0888889366
Tra cứu thông tin hợp đồng
timeline_post_file652023f0a49c5-Điều-kiện-để-xóa-án-tích--31-.png

Thừa phát lại trong thi hành án dân sự       

Trong hệ thống hành chính và tư pháp của một quốc gia, Thừa phát lại là một cơ quan quan trọng chịu trách nhiệm quản lý, xử lý, và giám sát việc thi hành án dân sự, đảm bảo tính công bằng và hiệu quả của quyết định tư pháp và quyết định hành chính của các cơ quan và tổ chức thuộc Bộ Tư pháp. Để hiểu rõ hơn về vai trò và thẩm quyền của Thừa phát lại trong việc thi hành án dân sự, chúng ta sẽ cùng Thủ tục pháp luật tìm hiểu về quy định và các quyền hạn của cơ quan này trong đoạn văn sau đây.

Thừa phát lại là gì?

Theo quy định tại Khoản 1, Điều 2 Nghị định 08/2020/NĐ-CP ngày 08/01/2020 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại, Thừa phát lại là người có đủ tiêu chuẩn được Nhà nước bổ nhiệm để thực hiện tống đạt, lập vi bằng, xác minh điều kiện thi hành án dân sự, tổ chức thi hành án dân sự theo quy định pháp luật có liên quan, trong đó:

- Tống đạt là việc thông báo, giao nhận giấy tờ, hồ sơ, tài liệu do Thừa phát lại thực hiện theo quy định của pháp luật;

- Vi bằng là văn bản ghi nhận sự kiện, hành vi có thật do Thừa phát lại trực tiếp chứng kiến, lập theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức theo quy định.

Thừa phát lại được tổ chức thi hành án đối với những bản án, quyết định nào?

Thừa phát lại có quyền tổ chức thi hành án đối với những bản án, quyết định sau đây:

  • Bản án, quyết định sơ thẩm đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương; bản án, quyết định sơ thẩm đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp tỉnh nơi Văn phòng Thừa phát lại đặt trụ sở.
  • Bản án, quyết định phúc thẩm của Tòa án nhân dân cấp tỉnh nơi Văn phòng Thừa phát lại đặt trụ sở đối với bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp huyện; bản án, quyết định phúc thẩm của Tòa án nhân dân cấp cao đối với bản án, quyết định sơ thẩm, chưa có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp tỉnh nơi Văn phòng Thừa phát lại đặt trụ sở.
  • Quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm của Tòa án nhân dân cấp cao đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp huyện, Tòa án nhân dân cấp tỉnh nơi Văn phòng Thừa phát lại đặt trụ sở.

Tuy nhiên, Thừa phát lại sẽ không tổ chức thi hành phần bản án, quyết định nếu nằm trong diện Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự chủ động ra quyết định thi hành án theo quy định tại khoản 2 Điều 36 của Luật Thi hành án dân sự. Cụ thể, Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự sẽ ra quyết định thi hành án khi có đơn yêu cầu thi hành án và phải hoàn thành việc này trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đơn yêu cầu thi hành án.

Thẩm quyền tổ chức thi hành án của Thừa phát lại

Thừa phát lại cũng có thẩm quyền tổ chức thi hành án theo phân công của mình, cụ thể tại Điều 51 Nghị định 08/2020/NĐ-CP, quy định về thẩm quyền tổ chức thi hành án của Thừa Phát lại như sau:

Thừa phát lại có thẩm quyền tổ chức thi hành án theo yêu cầu của các bản án và quyết định sau đây:

  • Bản án, quyết định sơ thẩm đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương; bản án, quyết định sơ thẩm đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp tỉnh tại nơi Văn phòng Thừa phát lại đặt trụ sở.
  • Bản án, quyết định phúc thẩm của Tòa án nhân dân cấp tỉnh tại nơi Văn phòng Thừa phát lại đặt trụ sở đối với bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp huyện; bản án, quyết định phúc thẩm của Tòa án nhân dân cấp cao đối với bản án, quyết định sơ thẩm, chưa có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp tỉnh tại nơi Văn phòng Thừa phát lại đặt trụ sở;
  • Quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm của Tòa án nhân dân cấp cao đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp huyện, và Tòa án nhân dân cấp tỉnh tại nơi Văn phòng Thừa phát lại đặt trụ sở.

Ngoài ra, Thừa phát lại sẽ không tổ chức thi hành phần bản án, quyết định nếu nằm trong diện Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự tự mở cuộc thi hành án theo quy định tại khoản 2 của Điều 36 Luật Thi hành án dân sự năm 2008.

Thủ tục tổ chức thi hành án của Thừa phát lại

Thừa phát lại sẽ thực hiện các thủ tục về thi hành án theo quy định của Nghị định này và pháp luật thi hành án dân sự.

Thừa phát lại sẽ xử lý các trường hợp chuyển vụ việc giữa cơ quan thi hành án dân sự và Văn phòng Thừa phát lại theo các quy định sau đây:

a) Đối với các vụ việc đang được tổ chức thi hành án bởi cơ quan thi hành án dân sự, nhưng sau đó đương sự có văn bản yêu cầu ngừng và đình chỉ thi hành án để Văn phòng Thừa phát lại tiếp tục thực hiện, đương sự không có quyền đòi hỏi cơ quan thi hành án dân sự tiếp tục thi hành án đối với các phần đã được cơ quan thi hành án ra quyết định đình chỉ thi hành án;

b) Đối với các vụ việc đang được Văn phòng Thừa phát lại tổ chức thi hành án, nhưng sau đó đương sự có văn bản yêu cầu ngừng và chấm dứt hợp đồng với Văn phòng Thừa phát lại, thì người được thi hành án có thể yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự hoặc Văn phòng Thừa phát lại khác có thẩm quyền tiếp tục tổ chức thi hành, trừ trường hợp quy định tại điểm a khoản này;

c) Yêu cầu thi hành án mới từ đương sự phải đi kèm với thông tin về kết quả thi hành án trước đó, bao gồm cả những nội dung yêu cầu thi hành án tiếp theo và thông tin, tài liệu có liên quan đến yêu cầu đó. Trình tự, thủ tục, và kết quả của quá trình thi hành án trước đó, nếu được thực hiện đúng quy định của pháp luật, vẫn có giá trị pháp lý, được công nhận và sử dụng làm cơ sở để tiếp tục tổ chức thi hành án.

Kết luận

Như vậy, Thừa phát lại đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo tính công bằng và hiệu quả của việc thi hành án dân sự. Cơ quan này được ủy quyền và có thẩm quyền tổ chức thi hành nhiều loại bản án và quyết định từ các cấp Tòa án nhân dân, đồng thời tham gia vào việc xử lý các vụ việc quyền lực và tư pháp khác khi cần thiết. Điều này giúp đảm bảo quyền và lợi ích của các bên tham gia trong các vụ việc liên quan đến tư pháp và quyết định hành chính. Tất cả những nhiệm vụ này đóng góp vào việc duy trì tính công bằng và công lý trong hệ thống tư pháp của đất nước.

 

avatar
Phạm Diễm Thư
337 ngày trước
Thừa phát lại trong thi hành án dân sự       
Trong hệ thống hành chính và tư pháp của một quốc gia, Thừa phát lại là một cơ quan quan trọng chịu trách nhiệm quản lý, xử lý, và giám sát việc thi hành án dân sự, đảm bảo tính công bằng và hiệu quả của quyết định tư pháp và quyết định hành chính của các cơ quan và tổ chức thuộc Bộ Tư pháp. Để hiểu rõ hơn về vai trò và thẩm quyền của Thừa phát lại trong việc thi hành án dân sự, chúng ta sẽ cùng Thủ tục pháp luật tìm hiểu về quy định và các quyền hạn của cơ quan này trong đoạn văn sau đây.Thừa phát lại là gì?Theo quy định tại Khoản 1, Điều 2 Nghị định 08/2020/NĐ-CP ngày 08/01/2020 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại, Thừa phát lại là người có đủ tiêu chuẩn được Nhà nước bổ nhiệm để thực hiện tống đạt, lập vi bằng, xác minh điều kiện thi hành án dân sự, tổ chức thi hành án dân sự theo quy định pháp luật có liên quan, trong đó:- Tống đạt là việc thông báo, giao nhận giấy tờ, hồ sơ, tài liệu do Thừa phát lại thực hiện theo quy định của pháp luật;- Vi bằng là văn bản ghi nhận sự kiện, hành vi có thật do Thừa phát lại trực tiếp chứng kiến, lập theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức theo quy định.Thừa phát lại được tổ chức thi hành án đối với những bản án, quyết định nào?Thừa phát lại có quyền tổ chức thi hành án đối với những bản án, quyết định sau đây:Bản án, quyết định sơ thẩm đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương; bản án, quyết định sơ thẩm đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp tỉnh nơi Văn phòng Thừa phát lại đặt trụ sở.Bản án, quyết định phúc thẩm của Tòa án nhân dân cấp tỉnh nơi Văn phòng Thừa phát lại đặt trụ sở đối với bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp huyện; bản án, quyết định phúc thẩm của Tòa án nhân dân cấp cao đối với bản án, quyết định sơ thẩm, chưa có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp tỉnh nơi Văn phòng Thừa phát lại đặt trụ sở.Quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm của Tòa án nhân dân cấp cao đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp huyện, Tòa án nhân dân cấp tỉnh nơi Văn phòng Thừa phát lại đặt trụ sở.Tuy nhiên, Thừa phát lại sẽ không tổ chức thi hành phần bản án, quyết định nếu nằm trong diện Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự chủ động ra quyết định thi hành án theo quy định tại khoản 2 Điều 36 của Luật Thi hành án dân sự. Cụ thể, Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự sẽ ra quyết định thi hành án khi có đơn yêu cầu thi hành án và phải hoàn thành việc này trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đơn yêu cầu thi hành án.Thẩm quyền tổ chức thi hành án của Thừa phát lạiThừa phát lại cũng có thẩm quyền tổ chức thi hành án theo phân công của mình, cụ thể tại Điều 51 Nghị định 08/2020/NĐ-CP, quy định về thẩm quyền tổ chức thi hành án của Thừa Phát lại như sau:Thừa phát lại có thẩm quyền tổ chức thi hành án theo yêu cầu của các bản án và quyết định sau đây:Bản án, quyết định sơ thẩm đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương; bản án, quyết định sơ thẩm đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp tỉnh tại nơi Văn phòng Thừa phát lại đặt trụ sở.Bản án, quyết định phúc thẩm của Tòa án nhân dân cấp tỉnh tại nơi Văn phòng Thừa phát lại đặt trụ sở đối với bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp huyện; bản án, quyết định phúc thẩm của Tòa án nhân dân cấp cao đối với bản án, quyết định sơ thẩm, chưa có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp tỉnh tại nơi Văn phòng Thừa phát lại đặt trụ sở;Quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm của Tòa án nhân dân cấp cao đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp huyện, và Tòa án nhân dân cấp tỉnh tại nơi Văn phòng Thừa phát lại đặt trụ sở.Ngoài ra, Thừa phát lại sẽ không tổ chức thi hành phần bản án, quyết định nếu nằm trong diện Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự tự mở cuộc thi hành án theo quy định tại khoản 2 của Điều 36 Luật Thi hành án dân sự năm 2008.Thủ tục tổ chức thi hành án của Thừa phát lạiThừa phát lại sẽ thực hiện các thủ tục về thi hành án theo quy định của Nghị định này và pháp luật thi hành án dân sự.Thừa phát lại sẽ xử lý các trường hợp chuyển vụ việc giữa cơ quan thi hành án dân sự và Văn phòng Thừa phát lại theo các quy định sau đây:a) Đối với các vụ việc đang được tổ chức thi hành án bởi cơ quan thi hành án dân sự, nhưng sau đó đương sự có văn bản yêu cầu ngừng và đình chỉ thi hành án để Văn phòng Thừa phát lại tiếp tục thực hiện, đương sự không có quyền đòi hỏi cơ quan thi hành án dân sự tiếp tục thi hành án đối với các phần đã được cơ quan thi hành án ra quyết định đình chỉ thi hành án;b) Đối với các vụ việc đang được Văn phòng Thừa phát lại tổ chức thi hành án, nhưng sau đó đương sự có văn bản yêu cầu ngừng và chấm dứt hợp đồng với Văn phòng Thừa phát lại, thì người được thi hành án có thể yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự hoặc Văn phòng Thừa phát lại khác có thẩm quyền tiếp tục tổ chức thi hành, trừ trường hợp quy định tại điểm a khoản này;c) Yêu cầu thi hành án mới từ đương sự phải đi kèm với thông tin về kết quả thi hành án trước đó, bao gồm cả những nội dung yêu cầu thi hành án tiếp theo và thông tin, tài liệu có liên quan đến yêu cầu đó. Trình tự, thủ tục, và kết quả của quá trình thi hành án trước đó, nếu được thực hiện đúng quy định của pháp luật, vẫn có giá trị pháp lý, được công nhận và sử dụng làm cơ sở để tiếp tục tổ chức thi hành án.Kết luậnNhư vậy, Thừa phát lại đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo tính công bằng và hiệu quả của việc thi hành án dân sự. Cơ quan này được ủy quyền và có thẩm quyền tổ chức thi hành nhiều loại bản án và quyết định từ các cấp Tòa án nhân dân, đồng thời tham gia vào việc xử lý các vụ việc quyền lực và tư pháp khác khi cần thiết. Điều này giúp đảm bảo quyền và lợi ích của các bên tham gia trong các vụ việc liên quan đến tư pháp và quyết định hành chính. Tất cả những nhiệm vụ này đóng góp vào việc duy trì tính công bằng và công lý trong hệ thống tư pháp của đất nước.