu cầu của Thông tư số 13/2010-TT-NHNN ngày 20/5/2010 của NHNN, các TCTD cần duy trì tỷ lệ an toàn tối thiểu ở mức 9%. Trong giai đoạn từ năm 2010 - 2012, tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu của SHB luôn ở mức trên 13% (tính đến ngày 31/12/2011 là 13,37%; đến ngày 29/02/2012 là 15,39%). Đối với HBB, tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu của HBB tính đến ngày 31/12/2011 là 16,45%, đến ngày 29/02/2012 là 18,81%. Điều này thể hiện mức độ an toàn cao của các tài sản ngân hàng trước các rủi ro tiềm ẩn trong hoạt động kinh doanh đặc biệt trong điều kiện kinh tế bất ổn hiện nay. Tuy nhiên tỷ lệ nợ xấu của HBB trong giai đoạn 2008-2011 đã tăng lên từ 3,2% năm 2008 lên 4,4% vào năm 2011 (không bao gồm dư nợ cho vay Vinashin), so với các ngân hàng cùng quy mô là tương đối cao (khoảng 2,5%). Nếu tính cả dư nợ cho vay Vinashin, tỷ lệ nợ xấu trong năm 2010 và 2011 là sẽ là 15,16% và 16,73% [64].Đề án sáp nhập HBB vào SHB được SHB trình trong đại hội đồng cổ đông có những nội dung chính theo quy định của Thông tư 04/2010/TT-NHNN của NHNN. Các yêu cầu về giải quyết quyền, lợi ích hợp pháp của người lao động được đảm bảo và làm rõ trong đề án sáp nhập. Do HBB sáp nhập vào SHB, không phải hợp nhất nên ngân hàng sau sáp nhập vẫn giữ pháp nhân của SHB và hoạt động với Hội đồng Quản trị và Ban điều hành của SHB. Về cơ bản, ngân hàng sau sáp nhập vẫn giữ nguyên cơ cấu nhân sự hiện tại của SHB, có bổ sung thêm một số cá nhân có năng lực quản trị và năng lực chuyên môn từ HBB mà SHB đánh giá đáp ứng đủ điều kiện để tham gia điều hành. Cơ cấu nhân sự của hội đồng quản trị, ban kiểm soát cuối cùng được đại hội đồng cổ đông quyết định. Bộ máy tổ chức của HBB sau khi sáp nhập sẽ được thực hiện theo bộ máy tổ chức của SHB. Ngân hàng sau sáp nhập sẽ tiếp tục và sử dụng tất cả những cán bộ, nhân viên hiện tại của SHB và HBB vào Ngày sáp nhập. Cán bộ nhân viên thì căn cứ theo năng lực và nhu cầu sẽ được tiếp nhận nguyên nhưng sẽ sắp xếp công việc theo năng lực phù hợp nghiệp vụ, bộ máy tổ chức, đảm bảo sau sáp nhập hoạt động chuyên nghiệp [64].Trường hợp NHNN mua lại bắt buộc VNCBVề mặt pháp lý, VNCB đã rơi vào ít nhất một trong các trường hợp phải áp dụng biện pháp kiểm soát đặc biệt theo quy định tại Khoản 3, Điều 146 Luật các TCTD (2010) về áp dụng kiểm soát đặc biệt, đó là có nguy cơ mất khả năng chi trả; nợ không có khả năng thu hồi có nguy cơ dẫn đến mất khả năng thanh toán; khi số lũy kế lớn hơn 50% giá trị thực của vốn điều lệ và các quỹ dự trữ ghi trong báo cáo tài chính đã được kiểm toán; hai năm liên tục bị xếp loại yếu kém; không duy trì được tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu trong thời hạn một năm liên tục... Với tổn thất tài chính nặng nề, trong khi VNCB không có các giải pháp tái cơ cấu khả thi theo yêu cầu của NHNN, NHNN đã đặt VNCB trong tình trạng kiểm soát đặc biệt và khẳng định việc mua lại bắt buộc toàn bộ cổ phần của các ngân hàng yếu kém này. Đây là điều kiện tiên quyết để NHNN mua lại bắt buộc toàn bộ cổ phần của VNCB [61].Để thực hiện mua lại bắt buộc đối với VNCB, NHNN đã dựa trên một số cơ sở pháp lý là: Luật NHNN Việt Nam (2010); Luật các TCTD (2010); Luật doanh nghiệp (năm 2005 và 2014); Quyết định số 254/QĐ-TTg ngày 01/3/2012 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt “Đề án cơ cấu lại các tổ chức tín dụng giai đoạn 2011- 2015”; Quyết định số 255/QĐ-TTg ngày 01/3/2012 của Thủ tướng Chính phủ (đây Quyết định mật nên không rõ tên gọi và nội dung); Quyết định số 48/2013/QĐ-TTg ngày 01/08/2013 của Thủ tướng Chính phủ về việc góp vốn, mua cổ phần bắt buộc của TCTD được kiểm soát đặc biệt.Theo: Phạm Minh SơnLink luận án: Tại đây
Xem thêm