Pháp luật về mua lại, sáp nhập ngân hàng thương mại
2.1. Pháp luật về mua lại, sáp nhập ngân hàng thương mại
2.1.1.Mua lại, sáp nhập ngân hàng thương mại
*Ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại được biết đến như một định chế tài chính mà đặc trưng là cung cấp đa dạng các dịch vụ tài chính, với nghiệp vụ cơ bản là nhận tiền gửi, cho vay và cung ứng các dịch vụ thanh toán, ngoài ra còn có nhiều dịch vụ khác nhằm thỏa mãn tối đa nhu cầu về sản phẩm dịch vụ của xã hội. Trong nghiên cứu của mình, Peter. S. Rose (2000) định nghĩa: “Ngân hàng là loại hình tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất - đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán - và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế” [136, tr.7]. Theo Ngân hàng thế giới, ngân hàng là tổ chức tài chính nhận tiền gửi chủ yếu dưới dạng không kỳ hạn hoặc tiền gửi được rút ra với một thông báo ngắn hạn (tiền gửi không kỳ hạn, có kỳ hạn và các khoản tiết kiệm) [50]. Luật các TCTD Việt Nam năm 2010 quy định NHTM là loại hình ngân hàng được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác theo quy định của Luật này nhằm mục tiêu lợi nhuận. Hoạt động ngân hàng là việc kinh doanh, cung ứng thường xuyên một hoặc một số các nghiệp vụ nhận tiền gửi, cấp tín dụng, cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản.
Từ những quan niệm trên, NHTM được hiểu một cách khái quát như sau: Ngân hàng thương mại là doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng, được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng với nghiệp vụ thường xuyên là nhận tiền gửi, cấp tín dụng và cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản cho khách hàng nhằm mục tiêu lợi nhuận.
Ngân hàng thương mại là một loại hình doanh nghiệp đặc biệt với một số đặc điểm rõ nét để nhận diện. Những đặc điểm của NHTM đó là:
Thứ nhất, hoạt động ngân hàng có những đặc thù mà các lĩnh vực sản xuất kinh doanh thông thường không có, đó là được nhận tiền gửi, cấp tín dụng và cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản liên quan đến lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng cho khách hàng. Không một định chế tài chính nào ngoài NHTM có thể nhận tiền gửi từ các tổ chức và cá nhân trong nền kinh tế. Những hoạt động ngân hàng, trực tiếp hoặc gián tiếp, đều liên quan đến tiền tệ. Điều này làm cho hoạt động ngân hàng không giống với những hoạt động kinh doanh khác.
Thứ hai, khác với doanh nghiệp thông thường, hoạt động của NHTM được kiểm soát nghiêm ngặt và các quốc gia đều xây dựng cơ sở pháp lý chặt chẽ để các chủ thể ngân hàng, các bên liên quan có cơ sở pháp lý thực hiện hoạt động ngân hàng và buộc phải thực hiện trong khung pháp lý đó, đồng thời để nhà nước có cơ sở can thiệp đối với NHTM nhằm không xảy ra đổ vỡ, mất an toàn hệ thống. Các doanh nghiệp thông thường có thể phá sản nhưng chỉ một ngân hàng đổ vỡ thì hậu quả sẽ rất nặng nề, có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến tình hình chính trị, kinh tế, xã hội của quốc gia mà trực tiếp là đến quyền, lợi ích hợp pháp của người gửi tiền và các bên có liên quan. Do những hậu quả to lớn như vậy, nhiều quốc gia thậm chí còn không cho phép NHTM được sụp đổ. Việc kiểm soát khắt khe hoạt động kinh doanh của ngân hàng cũng như thiết lập một khung pháp lý chặt chẽ cho hoạt động ngân hàng so với doanh nghiệp thông thường chủ yếu để bảo vệ lợi ích của toàn xã hội, trong đó có quyền lợi của người gửi tiền.
Thứ ba, hoạt động ngân hàng được yêu cầu phải liên tục, ổn định cao nhất so với các loại hình doanh nghiệp khác. Hàng ngày hoạt động NHTM liên quan đến rất nhiều khách hàng, vì thế việc ngân hàng gián đoạn hoạt động kinh doanh mà không công bố thông tin kịp thời theo quy định đều dẫn đến việc khách hàng lầm tưởng hoạt động ngân hàng đang có vấn đề, gây tâm lý tiêu cực đối với khách hàng và có thể mang lại những rủi ro to lớn cho ngân hàng và cả nền kinh tế. Trong mọi trường hợp trừ nguyên nhân bất khả kháng, ngân hàng không được tự ý ngừng hoạt động kinh doanh nếu không công bố thông tin theo quy định hoặc ngừng hoạt động kinh doanh quá thời gian quy định.
Thứ tư, hoạt động kinh doanh của NHTM tiềm ẩn nguy cơ rủi ro cao hơn so với các loại hình kinh doanh khác. Với quyền nhận tiền gửi không hạn chế về số lượng, ngân hàng luôn trong trạng thái vừa là chủ nợ, vừa có nghĩa vụ trả nợ, do đó sẽ phải chịu áp lực lớn từ khả năng rút tiền hàng loạt của người gửi tiền. Người gửi tiền được pháp luật bảo vệ bằng quyền rút tiền bất cứ lúc nào miễn là trong thời gian giao dịch, trong khi ngân hàng không được đòi nợ trước hạn mà không có lý do chính đáng. Nếu xảy ra tình trạng rút tiền hàng loạt của người gửi tiền tại một thời điểm nhất định sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến khả năng thanh toán của ngân hàng [36, tr.10]. Bên cạnh đó, rủi ro trong hoạt động ngân hàng còn xuất phát từ rủi ro tín dụng, rủi ro thanh khoản, rủi ro thị trường, rủi ro lãi suất và nhiều nguyên nhân khác.
Thứ năm, các chủ thể hoạt động ngân hàng phải đáp ứng các điều kiện nghiêm ngặt về vốn, an toàn vốn, cơ sở vật chất, hệ thống thông tin, bảo mật, chuyên môn nghiệp vụ... Chỉ khi nào NHTM thỏa mãn đầy đủ những điều kiện nghiêm ngặt do pháp luật quy định thì mới được cơ quan quản lý ngân hàng cho phép hoạt động trên thị trường. Khi một ngân hàng muốn mở rộng hoạt động như sáp nhập với một ngân hàng mới, thiết lập văn phòng chi nhánh đều phải được sự đồng ý của cơ quan quản lý ngân hàng.
Theo: Phạm Minh Sơn
Link luận án: Tại đây