0888889366
Tra cứu thông tin hợp đồng
timeline_post_file650a7efc2ee7b-thur---2023-09-20T120958.073.png

QUY ĐỊNH TRƯỜNG HỢP NGƯỜI KHỞI KIỆN KHÔNG CÓ QUYỀN KHỞI KIỆN TRONG VỤ ÁN DÂN SỰ

Trong hệ thống pháp luật, quyền khởi kiện trong vụ án dân sự được coi là một quyền cơ bản của mỗi công dân và tổ chức, cho phép họ bảo vệ quyền và lợi ích của mình thông qua hệ thống tòa án. Tuy nhiên, như mọi quyền khác, quyền khởi kiện không phải lúc nào cũng được thực hiện một cách tùy ý. Có những trường hợp mà người khởi kiện không được phép thực hiện quyền này, và điều này được quy định rõ ràng trong pháp luật. Chủ đề của bài viết này sẽ đặt nghiên cứu vào quy định các trường hợp khi người khởi kiện không có quyền khởi kiện trong vụ án dân sự, nhằm hiểu rõ hơn về giới hạn và điều kiện điều tiên cho quyền này.

1.Thế nào là quyền khởi kiện trong vụ án dân sự?

Theo Điều 186 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, quy định rằng các tổ chức, cá nhân (gọi chung là người khởi kiện) có quyền bắt đầu một vụ án dân sự, entiher bằng cách tự mình hoặc thông qua đại diện hợp pháp tại tòa án có thẩm quyền để yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ.

2. Trường hợp người khởi kiện không có quyền khởi kiện trong vụ án dân sự 

 Theo Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP, quy định về những trường hợp khiến người khởi kiện không có quyền khởi kiện trong vụ án dân sự bao gồm:

– Cơ quan, tổ chức, hoặc cá nhân không thuộc vào các đối tượng quy định tại Điều 186 và Điều 187 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

– Trong trường hợp cơ quan, tổ chức, hoặc cá nhân không thuộc vào các đối tượng quy định tại Điều 186 của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, người khởi kiện không phải là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chính họ hoặc của cơ quan, tổ chức, hoặc cá nhân mà họ đại diện hợp pháp.

– Nếu cơ quan, tổ chức, hoặc cá nhân không thuộc vào các đối tượng quy định tại Điều 187 của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, người khởi kiện không nằm trong trường hợp được quy định bởi pháp luật có quyền khởi kiện để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác, lợi ích công cộng, hoặc lợi ích của Nhà nước.

Ví dụ: Tổ chức B (không phải là tổ chức xã hội tham gia bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng theo quy định tại khoản 1 của Điều 27 Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010) cho rằng Công ty C đã bán hàng hóa không đúng tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, chất lượng, số lượng, tính năng, công dụng như đã công bố, niêm yết, quảng cáo hoặc cam kết, dẫn đến việc chị A (người tiêu dùng) mua sử dụng bị thiệt hại. Trong trường hợp này, Tổ chức B không có quyền khởi kiện vụ án bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng theo quy định tại khoản 3 của Điều 187 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015.

– Yêu cầu khởi kiện của cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân không đòi hỏi việc xác minh, thu thập chứng cứ mà có thể dựa vào căn cứ kết luận rằng quyền và lợi ích hợp pháp của họ không bị xâm phạm hoặc cần được bảo vệ.

Ví dụ: Cụ T qua đời vào năm 2010, để lại di sản là căn nhà Y mà không có di chúc và không có thỏa thuận khác. Cụ T có con trai là ông A (còn sống, có đủ năng lực hành vi dân sự và không thuộc vào các trường hợp không được quyền thừa kế theo quy định tại Điều 621 của Bộ luật Dân sự năm 2015).

Trong trường hợp này, theo quy định của pháp luật về thừa kế, ông A là con của cụ T và không có quyền khởi kiện yêu cầu chia di sản của cụ T theo pháp luật.

3. Khởi kiện vụ án dân sự trong phạm vi nào?

Phạm vi khởi kiện vụ án dân sự theo quy định của Điều 188 của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 được mô tả như sau:

– Cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân có thể khởi kiện một hoặc nhiều cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân khác về một mối quan hệ pháp luật hoặc nhiều mối quan hệ pháp luật có liên quan để giải quyết trong cùng một vụ án.

– Nhiều cơ quan, tổ chức, cá nhân có thể cùng khởi kiện một hoặc nhiều cơ quan, tổ chức, cá nhân khác về một mối quan hệ pháp luật hoặc nhiều mối quan hệ pháp luật có liên quan để giải quyết trong cùng một vụ án.

– Cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân được quy định tại Điều 187 của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 cũng có quyền khởi kiện một hoặc nhiều cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân khác về một mối quan hệ pháp luật hoặc nhiều mối quan hệ pháp luật có liên quan để giải quyết trong cùng một vụ án.

4. Những trường hợp nào đương sự không được nộp đơn khởi kiện lại vụ án dân sự?

Theo Điều 218, Khoản 1, của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, quy định về hậu quả của việc đình chỉ giải quyết vụ án dân sự như sau:

Hậu quả của việc đình chỉ giải quyết vụ án dân sự

– Khi có quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự, đương sự không có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết lại vụ án dân sự đó, trừ trường hợp việc khởi kiện vụ án sau không có gì khác với vụ án trước về nguyên đơn, bị đơn và quan hệ pháp luật có tranh chấp, ngoại trừ các trường hợp quy định tại Khoản 3 của Điều 192, Điểm c của Khoản 1 của Điều 217 của Bộ luật này và các trường hợp khác theo quy định của pháp luật.

Căn cứ vào Điểm d của Khoản 1 của Điều 472 của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, quy định về việc trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu hoặc đình chỉ giải quyết vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài như sau:

Trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu hoặc đình chỉ giải quyết vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài trong trường hợp đã có thỏa thuận trọng tài, thỏa thuận lựa chọn Tòa án nước ngoài hoặc đã có Tòa án nước ngoài, Trọng tài hoặc cơ quan khác có thẩm quyền của nước ngoài giải quyết hoặc đương sự được hưởng quyền miễn trừ tư pháp.

– Tòa án Việt Nam sẽ trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu hoặc đình chỉ giải quyết vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài nếu vụ việc dân sự thuộc thẩm quyền chung của Tòa án Việt Nam nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây:

  • Vụ việc đã được giải quyết bằng bản án, quyết định của Tòa án nước ngoài hoặc phán quyết của Trọng tài.

Như vậy, ngoại trừ các trường hợp được nêu trên, đương sự không có quyền khởi kiện lại vụ án dân sự trong trường hợp việc khởi kiện vụ án sau không có gì khác so với vụ án trước về nguyên đơn, bị đơn và quan hệ pháp luật có tranh chấp, và vụ án đã được Tòa án nước ngoài ra bản án, quyết định.

Kết luận:

Trong bất kỳ hệ thống pháp luật nào, việc quy định rõ ràng những trường hợp khi người khởi kiện không có quyền khởi kiện trong vụ án dân sự là điều cần thiết để đảm bảo sự công bằng và hiệu quả trong hệ thống tư pháp. Những quy định này giúp ngăn người dùng quyền khởi kiện sử dụng nó một cách lạm dụng hoặc không đúng mục đích. Đồng thời, chúng cũng bảo vệ quyền và lợi ích của các bên tham gia vào vụ án dân sự, đảm bảo rằng quyền khởi kiện chỉ được sử dụng trong những trường hợp thực sự hợp lý và cần thiết. Việc hiểu rõ và tuân thủ các quy định này là một phần quan trọng trong việc thực hiện quyền khởi kiện một cách có trách nhiệm trong hệ thống tư pháp.

 

 

avatar
Nguyễn Thị Ngọc Lan
815 ngày trước
QUY ĐỊNH TRƯỜNG HỢP NGƯỜI KHỞI KIỆN KHÔNG CÓ QUYỀN KHỞI KIỆN TRONG VỤ ÁN DÂN SỰ
Trong hệ thống pháp luật, quyền khởi kiện trong vụ án dân sự được coi là một quyền cơ bản của mỗi công dân và tổ chức, cho phép họ bảo vệ quyền và lợi ích của mình thông qua hệ thống tòa án. Tuy nhiên, như mọi quyền khác, quyền khởi kiện không phải lúc nào cũng được thực hiện một cách tùy ý. Có những trường hợp mà người khởi kiện không được phép thực hiện quyền này, và điều này được quy định rõ ràng trong pháp luật. Chủ đề của bài viết này sẽ đặt nghiên cứu vào quy định các trường hợp khi người khởi kiện không có quyền khởi kiện trong vụ án dân sự, nhằm hiểu rõ hơn về giới hạn và điều kiện điều tiên cho quyền này.1.Thế nào là quyền khởi kiện trong vụ án dân sự?Theo Điều 186 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, quy định rằng các tổ chức, cá nhân (gọi chung là người khởi kiện) có quyền bắt đầu một vụ án dân sự, entiher bằng cách tự mình hoặc thông qua đại diện hợp pháp tại tòa án có thẩm quyền để yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ.2. Trường hợp người khởi kiện không có quyền khởi kiện trong vụ án dân sự  Theo Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP, quy định về những trường hợp khiến người khởi kiện không có quyền khởi kiện trong vụ án dân sự bao gồm:– Cơ quan, tổ chức, hoặc cá nhân không thuộc vào các đối tượng quy định tại Điều 186 và Điều 187 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.– Trong trường hợp cơ quan, tổ chức, hoặc cá nhân không thuộc vào các đối tượng quy định tại Điều 186 của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, người khởi kiện không phải là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chính họ hoặc của cơ quan, tổ chức, hoặc cá nhân mà họ đại diện hợp pháp.– Nếu cơ quan, tổ chức, hoặc cá nhân không thuộc vào các đối tượng quy định tại Điều 187 của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, người khởi kiện không nằm trong trường hợp được quy định bởi pháp luật có quyền khởi kiện để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác, lợi ích công cộng, hoặc lợi ích của Nhà nước.Ví dụ: Tổ chức B (không phải là tổ chức xã hội tham gia bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng theo quy định tại khoản 1 của Điều 27 Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010) cho rằng Công ty C đã bán hàng hóa không đúng tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, chất lượng, số lượng, tính năng, công dụng như đã công bố, niêm yết, quảng cáo hoặc cam kết, dẫn đến việc chị A (người tiêu dùng) mua sử dụng bị thiệt hại. Trong trường hợp này, Tổ chức B không có quyền khởi kiện vụ án bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng theo quy định tại khoản 3 của Điều 187 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015.– Yêu cầu khởi kiện của cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân không đòi hỏi việc xác minh, thu thập chứng cứ mà có thể dựa vào căn cứ kết luận rằng quyền và lợi ích hợp pháp của họ không bị xâm phạm hoặc cần được bảo vệ.Ví dụ: Cụ T qua đời vào năm 2010, để lại di sản là căn nhà Y mà không có di chúc và không có thỏa thuận khác. Cụ T có con trai là ông A (còn sống, có đủ năng lực hành vi dân sự và không thuộc vào các trường hợp không được quyền thừa kế theo quy định tại Điều 621 của Bộ luật Dân sự năm 2015).Trong trường hợp này, theo quy định của pháp luật về thừa kế, ông A là con của cụ T và không có quyền khởi kiện yêu cầu chia di sản của cụ T theo pháp luật.3. Khởi kiện vụ án dân sự trong phạm vi nào?Phạm vi khởi kiện vụ án dân sự theo quy định của Điều 188 của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 được mô tả như sau:– Cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân có thể khởi kiện một hoặc nhiều cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân khác về một mối quan hệ pháp luật hoặc nhiều mối quan hệ pháp luật có liên quan để giải quyết trong cùng một vụ án.– Nhiều cơ quan, tổ chức, cá nhân có thể cùng khởi kiện một hoặc nhiều cơ quan, tổ chức, cá nhân khác về một mối quan hệ pháp luật hoặc nhiều mối quan hệ pháp luật có liên quan để giải quyết trong cùng một vụ án.– Cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân được quy định tại Điều 187 của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 cũng có quyền khởi kiện một hoặc nhiều cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân khác về một mối quan hệ pháp luật hoặc nhiều mối quan hệ pháp luật có liên quan để giải quyết trong cùng một vụ án.4. Những trường hợp nào đương sự không được nộp đơn khởi kiện lại vụ án dân sự?Theo Điều 218, Khoản 1, của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, quy định về hậu quả của việc đình chỉ giải quyết vụ án dân sự như sau:Hậu quả của việc đình chỉ giải quyết vụ án dân sự– Khi có quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự, đương sự không có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết lại vụ án dân sự đó, trừ trường hợp việc khởi kiện vụ án sau không có gì khác với vụ án trước về nguyên đơn, bị đơn và quan hệ pháp luật có tranh chấp, ngoại trừ các trường hợp quy định tại Khoản 3 của Điều 192, Điểm c của Khoản 1 của Điều 217 của Bộ luật này và các trường hợp khác theo quy định của pháp luật.Căn cứ vào Điểm d của Khoản 1 của Điều 472 của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, quy định về việc trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu hoặc đình chỉ giải quyết vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài như sau:Trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu hoặc đình chỉ giải quyết vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài trong trường hợp đã có thỏa thuận trọng tài, thỏa thuận lựa chọn Tòa án nước ngoài hoặc đã có Tòa án nước ngoài, Trọng tài hoặc cơ quan khác có thẩm quyền của nước ngoài giải quyết hoặc đương sự được hưởng quyền miễn trừ tư pháp.– Tòa án Việt Nam sẽ trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu hoặc đình chỉ giải quyết vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài nếu vụ việc dân sự thuộc thẩm quyền chung của Tòa án Việt Nam nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây:Vụ việc đã được giải quyết bằng bản án, quyết định của Tòa án nước ngoài hoặc phán quyết của Trọng tài.Như vậy, ngoại trừ các trường hợp được nêu trên, đương sự không có quyền khởi kiện lại vụ án dân sự trong trường hợp việc khởi kiện vụ án sau không có gì khác so với vụ án trước về nguyên đơn, bị đơn và quan hệ pháp luật có tranh chấp, và vụ án đã được Tòa án nước ngoài ra bản án, quyết định.Kết luận:Trong bất kỳ hệ thống pháp luật nào, việc quy định rõ ràng những trường hợp khi người khởi kiện không có quyền khởi kiện trong vụ án dân sự là điều cần thiết để đảm bảo sự công bằng và hiệu quả trong hệ thống tư pháp. Những quy định này giúp ngăn người dùng quyền khởi kiện sử dụng nó một cách lạm dụng hoặc không đúng mục đích. Đồng thời, chúng cũng bảo vệ quyền và lợi ích của các bên tham gia vào vụ án dân sự, đảm bảo rằng quyền khởi kiện chỉ được sử dụng trong những trường hợp thực sự hợp lý và cần thiết. Việc hiểu rõ và tuân thủ các quy định này là một phần quan trọng trong việc thực hiện quyền khởi kiện một cách có trách nhiệm trong hệ thống tư pháp.