Người lao động có được bồi thường khi bị sa thải trái luật không?
Trong lĩnh vực quản lý lao động, việc sa thải người lao động là một quyết định quan trọng và phải tuân theo quy định của pháp luật. Nơi mà người lao động thường tìm kiếm sự bảo vệ và sự công bằng trong quá trình làm việc đó chính là Nghị định số 05/2015/NĐ-CP của Chính phủ về quản lý lao động của người nước ngoài làm việc tại Việt Nam. Trong bài viết này, chúng ta sẽ tìm hiểu về trường hợp nào Nhà nước, Sở Lao động - Thương binh và Xã hội (NSDLĐ) được phép sa thải người lao động theo quy định của Nghị định này.
Trường hợp nào NSDLĐ được sa thải người lao động?
Theo Điều 124 Bộ luật Lao động năm 2019 quy định 04 hình thức xử lý kỷ luật lao động bao gồm:
- Khiển trách.
- Kéo dài thời hạn nâng lương không quá 06 tháng.
- Cách chức.
- Sa thải.
Hình thức xử lý kỷ luật sa thải được người sử dụng lao động áp dụng trong trường hợp sau đây:
- Người lao động có hành vi trộm cắp, tham ô, đánh bạc, cố ý gây thương tích, sử dụng ma túy tại nơi làm việc;
- Người lao động có hành vi tiết lộ bí mật kinh doanh, bí mật công nghệ, xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ của người sử dụng lao động, có hành vi gây thiệt hại nghiêm trọng hoặc đe dọa gây thiệt hại đặc biệt nghiêm trọng về tài sản, lợi ích của người sử dụng lao động hoặc quấy rối tình dục tại nơi làm việc được quy định trong nội quy lao động;
- Người lao động bị xử lý kỷ luật kéo dài thời hạn nâng lương hoặc cách chức mà tái phạm trong thời gian chưa xóa kỷ luật. Tái phạm là trường hợp người lao động lặp lại hành vi vi phạm đã bị xử lý kỷ luật mà chưa được xóa kỷ luật theo quy định tại Điều 126 Bộ luật Lao động năm 2019;
- Người lao động tự ý bỏ việc 05 ngày cộng dồn trong thời hạn 30 ngày hoặc 20 ngày cộng dồn trong thời hạn 365 ngày tính từ ngày đầu tiên tự ý bỏ việc mà không có lý do chính đáng.
Trường hợp được coi là có lý do chính đáng bao gồm thiên tai, hỏa hoạn, bản thân, thân nhân bị ốm có xác nhận của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền và trường hợp khác được quy định trong nội quy lao động.
(Điều 125 Bộ luật Lao động năm 2019)
Theo Nghị định số 05/2015/NĐ-CP, có một số trường hợp mà NSDLĐ được phép sa thải người lao động, nhưng việc sa thải phải tuân theo quy trình và điều kiện quy định cụ thể. Dưới đây là các trường hợp chính:
Người lao động vi phạm hợp đồng lao động: NSDLĐ có quyền sa thải người lao động nếu họ vi phạm các điều khoản và điều kiện được ghi trong hợp đồng lao động. Tuy nhiên, quyết định sa thải phải tuân theo các quy định cụ thể và thời hạn thông báo cho người lao động.
Người lao động không thực hiện đúng nhiệm vụ và công việc được giao: Nếu người lao động không thực hiện đúng và đầy đủ nhiệm vụ và công việc được giao, NSDLĐ có quyền xem xét việc sa thải.
Người lao động vi phạm luật pháp: Nếu người lao động vi phạm luật pháp của Việt Nam trong quá trình làm việc, NSDLĐ có thể xem xét việc sa thải và thông báo cho cơ quan chức năng nếu cần thiết.
Kết thúc hợp đồng lao động theo thoả thuận giữa hai bên: Khi hợp đồng lao động kết thúc theo thoả thuận của cả hai bên, NSDLĐ và người lao động phải tuân thủ các quy định về thời hạn thông báo và các điều kiện khác liên quan đến việc kết thúc hợp đồng.
Người lao động hết thời hạn làm việc tại Việt Nam: Khi người lao động hoàn thành thời gian làm việc theo hợp đồng tại Việt Nam, việc chấm dứt hợp đồng là hợp pháp và không cần thông báo trước.
Người lao động có được bồi thường khi bị sa thải trái luật không?
Đối với việc sa thải trái pháp luật được coi là hành vi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người sử dụng lao động.
Theo Điều 41 Bộ luật Lao động năm 2019 quy định nghĩa vụ của NSDLĐ khi đơn phương chấm dứt hợp đồng trái pháp luật như sau:
(i) Phải nhận người lao động trở lại làm việc theo hợp đồng lao động đã giao kết; phải trả tiền lương, đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp trong những ngày người lao động không được làm việc và phải trả thêm cho người lao động một khoản tiền ít nhất bằng 02 tháng tiền lương theo hợp đồng lao động.
Sau khi được nhận lại làm việc, người lao động hoàn trả cho người sử dụng lao động các khoản tiền trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm nếu đã nhận của người sử dụng lao động.
Trường hợp không còn vị trí, công việc đã giao kết trong hợp đồng lao động mà người lao động vẫn muốn làm việc thì hai bên thỏa thuận để sửa đổi, bổ sung hợp đồng lao động.
Trường hợp vi phạm quy định về thời hạn báo trước quy định tại khoản 2 Điều 36 của Bộ luật Lao động năm 2019 thì phải trả một khoản tiền tương ứng với tiền lương theo hợp đồng lao động trong những ngày không báo trước.
(ii) Trường hợp người lao động không muốn tiếp tục làm việc thì ngoài khoản tiền phải trả theo khoản (i) người sử dụng lao động phải trả trợ cấp thôi việc theo quy định tại Điều 46 Bộ luật Lao động năm 2019 để chấm dứt hợp đồng lao động.
(iii) Trường hợp người sử dụng lao động không muốn nhận lại người lao động và người lao động đồng ý thì ngoài khoản tiền người sử dụng lao động phải trả theo quy định tại khoản (i) và trợ cấp thôi việc theo quy định tại Điều 46 Bộ luật Lao động năm 2019, hai bên thỏa thuận khoản tiền bồi thường thêm cho người lao động nhưng ít nhất bằng 02 tháng tiền lương theo hợp đồng lao động để chấm dứt hợp đồng lao động.
Quy trình và quyền của NSDLĐ khi sa thải:
Việc sa thải phải tuân theo quy trình và các điều kiện quy định cụ thể trong hợp đồng lao động và Nghị định số 05/2015/NĐ-CP. Quy trình bao gồm việc thông báo trước cho người lao động, thỏa thuận đàm phán (nếu có), và thực hiện các thủ tục pháp lý cần thiết.
Kết luận:
NSDLĐ có quyền sa thải người lao động trong một số trường hợp cụ thể, nhưng việc này phải tuân theo quy định của Nghị định số 05/2015/NĐ-CP và quyền của người lao động phải được bảo vệ. Để biết thêm chi tiết về quy trình và quy định liên quan đến sa thải người lao động, bạn có thể tìm hiểu tại Thủ Tục Pháp Luật.