Nguyên nhân hạn chế hoạt động của Cơ quan Cảnh sát điều tra
3.5. Nguyên nhân hạn chế hoạt động của Cơ quan Cảnh sát điều tra
Những hạn chế, bất cập trong hoạt động của Cơ quan CSĐT xuất phát từ những nguyên nhân cơ bản sau:
Hệ thống pháp luật TTHS mặc dù tương đối phù hợp nhưng thời gian
Theo báo cáo số 46/BC-VKSTC-VP ngày 15/5/2012 của VKSND tối cao cho thấy từ 01/10/2010 đến 30/4/2012, VKS các cấp đã yêu cầu khởi tố 644 vụ, 644 bị can, trực tiếp khởi tố điều tra 68 vụ, 33 bị can; hủy 128 quyết định không khởi tố vụ án và 167 quyết định không khởi tố bị can của CQĐT (trong đó khoảng 80% là của Cơ quan CSĐT) ban hành, áp dụng cũng đã hơn một thập niên. Trong khi đó, do tốc độ phát triển kinh tế - xã hội rất nhanh nên công tác quản lý xã hội cũng phát sinh nhiều vấn đề nóng và phức tạp, đặc biệt tình hình hoạt động của tội phạm ngày càng diễn biến phức tạp và có xu hướng gia tăng [Phụ lục, bảng 1.1]. Do đó, những quy định của pháp luật TTHS hiện hành về Cơ quan CSĐT đã bộc lộ những bất cập nhất định, không còn phù hợp với tình hình, đòi hỏi phải có sự nghiên cứu, sửa đổi. Những bất cập này sẽ tác động và làm ảnh hưởng đến hiệu quả của Cơ quan CSĐT. Đặc biệt, Cơ quan CSĐT lại là cơ quan chủ công trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm và các vi phạm pháp luật nói chung, điều tra tội phạm nói riêng.
- Xã hội phát triển nhanh và nóng. Tuy nhiên, hằng năm do phải giải quyết một số lượng án rất lớn nên các cơ quan tư pháp nói chung và ngành CAND nói riêng ít có thời gian để thường xuyên tổng kết, đánh giá về kết quả thực hiện Bộ luật TTHS, Pháp lệnh tổ chức ĐTHS và các văn bản pháp luật TTHS khác. Đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến công tác nghiên cứu, tìm ra những bất cập của pháp luật để đề xuất cơ quan có thẩm quyền hoàn thiện chưa kịp thời.
- Tình hình tội phạm ngày càng diễn biến phức tạp. Các đối tượng phạm tội về kinh tế, hình sự, ma tuý, tham nhũng, môi trường, tội phạm sử dụng công nghệ cao ngày càng có xu hướng đan xen, câu kết, liên kết chặt chẽ, mở rộng qui mô gây án, lôi kéo nhiều thành phần đối tượng trong xã hội kể cả cán bộ, công chức tham gia vào các tổ chức tội phạm. Người phạm tội ngày càng được trẻ hoá, hoạt động manh động, tính chất bạo lực gia tăng, chống trả với cường độ quyết liệt hơn khi bị phát hiện bắt giữ nhất là tội phạm về trật tự an toàn xã hội, ma tuý so với những năm trước đây. Công tác dự báo về tình hình tội phạm đôi lúc còn chưa đầy đủ, chính xác với thực trạng và diễn biến của tình hình thực tế, do vậy, đã ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của Cơ quan Cảnh sát điều tra.
- Do vụ việc về hình sự xảy ra với số lượng lớn, vừa phải bảo đảm thời hạn điều tra, thời hạn giam giữ theo luật định, vừa thiếu ĐTV, cho nên lực lượng trinh sát tập trung hỗ trợ ĐTV xác minh, điều tra vụ việc được tố giác và vụ án đã khởi tố nên chưa quan tâm đầy đủ hoạt động phòng ngừa nghiệp vụ, một trong những nhiệm vụ chiến lược cơ bản của lực lượng CAND nói chung và của Cơ quan CSĐT nói riêng. Thêm vào đó, do tốc độ đô thị hoá rất nhanh ở nhiều địa phương đã thành lập nhiều CA cấp phường, dẫn đến phải điều động cả ĐTV và trinh sát viên về công tác ở CA cơ sở … dẫn đến không đủ cán bộ để thực hiện công tác nghiệp vụ cơ bản. Vì vậy, dẫn đến công tác nghiệp vụ cơ bản phần nào bị “buông lỏng”, hiệu quả thấp.
- Năng lực của đội ngũ ĐTV mặc dù đã được nâng lên rất nhiều trong những năm gần đây. Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại một số hạn chế dẫn đến công tác điều tra, xử lý tội phạm đôi lúc còn kéo dài thời hạn điều tra, phải gia hạn điều tra; có vụ án sau khi khởi tố điều tra phải tạm đình chỉ do chưa xác định người phạm tội; còn nhiều sơ hở, thiếu sót và vi phạm, thậm chí vi phạm nghiêm trọng như dùng nhục hình, bức cung, mớm cung, đánh chết người bị tạm giữ; điều này chứng tỏ một số cán bộ điều tra, ĐTV ý thức trách nhiệm, ý thức pháp luật kém; công tác kiểm tra việc thi hành pháp luật ở một số đơn vị, địa phương chưa được coi trọng dẫn đến các vi phạm pháp luật chưa được phát hiện chấn chỉnh, xử lý kịp thời.
- Việc bố trí, sắp xếp ĐTV còn nhiều bất cập, chưa hợp lý. Án xảy ra nhiều ở hệ CSĐT tội phạm về TTXH nhưng số lượng ĐTV lại thiếu. Trong khi đó các hệ khác như CSĐT tội phạm về kinh tế, tham nhũng án xảy ra ít nhưng lại bố trí nhiều ĐTV. Điều này xuất phát từ nhiều nguyên nhân trong đó có nguyên nhân từ tâm lý, mong muốn chủ quan của các ĐTV vì nếu công tác ở hệ CSĐT tội phạm về TTXH sẽ vất vả, áp lực công việc cao do số lượng án xảy ra nhiều và có xu hướng ngày càng tăng.
- Phân công trách nhiệm và cơ chế lãnh đạo chỉ huy trong Cơ quan CSĐT chưa hợp lý còn chồng chéo giữa chức năng quản lý hành chính nhà nước với chức năng nhiệm vụ, quyền hạn trong hoạt động TTHS. Thủ trưởng Cơ quan CSĐT ở địa phương chưa đánh giá đúng vai trò, vị trí của Văn phòng Cơ quan CSĐT nên Văn phòng Cơ quan CSĐT chưa phát huy hết chức năng nhiệm vụ tham mưu, giúp việc cho Thủ trưởng Cơ quan CSĐT Công an cấp tỉnh, hạn chế đến kết quả quản lý và chỉ đạo toàn bộ hoạt động điều tra của Thủ trưởng Cơ quan Cảnh sát điều tra.
- Công tác đào tạo, bồi dưỡng, bổ nhiệm cán bộ làm công tác điều tra, đấu tranh phòng, chống tội phạm còn phát sinh một số bất cập, công tác đào tạo cán bộ điều tra còn nặng về lý luận, chưa gắn kết chặt chẽ với thực tiễn; chế độ, chính sách cho người tiến hành tố tụng trong Cơ quan CSĐT đã có sự quan tâm nhưng chưa phù hợp với tình hình. Cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện kỹ thuật chuyên dùng và các điều kiện khác phục vụ công tác điều tra tội phạm tuy đã được tăng cường nhưng vẫn còn thiếu hoặc lạc hậu. Đặc biệt, hiện nay Cơ quan CSĐT Công an cấp huyện đã được tăng thẩm quyền điều tra và Cơ quan CSĐT này hằng năm điều tra, giải quyết trên 80% số lượng án nhưng chưa có sự quan tâm đúng mức về tăng cường cán bộ, đầu tư cơ sở vật chất, trang bị phương tiện, kinh phí nghiệp vụ…
3.6. Giải pháp và kiến nghị nâng cao hiệu quả hoạt động của Cơ quan Cảnh sát điều tra
3.6.1. Yêu cầu của cải cách tư pháp đối với việc hoàn thiện Cơ quan Cảnh sát điều tra
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng công tác cải cách tư pháp. Do đó, nhiều chủ trương lớn đã được ban hành như: Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/11/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, kết luận số 92-KL/TW ngày 12/3/2014 về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 49- NQ/TW ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị khóa IX về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, văn kiện Đại hội toàn quốc lần thứ IX, X, XI. Đặc biệt, việc hoàn thiện Cơ quan CSĐT cũng cần nghiên cứu, cụ thể hóa tinh thần của Hiến pháp năm 2013 quy định về quyền con người, quyền cơ bản của công dân...
Trên cơ sở các chủ trương, chỉ đạo của Đảng và Nhà nước về cải cách tư pháp có thể xác định việc hoàn thiện Cơ quan CSĐT cần thực hiện các định hướng, yêu cầu sau:
- Cần xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và hoàn thiện tổ chức của các cơ quan tiến hành tố tụng, trong đó có Cơ quan CSĐT. Đặc biệt, cần xác định rõ nhiệm vụ của cơ quan điều tra trong mối quan hệ với các cơ quan khác được giao một số hoạt động điều tra theo hướng cơ quan điều tra chuyên trách điều tra tất cả các vụ án hình sự, các cơ quan khác chỉ tiến hành một số hoạt động điều tra sơ bộ và tiến hành một số biện pháp điều tra theo yêu cầu của cơ quan điều tra chuyên trách. Trước mắt, tiếp tục thực hiện mô hình tổ chức CQĐT theo pháp luật hiện hành[7]. Tuy nhiên, trong thời gian tới cần kiện toàn một số bước để nâng cao năng lực, hiệu quả hoạt động của CQĐT, đồng thời nghiên cứu và chuẩn bị mọi điều kiện để tiến tới tổ chức lại hệ thống CQĐT theo hướng thu gọn đầu mối.
- Hoàn thiện chính sách, pháp luật về hình sự, dân sự, thủ tục tố tụng tư pháp và về tổ chức bộ máy các cơ quan tư pháp, bảo đảm tính khoa học, đồng bộ, đề cao tính độc lập, khách quan, tuân thủ pháp luật của từng cơ quan và chức danh tư pháp[33,tr.250].
- Xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp, nhất là cán bộ có chức danh tư pháp, theo hướng đề cao quyền hạn, trách nhiệm pháp lý, nâng cao và cụ thể hóa tiêu chuẩn về chính trị, phẩm chất đạo đức, chuyên môn nghiệp vụ và kinh nghiệm, kiến thức xã hội đối với từng loại cán bộ...[8].
- Bảo đảm cơ sở vật chất cho hoạt động tư pháp (trong đó có Cơ quan CSĐT), từng bước xây dựng trụ sở làm việc của các Cơ quan tư pháp khang trang, hiện đại, đầy đủ tiện nghi. Ưu tiên trang bị phương tiện phục vụ công tác điều tra, đấu tranh phòng chống tội phạm. Khẩn trương xây dựng trụ sở làm việc của các cơ quan tư pháp cấp huyện; nâng cấp nhà tạm giam theo đề án đã được Chính phủ phê duyệt. Tăng cường áp dụng công nghệ thông tin vào hoạt động của các cơ quan tư pháp [8].
Để thực hiện chủ trương trên, các ngành chức năng về tư pháp đã thực hiện nhiều công tác như: thành lập Ban Chỉ đạo thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp; thực hiện các Đề án thành phần; xây dựng dự thảo sửa đổi, bổ sung Bộ luật TTHS; xây dựng dự thảo Luật tổ chức ĐTHS...Riêng BCA đã tổ chức tổng kết thi hành Pháp lệnh tổ chức ĐTHS, triển khai nghiên cứu Đề án tổ chức lại CQĐT theo hướng thu gọn đầu mối...
Như vậy, có thể nói chủ trương cải cách tư pháp đã thể hiện sự quyết tâm của Đảng và Nhà nước ta nhằm xây dựng một nền tư pháp hiệu lực, hiệu quả. Nội dung của công tác cải cách là rất lớn, trong đó có sự đổi mới, hoàn thiện Cơ quan Cảnh sát điều tra.
Theo: Vũ Duy Công
Link luận án: Tại đây