QUY ĐỊNH VỀ KHIẾU NẠI QUYẾT ĐỊNH KHÔNG KHỞI TỐ VỤ ÁN CỦA CƠ QUAN ĐIỀU TRA
Khiếu nại quyết định không khởi tố vụ án của cơ quan điều tra là một quyền và quy trình quan trọng trong hệ thống pháp luật hình sự. Điều này cho phép cơ quan, tổ chức và cá nhân có quyền, lợi ích hợp pháp liên quan đến vụ án tham gia vào quá trình kiểm tra và xem xét lại những quyết định của cơ quan điều tra. Việc này không chỉ thể hiện sự minh bạch và tính công bằng trong quá trình tố tụng hình sự mà còn đảm bảo rằng quyền và lợi ích của mọi người được bảo vệ đúng theo luật.
1. Cơ quan điều tra đưa ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự
Quyết định không khởi tố vụ án hình sự, tiếng Anh gọi là "Decision not to press criminal charges," là một hành vi pháp lý của chủ thể có thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự, được thể hiện thông qua một văn bản quyết định không tiến hành hoặc chấm dứt mọi hoạt động tố tụng hình sự đã hoặc đang tiến hành đối với sự kiện pháp lý hoặc thông tin thu được về những vụ việc, hành vi của con người nào đó bị nghi ngờ là tội phạm.
Quyết định không khởi tố vụ án hình sự là việc chủ thể có thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự khẳng định thái độ của họ dựa trên căn cứ pháp lý xác đáng không khởi tố vụ án. Quyết định này có thể là việc không triển khai hoặc chấm dứt mọi hoạt động và hủy bỏ mọi hình thức phản ánh mang tính chất tố tụng hình sự đối với một sự kiện, vấn đề hoặc những thông tin cụ thể mà trước đó bị nghi là có dấu hiệu tội phạm. Căn cứ pháp lý cho việc không khởi tố vụ án hình sự được quy định cụ thể tại Điều 157 của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015.
Quyết định không khởi tố vụ án hình sự và quyết định hủy bỏ quyết định khởi tố vụ án hình sự được điều chỉnh chi tiết tại Điều 158 của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015:
- Khi có một trong các căn cứ quy định tại Điều 157 của Bộ luật này, người có quyền khởi tố vụ án ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự; nếu đã khởi tố thì phải ra quyết định hủy bỏ quyết định khởi tố vụ án hình sự và thông báo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân đã tố giác, báo tin về tội phạm, kiến nghị khởi tố biết rõ lý do; nếu xét thấy cần xử lý bằng biện pháp khác thì chuyển hồ sơ cho cơ quan có thẩm quyền giải quyết.
Quyết định không khởi tố vụ án hình sự, quyết định hủy bỏ quyết định khởi tố vụ án hình sự và các tài liệu có liên quan phải gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện kiểm sát có thẩm quyền trong thời hạn 24 giờ kể từ khi ra quyết định.
- Cơ quan, tổ chức, cá nhân đã tố giác hoặc báo tin về tội phạm có quyền khiếu nại quyết định không khởi tố vụ án hình sự. Thẩm quyền và thủ tục giải quyết khiếu nại được thực hiện theo quy định tại Chương XXXIII của Bộ luật này.
Dù là trường hợp nào thì hành vi tố tụng của người quyết định không khởi tố vụ án hình sự cũng phải tuân theo đúng quy định của pháp luật về thủ tục, hình thức văn bản, nội dung và thẩm quyền của người ký. Cơ quan có thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự cũng là cơ quan có thẩm
2. Quy định về khiếu nại quyết định không khởi tố vụ án của cơ quan điều tra
Hệ thống Cơ quan Điều tra
- Cơ quan Điều tra của Công an nhân dân.
- Cơ quan Điều tra trong Quân đội nhân dân.
- Cơ quan Điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Cán bộ điều tra của Cơ quan điều tra trong tố tụng hình sự bao gồm:
- Cán bộ điều tra thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn sau đây theo sự phân công của Điều tra viên:
a) Ghi biên bản lấy lời khai, ghi biên bản hỏi cung và ghi các biên bản khác khi Điều tra viên tiến hành kiểm tra, xác minh nguồn tin về tội phạm và điều tra vụ án hình sự;
b) Giao, chuyển, gửi các lệnh, quyết định và các văn bản tố tụng khác theo quy định của Bộ luật này;
c) Hỗ trợ Điều tra viên trong việc lập hồ sơ giải quyết nguồn tin về tội phạm, hồ sơ vụ án và thực hiện hoạt động tố tụng khác.
- Cán bộ điều tra phải chịu trách nhiệm trước pháp luật và trước Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Điều tra viên về hành vi của họ.
3. Ai là người có quyền khiếu nại
- Cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền khiếu nại quyết định và hành vi tố tụng của cơ quan hoặc người có thẩm quyền tiến hành tố tụng khi có căn cứ cho rằng quyết định hoặc hành vi đó là trái pháp luật và xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của họ.
- Đối với bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật, bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án, cáo trạng hoặc quyết định truy tố, quyết định áp dụng thủ tục rút gọn, quyết định của Hội đồng xét xử sơ thẩm, Hội đồng xét xử phúc thẩm, Hội đồng giám đốc thẩm, Hội đồng tái thẩm, Hội đồng xét giảm thời hạn hoặc miễn chấp hành hình phạt, tha tù trước thời hạn có điều kiện nếu có khiếu nại, kháng cáo, kháng nghị thì giải quyết theo quy định tại các chương XXI, XXII, XXIV, XXV, XXVI và XXXI của Bộ luật này.
Các quyết định và hành vi tố tụng có thể bị khiếu nại bao gồm:
– Quyết định tố tụng có thể bị khiếu nại là các quyết định của Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên, Chánh án, Phó Chánh án Tòa án, Thẩm phán, người có thẩm quyền tiến hành một số hoạt động điều tra được ban hành theo quy định của Bộ luật này.
– Hành vi tố tụng có thể bị khiếu nại là hành vi được thực hiện trong hoạt động tố tụng của Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Cán bộ điều tra, Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên, Chánh án, Phó Chánh án Tòa án, Thẩm phán, Thẩm tra viên, người được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra được thực hiện theo quy định của Bộ luật này.
Nội dung đơn khiếu nại quyết định không khởi tố vụ án hình sự bao gồm:
– Họ tên và địa chỉ của người khiếu nại.
– Ghi rõ thông tin về cơ quan ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự, số quyết định, ngày tháng năm ra quyết định, và người ký quyết định.
– Nội dung khiếu nại phải bao gồm: Tóm tắt việc khiếu nại, quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm. Cuối đơn phải có cam kết của người khiếu nại về toàn bộ nội dung trình bày là đúng sự thật và chịu mọi trách nhiệm trước pháp luật.
Đơn khiếu nại sẽ kèm theo các căn cứ và chứng cứ chứng minh quyết định không khởi tố vụ án hình sự là trái pháp luật và xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của họ.
4. Thẩm quyền và thời hạn giải quyết khiếu nại
Thẩm quyền và thời hạn giải quyết khiếu nại đối với Điều tra viên, Cán bộ điều tra, Phó Thủ trưởng và Thủ trưởng Cơ quan điều tra, người được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra được quy định tại Điều 475, Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 như sau:
- Khiếu nại đối với quyết định, hành vi tố tụng của Điều tra viên, Cán bộ điều tra, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra, trừ khiếu nại về việc giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt, tạm giữ, tạm giam do Thủ trưởng Cơ quan điều tra xem xét, giải quyết trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày nhận được khiếu nại.
- Nếu không đồng ý với quyết định giải quyết của Thủ trưởng Cơ quan điều tra thì trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày nhận được quyết định giải quyết khiếu nại, người khiếu nại có quyền khiếu nại đến Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp.
- Trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày nhận được khiếu nại, Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp phải xem xét, giải quyết. Quyết định giải quyết của Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp là quyết định có hiệu lực pháp luật.
- Khiếu nại đối với quyết định, hành vi tố tụng của Thủ trưởng Cơ quan điều tra và các quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra đã được Viện kiểm sát phê chuẩn, do Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp giải quyết trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày nhận được khiếu nại.
- Nếu không đồng ý với quyết định giải quyết của Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp thì trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày nhận được quyết định giải quyết khiếu nại, người khiếu nại có quyền khiếu nại đến Viện trưởng Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp hoặc Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao nếu việc giải quyết khiếu nại lần đầu do Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh giải quyết.
- Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được khiếu nại, Viện trưởng Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao phải xem xét, giải quyết. Quyết định giải quyết của Viện trưởng Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao là quyết định có hiệu lực pháp luật.
- Khiếu nại đối với quyết định, hành vi tố tụng của cấp phó, cán bộ điều tra của cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, trừ việc giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt, tạm giữ do cấp trưởng cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra xem xét, giải quyết trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày nhận được khiếu nại.
- Nếu không đồng ý với quyết định giải quyết của cấp trưởng thì trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày nhận được quyết định giải quyết khiếu nại, người khiếu nại có quyền khiếu nại đến Viện kiểm sát thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra.
- rong thời hạn 07 ngày kể từ ngày nhận được khiếu nại, Viện trưởng Viện kiểm sát phải xem xét, giải quyết. Quyết định giải quyết của Viện trưởng Viện kiểm sát là quyết định có hiệu lực pháp luật.
- Khiếu nại đối với quyết định, hành vi tố tụng của cấp trưởng cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra do Viện trưởng Viện kiểm sát thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra xem xét, giải quyết.
- Trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày nhận được khiếu nại, Viện trưởng Viện kiểm sát phải xem xét, giải quyết. Quyết định giải quyết của Viện trưởng Viện kiểm sát là quyết định có hiệu lực pháp luật.
Thời hiệu khiếu nại là 15 ngày kể từ ngày người khiếu nại nhận được hoặc biết được quyết định, hành vi tố tụng mà người đó cho rằng có vi phạm pháp luật. Trong trường hợp vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan mà người khiếu nại không thực hiện được quyền khiếu nại theo đúng thời hiệu, thì thời gian có lý do bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan đó không tính vào thời hiệu khiếu nại.
Kết luận:
Khiếu nại quyết định không khởi tố vụ án của cơ quan điều tra là một quá trình quan trọng trong hệ thống pháp luật hình sự, đảm bảo tính công bằng và minh bạch trong quá trình tố tụng hình sự. Điều này cho phép mọi cá nhân, tổ chức và cơ quan có quyền, lợi ích hợp pháp liên quan đến vụ án tham gia vào quyết định của cơ quan điều tra. Nhờ vào quyền khiếu nại này, mọi người có cơ hội đảm bảo rằng quyền và lợi ích của họ được bảo vệ đúng theo luật và mọi quyết định của cơ quan điều tra đều tuân theo quy định của pháp luật.