TRƯỜNG HỢP NÀO ĐƯỢC LOẠI TRỪ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ?
Trách nhiệm hình sự là một khía cạnh quan trọng của hệ thống pháp luật để đảm bảo tính công bằng và an toàn trong xã hội. Tuy nhiên, không phải lúc nào cũng có trách nhiệm hình sự trong mọi tình huống. Trong bài viết này, chúng ta sẽ tìm hiểu về 7 trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự, đồng thời nhấn mạnh tầm quan trọng của việc hiểu rõ và tuân thủ pháp luật.
Loại trừ trách nhiệm hình sự là gì?
Theo quy định tại Điều 2 Bộ luật hình sự thì “Chỉ người nào phạm một tội đã được luật hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự”. Như vậy, cơ sở của trách nhiệm hình sự là hành vi phạm tội mà tội phạm như quy định tại khoản 1 Điều 8 Bộ luật hình sự phải hội tụ đủ các yếu tố cấu thành tội phạm. Các yếu tố đó, theo khoa học luật hình sự Việt Nam được thừa nhận trong các sách báo, giáo trình giảng dạy tại các trường đại học và sau đại học bao gồm: Khách thể, mặt khách quan, chủ thể, mặt chủ quan. Một hành vi bị coi là tội phạm khi nó hội tụ đủ bốn yếu tố cấu thành tội phạm, ngược lại là không phải là tội phạm và người có hành vi không bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Vì vậy, khi nghiên cứu các trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự không thể không nghiên cứu tội phạm và các yếu tố cấu thành tội phạm. Ngược lại khi nghiên cứu tội phạm không thể không nhiên cứu các trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự.
Loại trừ trách nhiệm hình sự là trường hợp một người có hành vi gây thiệt hại hoặc đe dọa gây ra thiệt hại cho xã hội, nhưng theo pháp luật họ không bị truy cứu trách nhiệm hình sự
Loại trừ trách nhiệm hình sự cũng có thể được hiểu là hành vi không cấu thành tội phạm, nhưng loại trừ trách nhiệm hình sự có nội dung cụ thể hơn, còn hành vi không cấu thành tội phạm chủ yếu mang tính lý luận, và nó được nghiên cứu dưới góc độ khái niệm tội phạm, tính chất của tội phạm cũng như các đặc điểm của tội phạm.
Loại trừ trách nhiệm hình sự không đồng nghĩa với miễn trách nhiệm hình sự. Miễn trách nhiệm hình sự là trường hợp một người có hành vi, và hành vi đó có đủ yếu tố cấu thành tội phạm (có tội phạm xảy ra) nhưng họ được Viện kiểm sát hoặc Tòa án miễn trách nhiệm hình sự. Một người phạm tội có thể được miễn trách nhiệm hình sự, nếu khi tiến hành điều tra, truy tố hoặc xét xử, do sự chuyển biến của tình hình mà hành vi phạm tội hoặc người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa, hoặc trước khi hành ví phạm tội được phát giác, người phạm tội đã tự thú, khai rõ sự việc góp phần có hiệu quả vào việc phát hiện và điều tra tội phạm, cố gắng hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả của tội phạm (Điều 25 Bộ luật hình sự). Miễn trách nhiệm hình sự là trường hợp lẽ ra người phạm tội phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nhưng vì có lý do chính đáng nên họ được miễn. Còn loại trừ trách nhiệm hình sự là người có hành vi không bị coi là phạm tội, và theo quy định của pháp luật thì họ không bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, suy cho cùng thì miễn trách nhiệm hình sự cũng là không bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nên trong phạm vi cuốn sách này chúng ta cũng sẽ nghiên cứu cả những trường hợp được miễn trách nhiệm hình sự.
Các trường hợp được loại trừ trách nhiệm hình sự
Chương IV Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) quy định 07 trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự, bao gồm:
(1) Sự kiện bất ngờ
Người thực hiện hành vi gây hậu quả nguy hại cho xã hội trong trường hợp không thể thấy trước hoặc không buộc phải thấy trước hậu quả của hành vi đó, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự.
(2) Tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự
Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần, một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự.
(3) Phòng vệ chính đáng
- Phòng vệ chính đáng là hành vi của người vì bảo vệ quyền hoặc lợi ích chính đáng của mình, của người khác hoặc lợi ích của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức mà chống trả lại một cách cần thiết người đang có hành vi xâm phạm các lợi ích nói trên.
Phòng vệ chính đáng không phải là tội phạm.
- Vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng là hành vi chống trả rõ ràng quá mức cần thiết, không phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi xâm hại.
Người có hành vi vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật này.
(4) Tình thế cấp thiết
- Tình thế cấp thiết là tình thế của người vì muốn tránh gây thiệt hại cho quyền, lợi ích hợp pháp của mình, của người khác hoặc lợi ích của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức mà không còn cách nào khác là phải gây một thiệt hại nhỏ hơn thiệt hại cần ngăn ngừa.
Hành vi gây thiệt hại trong tình thế cấp thiết không phải là tội phạm.
- Trong trường hợp thiệt hại gây ra rõ ràng vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết, thì người gây thiệt hại đó phải chịu trách nhiệm hình sự.
(5) Gây thiệt hại trong khi bắt giữ người phạm tội
- Hành vi của người để bắt giữ người thực hiện hành vi phạm tội mà không còn cách nào khác là buộc phải sử dụng vũ lực cần thiết gây thiệt hại cho người bị bắt giữ thì không phải là tội phạm.
- Trường hợp gây thiệt hại do sử dụng vũ lực rõ ràng vượt quá mức cần thiết, thì người gây thiệt hại phải chịu trách nhiệm hình sự.
(6) Rủi ro trong nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ
- Hành vi gây ra thiệt hại trong khi thực hiện việc nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ mới mặc dù đã tuân thủ đúng quy trình, quy phạm, áp dụng đầy đủ biện pháp phòng ngừa thì không phải là tội phạm.
- Người nào không áp dụng đúng quy trình, quy phạm, không áp dụng đầy đủ biện pháp phòng ngừa mà gây thiệt hại thì vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự.
(7) Thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc của cấp trên
- Người thực hiện hành vi gây thiệt hại trong khi thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc của cấp trên trong lực lượng vũ trang nhân dân để thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh nếu đã thực hiện đầy đủ quy trình báo cáo người ra mệnh lệnh nhưng người ra mệnh lệnh vẫn yêu cầu chấp hành mệnh lệnh đó, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự. Trong trường hợp này người ra mệnh lệnh phải chịu trách nhiệm hình sự.
- Quy định này không áp dụng đối với các trường hợp sau:
+ Phạm tội “Phá hoại hòa bình, gây chiến tranh xâm lược” trong trường hợp do bị ép buộc hoặc do thi hành mệnh lệnh của cấp trên.
+ Phạm tội “Chống loài người” trong trường hợp do bị ép buộc hoặc do thi hành mệnh lệnh của cấp trên.
+ Phạm tội “Tội phạm chiến tranh” trong trường hợp do bị ép buộc hoặc do thi hành mệnh lệnh của cấp trên.
Kết luận
Loại trừ trách nhiệm hình sự là một phần quan trọng của hệ thống pháp luật để đảm bảo sự công bằng và hiểu rõ quyền và trách nhiệm của mọi người. Tuy nhiên, điều quan trọng là tuân thủ pháp luật và hiểu rõ các quy định cụ thể tại địa phương. Để biết thêm thông tin chi tiết về thủ tục pháp luật và quy định liên quan, bạn có thể truy cập Thủ tục pháp luật.