0888889366
Tra cứu thông tin hợp đồng
timeline_post_file650120847ca8d-Phân-Chia-Di-Sản-Khi-Có-Sự-Xuất-Hiện-của-Người-Thừa-Kế-Mới.png

Phân Chia Di Sản Khi Có Sự Xuất Hiện của Người Thừa Kế Mới

Việc phân chia di sản sau khi một người qua đời thường xuyên là một vấn đề phức tạp và nhạy cảm. Thậm chí còn phức tạp hơn khi trong quá trình này xuất hiện những thay đổi bất ngờ, như việc có người thừa kế mới xuất hiện sau khi quá trình phân chia di sản đã diễn ra. Trường hợp này đặt ra nhiều câu hỏi về quyền và trách nhiệm của tất cả các bên liên quan và đòi hỏi sự can thiệp cẩn thận từ pháp luật.

I. Người Phân Chia Di Sản:

Theo quy định của Điều 657 trong Bộ luật Dân sự 2015, người phân chia di sản là cá nhân hoặc tổ chức được quyền thực hiện việc chia tài sản của người đã qua đời, được ủy quyền trong di chúc hoặc được những người thừa kế thỏa thuận cử ra.

Một người phân chia di sản có trách nhiệm rất quan trọng trong quá trình thực hiện di chúc hoặc phân chia di sản theo quy định của pháp luật. Họ phải đảm bảo rằng việc chia tài sản được thực hiện một cách công bằng và theo đúng di chúc hoặc thỏa thuận của những người thừa kế theo quy định của pháp luật.

II. Người Phân Chia Di Sản và Người Quản Lý Di Sản:

Căn cứ khoản 1 Điều 657 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về người phân chia di sản như sau:

“Người phân chia di sản

1. Người phân chia di sản có thể đồng thời là người quản lý di sản được chỉ định trong di chúc hoặc được những người thừa kế thỏa thuận cử ra.”

Theo đó, người phân chia di sản có thể đồng thời là người quản lý di sản được chỉ định trong di chúc hoặc được những người thừa kế thỏa thuận cử ra.

Điều này có nghĩa rằng, người qua đời có quyền ủy quyền cho người mình tin tưởng để quản lý và phân chia tài sản sau khi họ ra đi. Tuy nhiên, điều này phụ thuộc vào di chúc hoặc thỏa thuận cụ thể của người qua đời và các người thừa kế. Trong trường hợp không có ủy quyền nào được chỉ định, người phân chia di sản và người quản lý di sản có thể là hai cá nhân hoàn toàn khác nhau.

III. Phân Chia Di Sản Khi Xuất Hiện Người Thừa Kế Mới:

Căn cứ khoản 1 Điều 662 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về phân chia di sản trong trường hợp có người thừa kế mới hoặc có người thừa kế bị bác bỏ quyền thừa kế như sau:

“Phân chia di sản trong trường hợp có người thừa kế mới hoặc có người thừa kế bị bác bỏ quyền thừa kế

1. Trường hợp đã phân chia di sản mà xuất hiện người thừa kế mới thì không thực hiện việc phân chia lại di sản bằng hiện vật, nhưng những người thừa kế đã nhận di sản phải thanh toán cho người thừa kế mới một khoản tiền tương ứng với phần di sản của người đó tại thời điểm chia thừa kế theo tỷ lệ tương ứng với phần di sản đã nhận, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.”

Theo đó, trường hợp đã phân chia di sản mà xuất hiện người thừa kế mới thì không cần thực hiện lại việc phân chia di sản bằng hiện vật. Tuy nhiên, những người thừa kế đã nhận di sản phải thanh toán cho người thừa kế mới một khoản tiền tương ứng với phần di sản của người đó tại thời điểm chia thừa kế theo tỷ lệ tương ứng với phần di sản đã nhận, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.

Điều này có nghĩa là người thừa kế mới không nhận trực tiếp tài sản của người qua đời mà sẽ nhận tiền tương đương giá trị phần di sản của họ. Tất nhiên, nếu các bên có thỏa thuận khác, quy định này có thể thay đổi.

IV. Thời Hiệu Để Yêu Cầu Phân Chia Di Sản:

Căn cứ khoản 1 Điều 623 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về thời hiệu thừa kế như sau:

“Thời hiệu thừa kế

1. Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản, 10 năm đối với động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế. Hết thời hạn này thì di sản thuộc về người thừa kế đang quản lý di sản đó. Trường hợp không có người thừa kế đang quản lý di sản thì di sản được giải quyết như sau:

a) Di sản thuộc quyền sở hữu của người đang chiếm hữu theo quy định tại Điều 236 của Bộ luật này;

b) Di sản thuộc về Nhà nước, nếu không có người chiếm hữu quy định tại điểm a khoản này.”

Theo đó, thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là:

  • Đối với di sản là bất động sản, thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm kể từ thời điểm mở thừa kế.
  • Đối với di sản là động sản, thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 10 năm kể từ thời điểm mở thừa kế.

Khi hết thời hạn quy định này mà người thừa kế không có yêu cầu chia di sản, di sản sẽ thuộc quyền sở hữu của người thừa kế đang quản lý di sản đó. Tuy nhiên, có một quy định khác cũng quan trọng, đó là về xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu do chiếm hữu, được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật. Theo Điều 236 của Bộ luật Dân sự 2015, người chiếm hữu, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật trong thời hạn 10 năm đối với động sản và 30 năm đối với bất động sản sẽ trở thành chủ sở hữu tài sản đó, kể từ thời điểm bắt đầu chiếm hữu, trừ trường hợp có quy định khác.

Kết Luận:

Trong Bộ luật Dân sự 2015 của Việt Nam, người phân chia di sản có quyền đồng thời là người quản lý di sản và có quyền ủy quyền cho người thứ ba. Khi xuất hiện người thừa kế mới sau quá trình phân chia di sản, không cần thực hiện lại việc phân chia bằng hiện vật, mà người thừa kế mới sẽ nhận tiền tương đương giá trị phần di sản của họ. Thời hiệu để yêu cầu chia di sản là rất quan trọng, và nếu quá thời hạn, di sản có thể thuộc quyền sở hữu của người thừa kế đang quản lý hoặc của người chiếm hữu theo thời hiệu do chiếm hữu.

 

avatar
Nguyễn Diễm Quỳnh
470 ngày trước
Phân Chia Di Sản Khi Có Sự Xuất Hiện của Người Thừa Kế Mới
Việc phân chia di sản sau khi một người qua đời thường xuyên là một vấn đề phức tạp và nhạy cảm. Thậm chí còn phức tạp hơn khi trong quá trình này xuất hiện những thay đổi bất ngờ, như việc có người thừa kế mới xuất hiện sau khi quá trình phân chia di sản đã diễn ra. Trường hợp này đặt ra nhiều câu hỏi về quyền và trách nhiệm của tất cả các bên liên quan và đòi hỏi sự can thiệp cẩn thận từ pháp luật.I. Người Phân Chia Di Sản:Theo quy định của Điều 657 trong Bộ luật Dân sự 2015, người phân chia di sản là cá nhân hoặc tổ chức được quyền thực hiện việc chia tài sản của người đã qua đời, được ủy quyền trong di chúc hoặc được những người thừa kế thỏa thuận cử ra.Một người phân chia di sản có trách nhiệm rất quan trọng trong quá trình thực hiện di chúc hoặc phân chia di sản theo quy định của pháp luật. Họ phải đảm bảo rằng việc chia tài sản được thực hiện một cách công bằng và theo đúng di chúc hoặc thỏa thuận của những người thừa kế theo quy định của pháp luật.II. Người Phân Chia Di Sản và Người Quản Lý Di Sản:Căn cứ khoản 1 Điều 657 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về người phân chia di sản như sau:“Người phân chia di sản1. Người phân chia di sản có thể đồng thời là người quản lý di sản được chỉ định trong di chúc hoặc được những người thừa kế thỏa thuận cử ra.”Theo đó, người phân chia di sản có thể đồng thời là người quản lý di sản được chỉ định trong di chúc hoặc được những người thừa kế thỏa thuận cử ra.Điều này có nghĩa rằng, người qua đời có quyền ủy quyền cho người mình tin tưởng để quản lý và phân chia tài sản sau khi họ ra đi. Tuy nhiên, điều này phụ thuộc vào di chúc hoặc thỏa thuận cụ thể của người qua đời và các người thừa kế. Trong trường hợp không có ủy quyền nào được chỉ định, người phân chia di sản và người quản lý di sản có thể là hai cá nhân hoàn toàn khác nhau.III. Phân Chia Di Sản Khi Xuất Hiện Người Thừa Kế Mới:Căn cứ khoản 1 Điều 662 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về phân chia di sản trong trường hợp có người thừa kế mới hoặc có người thừa kế bị bác bỏ quyền thừa kế như sau:“Phân chia di sản trong trường hợp có người thừa kế mới hoặc có người thừa kế bị bác bỏ quyền thừa kế1. Trường hợp đã phân chia di sản mà xuất hiện người thừa kế mới thì không thực hiện việc phân chia lại di sản bằng hiện vật, nhưng những người thừa kế đã nhận di sản phải thanh toán cho người thừa kế mới một khoản tiền tương ứng với phần di sản của người đó tại thời điểm chia thừa kế theo tỷ lệ tương ứng với phần di sản đã nhận, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.”Theo đó, trường hợp đã phân chia di sản mà xuất hiện người thừa kế mới thì không cần thực hiện lại việc phân chia di sản bằng hiện vật. Tuy nhiên, những người thừa kế đã nhận di sản phải thanh toán cho người thừa kế mới một khoản tiền tương ứng với phần di sản của người đó tại thời điểm chia thừa kế theo tỷ lệ tương ứng với phần di sản đã nhận, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.Điều này có nghĩa là người thừa kế mới không nhận trực tiếp tài sản của người qua đời mà sẽ nhận tiền tương đương giá trị phần di sản của họ. Tất nhiên, nếu các bên có thỏa thuận khác, quy định này có thể thay đổi.IV. Thời Hiệu Để Yêu Cầu Phân Chia Di Sản:Căn cứ khoản 1 Điều 623 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về thời hiệu thừa kế như sau:“Thời hiệu thừa kế1. Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản, 10 năm đối với động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế. Hết thời hạn này thì di sản thuộc về người thừa kế đang quản lý di sản đó. Trường hợp không có người thừa kế đang quản lý di sản thì di sản được giải quyết như sau:a) Di sản thuộc quyền sở hữu của người đang chiếm hữu theo quy định tại Điều 236 của Bộ luật này;b) Di sản thuộc về Nhà nước, nếu không có người chiếm hữu quy định tại điểm a khoản này.”Theo đó, thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là:Đối với di sản là bất động sản, thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm kể từ thời điểm mở thừa kế.Đối với di sản là động sản, thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 10 năm kể từ thời điểm mở thừa kế.Khi hết thời hạn quy định này mà người thừa kế không có yêu cầu chia di sản, di sản sẽ thuộc quyền sở hữu của người thừa kế đang quản lý di sản đó. Tuy nhiên, có một quy định khác cũng quan trọng, đó là về xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu do chiếm hữu, được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật. Theo Điều 236 của Bộ luật Dân sự 2015, người chiếm hữu, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật trong thời hạn 10 năm đối với động sản và 30 năm đối với bất động sản sẽ trở thành chủ sở hữu tài sản đó, kể từ thời điểm bắt đầu chiếm hữu, trừ trường hợp có quy định khác.Kết Luận:Trong Bộ luật Dân sự 2015 của Việt Nam, người phân chia di sản có quyền đồng thời là người quản lý di sản và có quyền ủy quyền cho người thứ ba. Khi xuất hiện người thừa kế mới sau quá trình phân chia di sản, không cần thực hiện lại việc phân chia bằng hiện vật, mà người thừa kế mới sẽ nhận tiền tương đương giá trị phần di sản của họ. Thời hiệu để yêu cầu chia di sản là rất quan trọng, và nếu quá thời hạn, di sản có thể thuộc quyền sở hữu của người thừa kế đang quản lý hoặc của người chiếm hữu theo thời hiệu do chiếm hữu.