QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH
Việc quản lý và duy trì trật tự xã hội là một trong những yếu tố quan trọng để đảm bảo sự phát triển và ổn định của một xã hội. Trong hệ thống pháp luật của nhiều quốc gia, việc xử lý vi phạm hành chính đóng một vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy tuân thủ pháp luật và bảo vệ quyền lợi của công dân. Chủ đề này đặc biệt quan trọng trong bối cảnh một xã hội đang phát triển và thay đổi liên tục, nơi việc duy trì trật tự và an ninh là điều cần thiết.
1.Thời hiệu và thời hạn xử lý vi phạm hành chính theo quy định?
Quy định về thời hiệu và thời hạn xử lý vi phạm hành chính như sau:
Vi phạm hành chính, theo quy định, là hành vi có lỗi được thực hiện bởi một cá nhân hoặc tổ chức, hành vi này vi phạm quy định của pháp luật về quản lý nhà nước mà không thuộc loại tội phạm và phải chịu xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật.
Khi tiến hành xử lý vi phạm hành chính, thời hiệu xử phạt là khoảng thời gian do luật quy định. Nếu hết thời gian này mà việc xử lý chưa hoàn thành, sẽ phát sinh hậu quả pháp lý đối với chủ thể theo điều kiện nhất định được quy định bởi luật.
Theo khoản 1 Điều 6 của Văn bản hợp nhất số 20/VBHN-VPQH 2022, Luật xử lý vi phạm hành chính quy định thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính là 01 năm, trừ các trường hợp vi phạm hành chính liên quan đến các hoạt động sau đây, thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính sẽ là 02 năm:
- Kế toán; hóa đơn; phí, lệ phí; kinh doanh bảo hiểm; quản lý giá.
- Chứng khoán.
- Sở hữu trí tuệ.
- Xây dựng.
- Thủy sản, lâm nghiệp.
- Điều tra.
- Quy hoạch, thăm dò, khai thác, sử dụng nguồn tài nguyên nước.
- Hoạt động dầu khí và hoạt động khoáng sản khác.
- Bảo vệ môi trường.
- Năng lượng nguyên tử.
- Quản lý, phát triển nhà và công sở.
- Đất đai.
- Đê điều.
- Báo chí.
- Xuất bản.
- Sản xuất, xuất khẩu, nhập khẩu, kinh doanh hàng hóa.
- Sản xuất, buôn bán hàng cấm, hàng giả.
- Quản lý lao động ngoài nước.
Cách tính thời hạn và thời hiệu trong quá trình xử lý vi phạm hành chính được áp dụng theo quy định tại Bộ luật dân sự. Trong đó, thời gian ban đêm được tính từ 22 giờ ngày hôm trước đến 06 giờ ngày hôm sau. Điều 144, Điều 145, Điều 146 của Bộ luật dân sự năm 2015 quy định về thời hạn áp dụng như sau:
- Thời hạn có thể được xác định bằng phút, giờ, ngày, tuần, tháng, năm hoặc dựa trên một sự kiện cụ thể có thể xảy ra.
- Thời hạn được tính theo dương lịch.
Nếu các bên thỏa thuận về thời hạn là một năm, nửa năm, một tháng, nửa tháng, một tuần, một ngày, một giờ, hoặc một phút mà khoảng thời gian diễn ra không liền nhau, thời hạn sẽ được tính như sau:
- Một năm là ba trăm sáu mươi lăm ngày.
- Nửa năm là sáu tháng.
- Một tháng là ba mươi ngày.
- Nửa tháng là mười lăm ngày.
- Một tuần là bảy ngày.
- Một ngày là hai mươi bốn giờ.
- Một giờ là sáu mươi phút.
- Một phút là sáu mươi giây.
Nếu các bên thỏa thuận về thời điểm đầu tháng, giữa tháng, hoặc cuối tháng, thời điểm đó sẽ được quy định như sau:
- Đầu tháng là ngày đầu tiên của tháng.
- Giữa tháng là ngày thứ mười lăm của tháng.
- Cuối tháng là ngày cuối cùng của tháng.
Nếu các bên thỏa thuận về thời điểm đầu năm, giữa năm, hoặc cuối năm, thời điểm đó sẽ được quy định như sau:
- Đầu năm là ngày đầu tiên của tháng một.
- Giữa năm là ngày cuối cùng của tháng sáu.
- Cuối năm là ngày cuối cùng của tháng mười hai.
2. Thời hạn được xem là chưa bị xử lý vi phạm hành chính là gì?
Theo Điều 7 của Văn bản hợp nhất số 20/VBHN-VPQH 2022, Luật xử lý vi phạm hành chính:
Thời hạn này được hiểu là thời gian mà cá nhân hoặc tổ chức bị xử phạt vi phạm hành chính chưa bị xem xét lại sau khi đã chấp hành xong quyết định xử phạt cảnh cáo trong khoảng thời gian 06 tháng tính từ ngày thực hiện quyết định xử phạt cảnh cáo hoặc 01 năm tính từ ngày chấp hành xong quyết định xử phạt hành chính khác, hoặc tính từ ngày hết thời hiệu thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính mà không tái phạm.
Hoặc trong trường hợp cá nhân bị xử lý hành chính và áp dụng biện pháp xử lý hành chính, thời hạn này là 02 năm tính từ ngày chấp hành xong quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính hoặc 01 năm tính từ ngày hết thời hiệu thi hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính mà không có thêm trường hợp tái phạm.
3. Thẩm quyền hủy bỏ, ban hành quyết định mới trong xử phạt vi phạm hành chính
Theo khoản 3 của Điều 18 Luật Xử lý vi phạm hành chính (được sửa đổi và bổ sung vào năm 2020), quy định về thẩm quyền hủy bỏ và ban hành quyết định mới trong quá trình xử phạt vi phạm hành chính được mô tả như sau:
Trong phạm vi nhiệm vụ và quyền hạn của mình, các nhân vật sau đây - Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp, thủ trưởng cơ quan hoặc đơn vị có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính - phải chịu trách nhiệm phát hiện những quyết định về xử lý vi phạm hành chính do họ hoặc cấp dưới ban hành mà có sai sót, và họ phải kịp thời điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung, hoặc hủy bỏ những quyết định này và ban hành quyết định mới theo quyền hạn của họ.
4. Trường hợp phải hủy bỏ quyết định xử phạt vi phạm hành chính
Theo khoản 1 của Điều 13 Nghị định 118/2021/NĐ-CP, người đã ban hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính một cách tự mình hoặc theo yêu cầu của những người quy định tại khoản 3 của Điều 18 Luật Xử lý vi phạm hành chính, phải ban hành quyết định hủy bỏ toàn bộ nội dung của quyết định xử phạt nếu thuộc một trong những trường hợp sau đây:
- Không xác định đúng đối tượng vi phạm;
- Vi phạm quy định về thẩm quyền ban hành quyết định;
- Vi phạm quy định về thủ tục ban hành quyết định;
- Giữ lại vụ vi phạm có dấu hiệu tội phạm để xử lý vi phạm hành chính (theo khoản 1 của Điều 12 Luật Xử lý vi phạm hành chính);
- Xác định hành vi vi phạm hành chính không đúng; áp dụng hình thức xử phạt, mức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả không đúng hoặc không đầy đủ đối với hành vi vi phạm hành chính (theo khoản 6 của Điều 12 Luật Xử lý vi phạm hành chính);
- Giả mạo hoặc làm sai lệch hồ sơ xử phạt vi phạm hành chính, hồ sơ áp dụng biện pháp xử lý hành chính (theo khoản 10 của Điều 12 Luật Xử lý vi phạm hành chính);
- Có quyết định khởi tố vụ án của cơ quan tiến hành tố tụng hình sự đối với vụ vi phạm có dấu hiệu tội phạm (theo khoản 3 của Điều 62 Luật Xử lý vi phạm hành chính);
- Không ra quyết định xử phạt (theo khoản 1 của Điều 65 Luật Xử lý vi phạm hành chính).
Bổ sung vào những trường hợp trên, nếu có sai sót về nội dung quyết định xử phạt vi phạm hành chính, người đã ban hành quyết định có thể hủy bỏ một phần hoặc toàn bộ nội dung của quyết định khi sai sót đó làm thay đổi cơ bản nội dung của quyết định, hoặc khi quyết định giải quyết khiếu nại của người hoặc cơ quan có thẩm quyền giải quyết khiếu nại dẫn đến sự thay đổi về căn cứ hoặc nội dung của quyết định xử phạt vi phạm hành chính.
Kết luận:
Quy định pháp luật về xử lý vi phạm hành chính là một phần quan trọng của hệ thống pháp luật của một quốc gia, đóng vai trò quyết định trong việc duy trì trật tự xã hội và bảo vệ quyền lợi của công dân. Nó phải được thiết kế sao cho công bằng, minh bạch và đảm bảo rằng người bị kết án được bảo vệ quyền của họ. Quy định này không chỉ là công cụ để xử lý vi phạm mà còn là một bảo vệ đối với những người dân trong xã hội, giúp duy trì trật tự và sự ổn định của xã hội.