0888889366
Tra cứu thông tin hợp đồng
timeline_post_file650c126180a0b-thur---2023-09-21T165005.141.png

QUY ĐỊNH VỀ QUYỀN NỘP ĐƠN KHỞI KIỆN LẠI VỤ ÁN DÂN SỰ CỦA ĐƯƠNG SỰ

Quyền nộp đơn khởi kiện lại vụ án dân sự của đương sự là một khía cạnh quan trọng của quá trình pháp luật, đảm bảo tính công bằng và sự thỏa đáng trong việc giải quyết tranh chấp dân sự. Trong nền hệ pháp luật của một quốc gia, việc quy định rõ ràng và cụ thể về quyền này là điều cần thiết để đảm bảo quyền công dân được bảo vệ và tuân thủ theo luật.

1.Trường hợp nào thẩm phán trả lại đơn khởi kiện cho người khởi kiện?

Thẩm phán quyết định trả lại đơn khởi kiện cho người khởi kiện trong các trường hợp sau đây, theo quy định tại Điều 192 của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015:

– Thẩm phán sẽ trả lại đơn khởi kiện trong các trường hợp sau đây: 

  • a) Người khởi kiện không có quyền khởi kiện theo quy định tại Điều 186 và Điều 187 của Bộ luật này hoặc không có đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự; 
  • b) Chưa có đủ điều kiện khởi kiện theo quy định của pháp luật. Điều này ám chỉ việc người khởi kiện đã nộp đơn khởi kiện đến Tòa án mà vẫn thiếu một trong các điều kiện quy định bởi pháp luật. 
  • c) Sự việc đã được giải quyết bằng bản án hoặc quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án hoặc quyết định có hiệu lực của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, trừ trường hợp vụ án mà Tòa án từ chối yêu cầu ly hôn, yêu cầu thay đổi nuôi con, thay đổi mức cấp dưỡng, mức bồi thường thiệt hại, yêu cầu thay đổi người quản lý tài sản, thay đổi người quản lý di sản, thay đổi người giám hộ hoặc vụ án đòi tài sản, đòi tài sản cho thuê, cho mượn, đòi nhà, đòi quyền sử dụng đất cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ mà Tòa án chưa chấp nhận yêu cầu và theo quy định của pháp luật được quyền khởi kiện lại;

– Khi Thẩm phán quyết định trả lại đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ đi kèm cho người khởi kiện, Thẩm phán phải lập văn bản giải thích rõ lý do tại sao đơn khởi kiện bị trả lại, đồng thời gửi một bản sao của đơn khởi kiện và tất cả tài liệu, chứng cứ liên quan cho Viện kiểm sát cùng cấp. 

– Đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ mà Thẩm phán trả lại cho người khởi kiện phải được sao chép và lưu tại Tòa án để làm cơ sở cho việc giải quyết khiếu nại và kiến nghị, nếu có yêu cầu.

Tóm lại, Thẩm phán chỉ trả lại đơn khởi kiện trong các trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 192, và trong trường hợp này, Thẩm phán phải làm rõ lý do trả lại đơn khởi kiện, đồng thời báo cáo cho Viện kiểm sát cùng cấp.

2. Quy định về quyền nộp đơn khởi kiện lại vụ án dân sự của đương sự như thế nào?

Quyền nộp đơn khởi kiện lại vụ án dân sự của đương sự được quy định như sau, dựa trên Điều 217 và Điều 192 của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015:

Quyền nộp đơn khởi kiện lại vụ án dân sự được điều chỉnh trong các trường hợp sau đây, theo quy định tại Điều 217 về đình chỉ giải quyết vụ án dân sự: 

  • Người khởi kiện rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện hoặc nguyên đơn đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt, trừ trường hợp họ đề nghị xét xử vắng mặt hoặc vì sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan;

Ngoài ra, theo khoản 3 Điều 192 của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, đương sự có quyền nộp đơn khởi kiện lại vụ án trong các trường hợp sau đây: 

  • a) Người khởi kiện đã có đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự; 
  • b) Yêu cầu ly hôn, yêu cầu thay đổi nuôi con, thay đổi mức cấp dưỡng, mức bồi thường thiệt hại, yêu cầu thay đổi người quản lý tài sản, thay đổi người quản lý di sản, thay đổi người giám hộ hoặc vụ án đòi tài sản, đòi tài sản cho thuê, cho mượn, đòi nhà, đòi quyền sử dụng đất cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ mà trước đó Tòa án chưa chấp nhận yêu cầu mà theo quy định của pháp luật được quyền khởi kiện lại; 
  • c) Đã có đủ điều kiện khởi kiện; 
  • d) Các trường hợp khác theo quy định của pháp luật.

Tóm lại, người khởi kiện có quyền nộp đơn khởi kiện lại vụ án dân sự trong các trường hợp được quy định tại Điều 217 về đình chỉ giải quyết vụ án và khoản 3 Điều 192 của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015.

3. Đương sự không được nộp đơn khởi kiện lại vụ án dân sự trong trường hợp nào?

Trường hợp đương sự không được nộp đơn khởi kiện lại vụ án dân sự được quy định như sau, dựa trên Điều 218 và Điều 472 của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015:

– Theo Điều 218 về hậu quả của việc đình chỉ giải quyết vụ án dân sự: 

  • Khi có quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự, đương sự không có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết lại vụ án dân sự đó, trừ trường hợp việc khởi kiện vụ án sau không có gì khác với vụ án trước đó về nguyên đơn, bị đơn và quan hệ pháp luật có tranh chấp. 
  • Điều này không áp dụng trong các trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 192, điểm c khoản 1 Điều 217 của Bộ luật này và các trường hợp khác theo quy định của pháp luật.

– Theo Điều 472 về trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu hoặc đình chỉ giải quyết vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài: 

    + Tòa án Việt Nam phải trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu hoặc đình chỉ giải quyết vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài trong trường hợp vụ việc dân sự thuộc thẩm quyền chung của Tòa án Việt Nam nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây: 

  •  Vụ việc đã được giải quyết bằng bản án, quyết định của Tòa án nước ngoài hoặc phán quyết của Trọng tài.

Tóm lại, trừ các trường hợp được nêu trên, đương sự không có quyền nộp đơn khởi kiện lại vụ án dân sự trong trường hợp việc khởi kiện vụ án sau không có sự khác biệt đáng kể so với vụ án trước đó về nguyên đơn, bị đơn và quan hệ pháp luật có tranh chấp, và vụ án đã được Tòa án nước ngoài giải quyết.

Kết luận:

Trong kết luận, chúng ta có thể nhấn mạnh sự quan trọng của quyền nộp đơn khởi kiện lại vụ án dân sự của đương sự như một phần quan trọng của hệ thống pháp luật. Quyền này đảm bảo rằng công dân có cơ hội bảo vệ quyền và lợi ích của họ trong các vụ án dân sự, đồng thời đảm bảo rằng hệ thống pháp luật hoạt động công bằng và hiệu quả. Việc tuân thủ các quy định về quyền nộp đơn khởi kiện lại là một phần quan trọng trong việc đảm bảo tính hợp lý và bảo đảm của quy trình pháp luật và giúp xây dựng một xã hội nơi mọi người có thể tin tưởng vào hệ thống pháp luật và tìm kiếm công lý.

 

avatar
Nguyễn Thị Ngọc Lan
226 ngày trước
QUY ĐỊNH VỀ QUYỀN NỘP ĐƠN KHỞI KIỆN LẠI VỤ ÁN DÂN SỰ CỦA ĐƯƠNG SỰ
Quyền nộp đơn khởi kiện lại vụ án dân sự của đương sự là một khía cạnh quan trọng của quá trình pháp luật, đảm bảo tính công bằng và sự thỏa đáng trong việc giải quyết tranh chấp dân sự. Trong nền hệ pháp luật của một quốc gia, việc quy định rõ ràng và cụ thể về quyền này là điều cần thiết để đảm bảo quyền công dân được bảo vệ và tuân thủ theo luật.1.Trường hợp nào thẩm phán trả lại đơn khởi kiện cho người khởi kiện?Thẩm phán quyết định trả lại đơn khởi kiện cho người khởi kiện trong các trường hợp sau đây, theo quy định tại Điều 192 của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015:– Thẩm phán sẽ trả lại đơn khởi kiện trong các trường hợp sau đây: a) Người khởi kiện không có quyền khởi kiện theo quy định tại Điều 186 và Điều 187 của Bộ luật này hoặc không có đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự; b) Chưa có đủ điều kiện khởi kiện theo quy định của pháp luật. Điều này ám chỉ việc người khởi kiện đã nộp đơn khởi kiện đến Tòa án mà vẫn thiếu một trong các điều kiện quy định bởi pháp luật. c) Sự việc đã được giải quyết bằng bản án hoặc quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án hoặc quyết định có hiệu lực của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, trừ trường hợp vụ án mà Tòa án từ chối yêu cầu ly hôn, yêu cầu thay đổi nuôi con, thay đổi mức cấp dưỡng, mức bồi thường thiệt hại, yêu cầu thay đổi người quản lý tài sản, thay đổi người quản lý di sản, thay đổi người giám hộ hoặc vụ án đòi tài sản, đòi tài sản cho thuê, cho mượn, đòi nhà, đòi quyền sử dụng đất cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ mà Tòa án chưa chấp nhận yêu cầu và theo quy định của pháp luật được quyền khởi kiện lại;– Khi Thẩm phán quyết định trả lại đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ đi kèm cho người khởi kiện, Thẩm phán phải lập văn bản giải thích rõ lý do tại sao đơn khởi kiện bị trả lại, đồng thời gửi một bản sao của đơn khởi kiện và tất cả tài liệu, chứng cứ liên quan cho Viện kiểm sát cùng cấp. – Đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ mà Thẩm phán trả lại cho người khởi kiện phải được sao chép và lưu tại Tòa án để làm cơ sở cho việc giải quyết khiếu nại và kiến nghị, nếu có yêu cầu.Tóm lại, Thẩm phán chỉ trả lại đơn khởi kiện trong các trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 192, và trong trường hợp này, Thẩm phán phải làm rõ lý do trả lại đơn khởi kiện, đồng thời báo cáo cho Viện kiểm sát cùng cấp.2. Quy định về quyền nộp đơn khởi kiện lại vụ án dân sự của đương sự như thế nào?Quyền nộp đơn khởi kiện lại vụ án dân sự của đương sự được quy định như sau, dựa trên Điều 217 và Điều 192 của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015:Quyền nộp đơn khởi kiện lại vụ án dân sự được điều chỉnh trong các trường hợp sau đây, theo quy định tại Điều 217 về đình chỉ giải quyết vụ án dân sự: Người khởi kiện rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện hoặc nguyên đơn đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt, trừ trường hợp họ đề nghị xét xử vắng mặt hoặc vì sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan;Ngoài ra, theo khoản 3 Điều 192 của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, đương sự có quyền nộp đơn khởi kiện lại vụ án trong các trường hợp sau đây: a) Người khởi kiện đã có đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự; b) Yêu cầu ly hôn, yêu cầu thay đổi nuôi con, thay đổi mức cấp dưỡng, mức bồi thường thiệt hại, yêu cầu thay đổi người quản lý tài sản, thay đổi người quản lý di sản, thay đổi người giám hộ hoặc vụ án đòi tài sản, đòi tài sản cho thuê, cho mượn, đòi nhà, đòi quyền sử dụng đất cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ mà trước đó Tòa án chưa chấp nhận yêu cầu mà theo quy định của pháp luật được quyền khởi kiện lại; c) Đã có đủ điều kiện khởi kiện; d) Các trường hợp khác theo quy định của pháp luật.Tóm lại, người khởi kiện có quyền nộp đơn khởi kiện lại vụ án dân sự trong các trường hợp được quy định tại Điều 217 về đình chỉ giải quyết vụ án và khoản 3 Điều 192 của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015.3. Đương sự không được nộp đơn khởi kiện lại vụ án dân sự trong trường hợp nào?Trường hợp đương sự không được nộp đơn khởi kiện lại vụ án dân sự được quy định như sau, dựa trên Điều 218 và Điều 472 của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015:– Theo Điều 218 về hậu quả của việc đình chỉ giải quyết vụ án dân sự: Khi có quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự, đương sự không có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết lại vụ án dân sự đó, trừ trường hợp việc khởi kiện vụ án sau không có gì khác với vụ án trước đó về nguyên đơn, bị đơn và quan hệ pháp luật có tranh chấp. Điều này không áp dụng trong các trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 192, điểm c khoản 1 Điều 217 của Bộ luật này và các trường hợp khác theo quy định của pháp luật.– Theo Điều 472 về trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu hoặc đình chỉ giải quyết vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài:     + Tòa án Việt Nam phải trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu hoặc đình chỉ giải quyết vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài trong trường hợp vụ việc dân sự thuộc thẩm quyền chung của Tòa án Việt Nam nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây:  Vụ việc đã được giải quyết bằng bản án, quyết định của Tòa án nước ngoài hoặc phán quyết của Trọng tài.Tóm lại, trừ các trường hợp được nêu trên, đương sự không có quyền nộp đơn khởi kiện lại vụ án dân sự trong trường hợp việc khởi kiện vụ án sau không có sự khác biệt đáng kể so với vụ án trước đó về nguyên đơn, bị đơn và quan hệ pháp luật có tranh chấp, và vụ án đã được Tòa án nước ngoài giải quyết.Kết luận:Trong kết luận, chúng ta có thể nhấn mạnh sự quan trọng của quyền nộp đơn khởi kiện lại vụ án dân sự của đương sự như một phần quan trọng của hệ thống pháp luật. Quyền này đảm bảo rằng công dân có cơ hội bảo vệ quyền và lợi ích của họ trong các vụ án dân sự, đồng thời đảm bảo rằng hệ thống pháp luật hoạt động công bằng và hiệu quả. Việc tuân thủ các quy định về quyền nộp đơn khởi kiện lại là một phần quan trọng trong việc đảm bảo tính hợp lý và bảo đảm của quy trình pháp luật và giúp xây dựng một xã hội nơi mọi người có thể tin tưởng vào hệ thống pháp luật và tìm kiếm công lý.