0888889366
Tra cứu thông tin hợp đồng
timeline_post_file64e71991a4c2d-Khái-quát-chung-về-tài-chính-vi-mô-và-tổ-chức-tài-chính-vi-mô.jpeg

Khái quát chung về tài chính vi mô và tổ chức tài chính vi mô

1. Khái quát chung về tài chính vi mô và tổ chức tài chính vi mô

1.1. Quá trình hình thành và phát triển của tài chính vi mô

Quá trình hình thành và phát triển của tài chính vi mô trên thế giới

Như chúng ta đã biết, hoạt động tín dụng đã xuất hiện từ khá lâu và có những đóng góp nhất định với lịch sử phát triển của xã hội loài người. Tín dụng tác động đến hầu hết các lĩnh vực của đời sống kinh tế nhưng có lẽ, hoạt động cấp tín dụng cho khu vực nông thôn (tín dụng nông thôn) luôn có ý nghĩa xã hội vô cùng lớn vì nó giúp cho những bộ phận có thu nhập thấp của xã hội có cơ hội tiếp cận với các nguồn tài chính cần thiết để xúc tiến các hoạt động kinh tế của mình. Chính bởi lý do này nên các chương trình tín dụng nông thôn đã thực sự được chú trọng và phát triển mạnh trong khoảng thời gian từ những năm 50 đến những năm 70 của thế kỷ trước. Đặc trưng cơ bản của loại hình tín dụng này là mang nặng tính bao cấp: khoản vay được cấp cho những người có thu nhập thấp mang nặng tính xã hội khi có mức lãi suất khá thấp. Điều này thực sự rất có ý nghĩa đối với khách hàng vay vốn bởi họ có được những nguồn tài chính nhất định với mức lãi nhỏ để phục vụ cuộc sống bản thân và gia đình. Tuy nhiên, các tổ chức tín dụng cho vay thì rất khó khăn trong việc tìm kiếm lợi nhuận từ những đối tượng khách hàng này: Lãi suất thường thấp hơn lãi suất thị trường và mức độ rủi ro trong việc thu hồi nợ luôn ở mức cao. Do vậy, có thể thấy, tín dụng nông thôn trong khoảng thời gian này có cách tiếp cận không thực sự bền vững khi không thể tự bảo đảm cho sự tồn tại của chính mình.

Để đảm bảo sự phát triển bền vững của các chương trình cho vay đối với khu vực nghèo, đói, một cách tiếp cận mới, bền vững hơn so với tín dụng nông thôn đương đại đã xuất hiện vào cuối những năm 70, dầu những năm 80 của thế kỷ trước: Việc cho vay đối với các đối tượng cần giúp đỡ sẽ không dựa trên nền của sự bao cấp mà dựa trên sự tồn tại và phát triển bền vững của chính tổ chức cho vay và khách hàng vay vốn qua việc xác định hoạt động cho vay, kể cả đối với những khách hàng đặc biệt nghèo, cũng phải là một hoạt động kinh doanh thực thụ - có lợi nhuận - và đó chính là cách tiếp cận của TCVM. Cũng chính vì mục tiêu lợi nhuận luôn được đặt ra bên cạnh mục đích trợ giúp xã hội nên TCVM thường có mức lãi suất cho vay cao hơn, thậm chí là cao hơn khá nhiều so với các chương trình tín dụng nông thôn khác có sự bao cấp của nhà nước. Mặc dù vậy, trong khoảng thời gian này, TCVM ở một số quốc gia vẫn tìm được cho mình một chỗ đứng trong nền kinh tế bởi mấy lý do cơ bản sau đây:

Thứ nhất, đối tượng tiếp cận của TCVM thường là những người đặc biệt nghèo trong xã hội nhưng những điều kiện cần thiết để có thể tiếp cận đến các nguồn vốn trợ giúp của các chương trình tín dụng nông thôn có sự bao cấp của nhà nước lại thường không hội tụ đủ (ví dụ như điều kiện về tài sản, điều kiện về sự bảo lãnh bằng tín chấp của một tổ chức chính trị xã hội…) và vì vậy, họ không thể vay được từ các chương trình tín dụng nông thôn có sự bao cấp của nhà nước;

Thứ hai, khác với các chương trình tín dụng nông thôn có sự bao cấp của nhà nước không thực sự sát sao với việc sử dụng vốn một cách có hiệu quả của người vay thì TCVM lại “dạy” cho những người vay vốn biết cách sinh lời từ những đồng vốn vay một cách hiệu quả;

Thứ ba, các chương trình tín dụng nông thôn có sự bao cấp của nhà nước khi thực hiện việc thu nợ vẫn áp dụng theo cách thức truyền thống: ai vay, người đó trả và hầu như không có bất cứ cá nhân nào khác phải có trách nhiệm đối với khoản vay đó thì TCVM thường cho vay đến từng cá nhân nhưng lại gắn trách nhiệm trả nợ đến từng nhóm người3. Điều này tạo sức ép cho khá nhiều người khi trong nhóm có thành viên có khả năng không trả được nợ, buộc họ phải tạo những điều kiện có thể để thành viên đó kinh doanh có hiệu quả nhằm đảm bảo cho khả năng trả nợ của mình.

Cách tiếp cận mới về tín dụng dành cho các khách hàng có thu nhập thấp ở khu vực nông thôn đã đòi hỏi sự xuất hiện của các thể chế mới - các tổ chức TCVM - để thực hiện điều này. Những tổ chức TCVM đầu tiên trên thế giới ra đời vào cuối những năm 70, đầu những năm 80 ở Nam Á (Bangladesh – được cấp phép thành lập năm 1976) sau đó phát triển dần sang Mỹ La tinh, Đông Nam Á và gần đây bắt đầu phát triển sang các quốc gia thuộc Châu Phi, Nam Thái Bình Dương, Trung quốc và cả ở các quốc gia thuộc Liên Xô cũ. Theo khảo sát của SBP (chương trình cho vay bền vững hộ nghèo của NH thế giới - WB), các tổ chức TCVM phát triển nhanh nhất ở Châu Á (chiếm khoảng 80%), đứng thứ hai là Châu Mỹ La tinh (chiếm khoảng 15%) và cuối cũng là các quốc gia Châu Phi (với khoảng 5%). Các tổ chức TCVM tồn tại ở các quốc gia khác nhau có những mô hình tồn tại và hoạt động khá đa dạng song nhìn chung, các tổ chức này đều có những đóng góp đáng kể vào công cuộc xóa đói nghèo của quốc gia và trong một chừng mực nhất định, cũng đảm bảo được những điều kiện cần thiết để có thể dần trở nên độc lập trước các nguồn vốn tài trợ ban đầu [80]. Về số lượng các tổ chức TCVM thì cũng khó có thể có được một con số thống kê chính xác song, cũng theo khảo sát của SBP thì ngay từ năm 1995, chỉ tính riêng những tổ chức TCVM có thời gian tồn tại trên 3 năm với trên 1000 khách hàng thì toàn thế giới cũng đã đạt đến con số 1000 tổ chức với khoảng 46 triệu lượt tiết kiệm và 14 triệu lượt cho vay. Sự lan rộng một cách nhanh chóng của các tổ chức TCVM cả về số lượng tổ chức cũng như phạm vi khách hàng được phục vụ là một minh chứng hùng hồn cho sự thành công của cách tiếp cận mới trong công cuộc xóa đói nghèo trên toàn thế giới trong giai đoạn hiện nay.

Mặc dù hoạt động TCVM ngày càng phát triển mạnh mẽ ở các quốc gia, đặc biệt là các nước đang phát triển, nhưng mô hình tổ chức của các chủ thể hoạt động TCVM ở thì không giống nhau hoàn toàn mà trái lại, khá đa dạng và phong phú: ở một số nước, hoạt động này được thực hiện bởi các tổ chức TCVM, ở một số khác lại được thực hiện bởi hệ thống NH hay hợp tác xã tín dụng và cũng có những nước, TCVM được thực hiện bởi các chương trình, dự án xóa đói giảm nghèo… Tuy nhiên, một số mô hình tổ chức thực hiện khá thành công hoạt động TCVM trên thế giới bao gồm:

Một là, mô hình NH Grameen ở Bangladesh (Grameen Bank): Đây là một tổ chức TCVM nhưng được thành lập dưới dạng một NH thực thụ nhưng hoạt động theo một cơ chế khác biệt so với các NHTM: không phải tuân theo cơ chế lãi suất trần, không bị ràng buộc bởi các quy định của Hiệp hội NH và bắt buộc khách hàng phải chấp nhận mức lãi suất khá cao (lớn hơn tỷ lệ lạm phát+chi phí vốn) đồng thời phải có tiền gửi tiết kiệm bắt buộc để thay thế cho tài sản bảo đảm…

Hai là, mô hình tổ chức phi chính phủ hoạt động TCVM: Ở mô hình này, hoạt động TCVM được thực hiện thông qua các chương trình, dự án của các tổ chức phi chính phủ nhằm giúp xóa đói giảm nghèo. Điển hình của mô hình này là BRAAC của Bangladesh.
Ba là, mô hình NH làng: Đây là mô hình mà hoạt động TCVM được cung cấp đến khách hàng thông qua các NH nhỏ ở địa phương. Thành công với mô hình này có BRI và BPRs của Indonesia và các Bancomunales ở Costarica;

Bốn là, mô hình các hợp tác xã tín dụng: Ở mô hình này, hoạt động TCVM được thực hiện qua hình thức pháp lý là các hợp tác xã tín dụng. Mô hình này được áp dụng khá thành công ở Srilanca và Nam Thái Bình dương. Một biến thể của mô hình này là CULT - Hội liên hiệp tín dụng Thái lan, hoạt động theo Luật Hợp tác xã Thái lan;

Theo: Nguyễn Thái Hà

Link luận án:  Tại đây

avatar
Phạm Linh Chi
842 ngày trước
Khái quát chung về tài chính vi mô và tổ chức tài chính vi mô
1. Khái quát chung về tài chính vi mô và tổ chức tài chính vi mô1.1. Quá trình hình thành và phát triển của tài chính vi môQuá trình hình thành và phát triển của tài chính vi mô trên thế giớiNhư chúng ta đã biết, hoạt động tín dụng đã xuất hiện từ khá lâu và có những đóng góp nhất định với lịch sử phát triển của xã hội loài người. Tín dụng tác động đến hầu hết các lĩnh vực của đời sống kinh tế nhưng có lẽ, hoạt động cấp tín dụng cho khu vực nông thôn (tín dụng nông thôn) luôn có ý nghĩa xã hội vô cùng lớn vì nó giúp cho những bộ phận có thu nhập thấp của xã hội có cơ hội tiếp cận với các nguồn tài chính cần thiết để xúc tiến các hoạt động kinh tế của mình. Chính bởi lý do này nên các chương trình tín dụng nông thôn đã thực sự được chú trọng và phát triển mạnh trong khoảng thời gian từ những năm 50 đến những năm 70 của thế kỷ trước. Đặc trưng cơ bản của loại hình tín dụng này là mang nặng tính bao cấp: khoản vay được cấp cho những người có thu nhập thấp mang nặng tính xã hội khi có mức lãi suất khá thấp. Điều này thực sự rất có ý nghĩa đối với khách hàng vay vốn bởi họ có được những nguồn tài chính nhất định với mức lãi nhỏ để phục vụ cuộc sống bản thân và gia đình. Tuy nhiên, các tổ chức tín dụng cho vay thì rất khó khăn trong việc tìm kiếm lợi nhuận từ những đối tượng khách hàng này: Lãi suất thường thấp hơn lãi suất thị trường và mức độ rủi ro trong việc thu hồi nợ luôn ở mức cao. Do vậy, có thể thấy, tín dụng nông thôn trong khoảng thời gian này có cách tiếp cận không thực sự bền vững khi không thể tự bảo đảm cho sự tồn tại của chính mình.Để đảm bảo sự phát triển bền vững của các chương trình cho vay đối với khu vực nghèo, đói, một cách tiếp cận mới, bền vững hơn so với tín dụng nông thôn đương đại đã xuất hiện vào cuối những năm 70, dầu những năm 80 của thế kỷ trước: Việc cho vay đối với các đối tượng cần giúp đỡ sẽ không dựa trên nền của sự bao cấp mà dựa trên sự tồn tại và phát triển bền vững của chính tổ chức cho vay và khách hàng vay vốn qua việc xác định hoạt động cho vay, kể cả đối với những khách hàng đặc biệt nghèo, cũng phải là một hoạt động kinh doanh thực thụ - có lợi nhuận - và đó chính là cách tiếp cận của TCVM. Cũng chính vì mục tiêu lợi nhuận luôn được đặt ra bên cạnh mục đích trợ giúp xã hội nên TCVM thường có mức lãi suất cho vay cao hơn, thậm chí là cao hơn khá nhiều so với các chương trình tín dụng nông thôn khác có sự bao cấp của nhà nước. Mặc dù vậy, trong khoảng thời gian này, TCVM ở một số quốc gia vẫn tìm được cho mình một chỗ đứng trong nền kinh tế bởi mấy lý do cơ bản sau đây:Thứ nhất, đối tượng tiếp cận của TCVM thường là những người đặc biệt nghèo trong xã hội nhưng những điều kiện cần thiết để có thể tiếp cận đến các nguồn vốn trợ giúp của các chương trình tín dụng nông thôn có sự bao cấp của nhà nước lại thường không hội tụ đủ (ví dụ như điều kiện về tài sản, điều kiện về sự bảo lãnh bằng tín chấp của một tổ chức chính trị xã hội…) và vì vậy, họ không thể vay được từ các chương trình tín dụng nông thôn có sự bao cấp của nhà nước;Thứ hai, khác với các chương trình tín dụng nông thôn có sự bao cấp của nhà nước không thực sự sát sao với việc sử dụng vốn một cách có hiệu quả của người vay thì TCVM lại “dạy” cho những người vay vốn biết cách sinh lời từ những đồng vốn vay một cách hiệu quả;Thứ ba, các chương trình tín dụng nông thôn có sự bao cấp của nhà nước khi thực hiện việc thu nợ vẫn áp dụng theo cách thức truyền thống: ai vay, người đó trả và hầu như không có bất cứ cá nhân nào khác phải có trách nhiệm đối với khoản vay đó thì TCVM thường cho vay đến từng cá nhân nhưng lại gắn trách nhiệm trả nợ đến từng nhóm người3. Điều này tạo sức ép cho khá nhiều người khi trong nhóm có thành viên có khả năng không trả được nợ, buộc họ phải tạo những điều kiện có thể để thành viên đó kinh doanh có hiệu quả nhằm đảm bảo cho khả năng trả nợ của mình.Cách tiếp cận mới về tín dụng dành cho các khách hàng có thu nhập thấp ở khu vực nông thôn đã đòi hỏi sự xuất hiện của các thể chế mới - các tổ chức TCVM - để thực hiện điều này. Những tổ chức TCVM đầu tiên trên thế giới ra đời vào cuối những năm 70, đầu những năm 80 ở Nam Á (Bangladesh – được cấp phép thành lập năm 1976) sau đó phát triển dần sang Mỹ La tinh, Đông Nam Á và gần đây bắt đầu phát triển sang các quốc gia thuộc Châu Phi, Nam Thái Bình Dương, Trung quốc và cả ở các quốc gia thuộc Liên Xô cũ. Theo khảo sát của SBP (chương trình cho vay bền vững hộ nghèo của NH thế giới - WB), các tổ chức TCVM phát triển nhanh nhất ở Châu Á (chiếm khoảng 80%), đứng thứ hai là Châu Mỹ La tinh (chiếm khoảng 15%) và cuối cũng là các quốc gia Châu Phi (với khoảng 5%). Các tổ chức TCVM tồn tại ở các quốc gia khác nhau có những mô hình tồn tại và hoạt động khá đa dạng song nhìn chung, các tổ chức này đều có những đóng góp đáng kể vào công cuộc xóa đói nghèo của quốc gia và trong một chừng mực nhất định, cũng đảm bảo được những điều kiện cần thiết để có thể dần trở nên độc lập trước các nguồn vốn tài trợ ban đầu [80]. Về số lượng các tổ chức TCVM thì cũng khó có thể có được một con số thống kê chính xác song, cũng theo khảo sát của SBP thì ngay từ năm 1995, chỉ tính riêng những tổ chức TCVM có thời gian tồn tại trên 3 năm với trên 1000 khách hàng thì toàn thế giới cũng đã đạt đến con số 1000 tổ chức với khoảng 46 triệu lượt tiết kiệm và 14 triệu lượt cho vay. Sự lan rộng một cách nhanh chóng của các tổ chức TCVM cả về số lượng tổ chức cũng như phạm vi khách hàng được phục vụ là một minh chứng hùng hồn cho sự thành công của cách tiếp cận mới trong công cuộc xóa đói nghèo trên toàn thế giới trong giai đoạn hiện nay.Mặc dù hoạt động TCVM ngày càng phát triển mạnh mẽ ở các quốc gia, đặc biệt là các nước đang phát triển, nhưng mô hình tổ chức của các chủ thể hoạt động TCVM ở thì không giống nhau hoàn toàn mà trái lại, khá đa dạng và phong phú: ở một số nước, hoạt động này được thực hiện bởi các tổ chức TCVM, ở một số khác lại được thực hiện bởi hệ thống NH hay hợp tác xã tín dụng và cũng có những nước, TCVM được thực hiện bởi các chương trình, dự án xóa đói giảm nghèo… Tuy nhiên, một số mô hình tổ chức thực hiện khá thành công hoạt động TCVM trên thế giới bao gồm:Một là, mô hình NH Grameen ở Bangladesh (Grameen Bank): Đây là một tổ chức TCVM nhưng được thành lập dưới dạng một NH thực thụ nhưng hoạt động theo một cơ chế khác biệt so với các NHTM: không phải tuân theo cơ chế lãi suất trần, không bị ràng buộc bởi các quy định của Hiệp hội NH và bắt buộc khách hàng phải chấp nhận mức lãi suất khá cao (lớn hơn tỷ lệ lạm phát+chi phí vốn) đồng thời phải có tiền gửi tiết kiệm bắt buộc để thay thế cho tài sản bảo đảm…Hai là, mô hình tổ chức phi chính phủ hoạt động TCVM: Ở mô hình này, hoạt động TCVM được thực hiện thông qua các chương trình, dự án của các tổ chức phi chính phủ nhằm giúp xóa đói giảm nghèo. Điển hình của mô hình này là BRAAC của Bangladesh.Ba là, mô hình NH làng: Đây là mô hình mà hoạt động TCVM được cung cấp đến khách hàng thông qua các NH nhỏ ở địa phương. Thành công với mô hình này có BRI và BPRs của Indonesia và các Bancomunales ở Costarica;Bốn là, mô hình các hợp tác xã tín dụng: Ở mô hình này, hoạt động TCVM được thực hiện qua hình thức pháp lý là các hợp tác xã tín dụng. Mô hình này được áp dụng khá thành công ở Srilanca và Nam Thái Bình dương. Một biến thể của mô hình này là CULT - Hội liên hiệp tín dụng Thái lan, hoạt động theo Luật Hợp tác xã Thái lan;Theo: Nguyễn Thái HàLink luận án:  Tại đây