0888889366
Tra cứu thông tin hợp đồng
timeline_post_file647efd10a7975-kelly-sikkema-M98NRBuzbpc-unsplash.jpg.webp

Tính cấp thiết của đề tài sự tham gia của người dân vào quy trình ngân sách nhà nước

Tính cấp thiết của đề tài sự tham gia của người dân vào quy trình ngân sách nhà nước

Sự tham gia của người dân vào quy trình ngân sách nhà nước luôn là chủ đề được giới nghiên cứu quan tâm. Thúc đẩy sự tham gia của người dân như một phương thức để cải thiện hiệu quả của khu vực công nói chung và của quy trình ngân sách nói riêng đã được chứng minh cả về lý thuyết và thực tiễn. 

Đồng thời với việc được xem như một phương thức trong quản trị ngân sách hiệu quả, tham gia vào quy trình ngân sách của người dân cũng được nhìn nhận, đánh giá như là một quyền cơ bản của con người được pháp luật quốc tế ghi nhận. 

Hơn thế nữa, sự tham gia của người dân vào quy trình ngân sách nhà nước còn là một dấu hiệu thể hiện bản chất của nhà nước. Một quốc gia tôn trọng và thể chế hóa sự tham gia của người dân trong lĩnh vực công được xem là dân chủ, lấy quyền lực nhân dân làm gốc cho tổ chức và hoạt động của chính quyền, mọi hoạt động của nhà nước đều vì mục tiêu phát triển của người dân. 

Sự tham gia của người dân vào quy trình ngân sách nhà nước dưới góc độ thực tiễn đã được mô hình và áp dụng ở nhiều quốc gia trên phạm vi toàn cầu vì các giá trị mà nó mang lại gồm: 

Thứ nhất, thúc đẩy phát triển kinh tế, bởi vì sự tham gia của người dân vào quy trình ngân sách nhà nước liên hệ mật thiết với công khai, minh bạch và thúc đẩy trách nhiệm giải trình. Các nhân tố này khi được áp dụng đồng thời sẽ giúp cho ngân sách nhà nước được quản lý và sử dụng có hiệu quả hơn. Các công trình đầu tư công giảm được lãng phí, tránh đội vốn trong quá trình thực hiện dự án. Bên cạnh đó, vì sự tham gia thúc đẩy trách nhiệm giải trình và sự minh bạch, chỉ số tín nhiệm quốc gia tốt sẽ làm giảm chi phí vay nợ của quốc gia. Đối với các dự án tài trợ quốc tế, sự tham gia của người dân giúp cho cộng đồng được hưởng các lợi ích vật chất trực tiếp, trong đó, mục tiêu giảm nghèo cũng được biết đến như là kết quả của việc người dân tham gia vào quy trình ngân sách dự án. 

Thứ hai, sự tham gia vào quy trình ngân sách của người dân giúp cải thiện và 

đổi mới quản trị nhà nước. Tham gia của người dân vào quy trình ngân sách nhà nước trở thành một nguyên tắc trong quản trị nhà nước trở nên phổ biến khi hệ thống kinh tế kế hoạch hóa tập trung sụp đổ. Khi ấy các quốc gia chuyển đổi có nhu cầu tìm kiếm mô hình thể chế mới, cùng thời điểm với làn sóng toàn cầu hóa và nhu cầu mở rộng thị trường của các nước phát triển phương Tây. Trong bối cảnh đó, quyền tham gia như một trụ cột trong các nguyên tắc của quản trị tốt đã được thúc đẩy bởi các tổ chức quốc tế. 

Bộ nguyên tắc quản trị tốt trong đó có sự tham gia của người dân khi áp dụng trong quản trị nhà nước đã giúp: giảm tham nhũng và lợi ích nhóm trong quá trình ra quyết định ngân sách nhà nước; cải thiện mối quan hệ nhà nước với người dân; cung cấp đầu vào hiệu quả cho quá trình ra quyết định. 

Thứ ba, tham gia của người dân vào quy trình ngân sách nhà nước đã được chứng minh tạo công bằng trong dịch vụ công. Những minh chứng áp dụng thành công sự tham gia ngân sách của người dân ở nhiều quốc gia đã cho thấy rằng, khi nhà nước phân bổ dịch vụ công, sự tham gia đã mang dịch vụ công tới với những đối tượng vốn bị loại trừ hoặc yếu thế. Khi từng công dân có cơ hội tham gia với lá phiếu có giá trị như nhau thì kết quả cung cấp dịch vụ công được cho thấy đến với những người nghèo hơn thay vì bị ảnh hưởng và phục vụ nhu cầu của tầng lớp tinh hoa. 

Tại Việt Nam, sự tham gia của người dân vào khu vực công nói chung vào quy trình ngân sách nhà nước nói riêng được ghi nhận với tên gọi là các hình thức dân chủ ở cơ sở, bước đầu được xây dựng trên nền tảng từ các Nghị quyết trong các kỳ Đại hội của ĐCSVN. Khẩu hiệu: “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” được nhắc tới từ Đại hội Đảng toàn quốc lần VI năm 1986. Tuy nhiên, để thúc đẩy và triển khai khẩu hiệu này thành các quy định của pháp luật phải kể đến Nghị Quyết số 03- NQ/HNTW ngày 18/6/1997 Hội nghị lần thứ ba BCHTW Đảng khoá VIII Về phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tiếp tục xây dựng Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong sạch, vững mạnh và đăc biệt, ĐCSVN ban hành Chỉ thị số 30 CT/TW về xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở nhận định rằng, để phát huy quyền làm chủ của dân, thu hút nhân dân tham gia quản lý nhà nước, tham gia kiểm kê, kiểm soát nhà nước, khắc phục tình trạng suy thoái, quan liêu, mất dân chủ và nạn tham nhũng. Theo đó, đạt được mục tiêu này, ĐCSVN nhận định nhiệm vụ cấp bách chính là phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở, nơi trực tiếp thực hiện mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, là nơi cần thực hiện quyền dân chủ của nhân dân một cách trực tiếp và rộng rãi nhất và yêu cầu nhà nước cần ban hành quy chế dân chủ ở cơ sở.

Trước đòi hỏi từ thực tiễn và thúc đẩy của ĐCSVN, vấn đề dân chủ cơ sở bắt đầu được thể chế hóa từ những năm 1998. Theo dòng ngân sách nhà nước, quyền tham gia của người dân được chia thành ba nhóm lĩnh vực khác nhau. 

Thứ nhất, ngân sách của chính quyền cấp xã, người dân được quy định về quyền tham gia bắt đầu bằng Nghị quyết số 54/1998/NQ -UBTVQH ngày 26 tháng 2 năm 1998 Về Quy chế thực hiện dân chủ ở xã, thị trấn, phường. Từ Nghị quyết này, Chính phủ ban hành Nghị định số 29/1998/NĐ/CP, ngày 11-5-1998 Về Quy chế thực hiện dân chủ ở xã. Năm 2003 văn bản này được thay thế bằng Nghị định số 79/2003/NĐ-CP Quy chế thực hiện dân chủ ở xã. Bốn năm sau, tức năm 2007, quyền tham gia ngân sách tại chính quyền cơ sở của người dân được điều chỉnh bằng Pháp lệnh thực hiện dân chủ cơ sở tại xã, phường, thị trấn. Vào tháng 7 tới đây, quyền tham gia của người dân vào quy trình ngân sách nhà nước chính thức được điều chỉnh bởi Luật Thực hiện dân chủ ở cở sở 2023. 

Thứ hai, ngân sách khi được sử dụng tại các doanh nghiệp nhà nước được điều chỉnh bằng Nghị quyết số 60/1998/NQ - UBTVQH ngày 20 tháng 8 năm 1998, quy chế thực hiện dân chủ ở doanh nghiệp nhà nước; Nghị định số 07/1999/NĐ-CP ngày 13-2-1999 Quy chế thực hiện dân chủ ở doanh nghiệp nhà nước.

Và thứ ba, ngân sách nhà nước tại các đơn vị sự nghiệp công lập, được ghi nhận bằng Nghị quyết số 55/1998/NQ - UBTVQH ngày 30 tháng 8 năm 1998 về Quy chế thực hiện dân chủ của cơ quan; Nghị định số 71/1998/NĐ-CP ban hành ngày 8-9-1998 về Quy chế thực hiện dân chủ trong hoạt động của cơ quan. Hiện nay, vấn đề ngân sách nhà nước tại các đơn vị sự nghiệp công lập và cơ quan hành chính nhà nước được điều chỉnh bởi Nghị định số 04/2015/NĐ-CP ngày 09/01/2015 của Chính phủ. 

Năm 2015, lần đầu tiên pháp luật ngân sách nhà nước ở Việt Nam ghi nhận quyền tham gia của người dân vào quy trình ngân sách nhà nước tại Điều 16 Luật Ngân sách nhà nước 2015 với tên gọi: giám sát ngân sách nhà nước của cộng đồng. 

Như vậy, tính tới thời điểm hiện tại, vấn đề về quyền tham gia của người dân vào quy trình ngân sách nhà nước đã được chính thức ghi nhận gần 25 năm, nhưng Việt Nam đang phải đối mặt với tình trạng tham nhũng ngày càng nghiêm trọng1, các dự án đầu tư công không hiệu quả2, phân bổ nguồn lực chưa công bằng, chỉ số công khai minh bạch ngân sách được đánh giá quốc tế còn rất thấp3. 

  Dẫn chứng:                                                   

11 Báo cáo tổng kết 10 năm công tác phòng, chống tham nhũng của Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng đã nhận định: Tham nhũng là hiện tượng xã hội tiêu cực tồn tại ở nhiều quốc gia trên thế giới. Tham nhũng gây thiệt hại nghiêm trọng đến các nguồn lực công, xâm hại đến hoạt động đúng đắn của bộ máy nhà nước, làm sai lệch công lý, công bằng xã hội, làm suy giảm niềm tin, cản trở các nỗ lực giảm nghèo và phát triển đất nước, xã hội. Công tác PCTN được Đảng, Nhà nước ta xác định là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên, vừa cấp bách, vừa khó khăn, phức tạp, lâu dài. Số ngân sách nhà nước được kiến nghị phải thu hồi, xử lý tài chính hơn 975.000 tỉ đồng, gần 76.000 ha đất. Công tác thu hồi tài sản tham nhũng có chuyển biến tích cực; cơ quan thi hành án dân sự các cấp đã thu hồi 61.000 tỷ đồng, đạt 34,7%, trong khi năm 2013, tỷ lệ này chỉ đạt dưới 10%. Riêng các vụ án thuộc diện Ban Chỉ đạo theo dõi, chỉ đạo đã thu hồi được gần 50.000 tỷ đồng, đạt 41,3%. 

Trong 10 năm qua, cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp đã thi hành kỷ luật hơn 2.700 tổ chức đảng, gần 168.000 đảng viên, trong đó có hơn 7.390 đảng viên bị kỷ luật do tham nhũng. Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã kỷ luật hơn 170 cán bộ cấp cao diện Trung ương quản lý, trong đó có 33 Ủy viên, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, hơn 50 sĩ quan cấp tướng trong lực lượng vũ trang. 

Từ 2012 đến 2022, ĐCS Việt Nam ban hành 250  văn bản xây dựng, chỉnh đốn Đảng và phòng, chống tham nhũng. Quốc Hội VN ban hành hơn 300 luật, pháp lệnh, nghị quyết. Chính phủ ban hành hơn 2.600 nghị định, quyết định, chỉ thị. Cấp ủy ở trung ương ban hành hơn 45.000 văn bản, ở địa phương gần 100.000 văn bản cụ thể hóa, hướng dẫn thi hành, tổ chức thực hiện công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực.  Xin xem thêm tại: https://dangcongsan.vn/tieu-diem/10-nam-phong-chong-tham-nhung-quyet-liet-dot-phadat-nhieu-ket-qua-toan-dien-614124.html 

  1. Theo báo cáo của Ủy ban Tài chính, Ngân sách của Quốc Hội.  Từ giai đoạn 2016 – 2021 tổng số 3.085 dự án được xác định có thất thoát, gây lãng phí, giảm hiệu quả đầu tư công. dự án chậm tiến độ. Số dự án chậm tiến độ đang có xu hướng tăng lên qua các năm. Tổng hợp báo cáo chưa đầy đủ của các bộ, ngành, địa phương: năm 2016 - 1.448 dự án chậm tiến độ, năm 2017 - 1.609 dự án, năm 2018 - 1.778 dự án, năm 2019 - 1.878 dự án, năm 2020 - 1.867 dự án, năm 2021 - 1.962 dự án gây thất thoát, lãng phí. 

 Xin xem thêm tại:  https://vtc.vn/1-300-vu-an-tham-nhung-gay-that-thoat-gan-32-000-ty-dong-ngan-sachtrong-5-nam- 

r710568.html#:~:text=1.300 vụ án tham nhũng gây thất thoát,32.000 tỷ đồng n gân sách trong 5 năm 

  1. trong quy trình ngân sách nhà nước tại Việt Nam, người dân được tham gia hạn chế vào tiến trình phê chuẩn ngân sách của Quốc hội. Ít hoặc không được tham gia vào việc lập, thực hiện dự toán và kiểm toán ngân sách. Xin xem thêm tại: https://internationalbudget.org/open-budget-survey/country-results/2021/vietnam; Báo cáo OBI Việt Nam (ngansachvietnam.net); 2021-01-14-2021-OBS-Guide-and-Questionnaire_Final-ENGLISH.pdf (internationalbudget.org) 

 

Vậy nguyên nhân thực chất của vấn đề này bắt nguồn từ đâu? Tại sao quy định pháp luật được thiết kế khá đầy đủ trong một thời gian dài nhưng chưa mang lại kết quả chưa thực sự? Mâu thuẫn này thôi thúc NCS lựa chọn nội dung: Sự tham gia của người dân vào quy trình ngân sách nhà nước làm đề tài của Luận án. Với mục tiêu làm rõ nội dung lý thuyết về sự tham gia của người dân vào quy trình ngân sách nhà nước, đồng thời phân tích và luận giải các quy định pháp luật về quyền tham gia của người dân vào quy trình ngân sách nhà nước theo tiến trình Đổi mới ở Việt Nam cho đến thời điểm hiện tại, tìm ra nguyên nhân thực sự trả lời cho câu hỏi: vì sao sự tham gia của người dân vào quy trình ngân sách của nhà nước tại Việt Nam đã được ghi nhận khá đầy đủ trong hệ thống pháp luật nhưng lại chưa thực sự mang lại hiệu quả? từ những bất cập đó, Luận án đồng thời đưa ra một số các gợi ý chính sách nhằm hoàn thiện pháp luật về quyền tham gia của người dân vào quy trình ngân sách nhà nước. 

avatar
Vương Diệu Hồng
594 ngày trước
Tính cấp thiết của đề tài sự tham gia của người dân vào quy trình ngân sách nhà nước
Tính cấp thiết của đề tài sự tham gia của người dân vào quy trình ngân sách nhà nướcSự tham gia của người dân vào quy trình ngân sách nhà nước luôn là chủ đề được giới nghiên cứu quan tâm. Thúc đẩy sự tham gia của người dân như một phương thức để cải thiện hiệu quả của khu vực công nói chung và của quy trình ngân sách nói riêng đã được chứng minh cả về lý thuyết và thực tiễn. Đồng thời với việc được xem như một phương thức trong quản trị ngân sách hiệu quả, tham gia vào quy trình ngân sách của người dân cũng được nhìn nhận, đánh giá như là một quyền cơ bản của con người được pháp luật quốc tế ghi nhận. Hơn thế nữa, sự tham gia của người dân vào quy trình ngân sách nhà nước còn là một dấu hiệu thể hiện bản chất của nhà nước. Một quốc gia tôn trọng và thể chế hóa sự tham gia của người dân trong lĩnh vực công được xem là dân chủ, lấy quyền lực nhân dân làm gốc cho tổ chức và hoạt động của chính quyền, mọi hoạt động của nhà nước đều vì mục tiêu phát triển của người dân. Sự tham gia của người dân vào quy trình ngân sách nhà nước dưới góc độ thực tiễn đã được mô hình và áp dụng ở nhiều quốc gia trên phạm vi toàn cầu vì các giá trị mà nó mang lại gồm: Thứ nhất, thúc đẩy phát triển kinh tế, bởi vì sự tham gia của người dân vào quy trình ngân sách nhà nước liên hệ mật thiết với công khai, minh bạch và thúc đẩy trách nhiệm giải trình. Các nhân tố này khi được áp dụng đồng thời sẽ giúp cho ngân sách nhà nước được quản lý và sử dụng có hiệu quả hơn. Các công trình đầu tư công giảm được lãng phí, tránh đội vốn trong quá trình thực hiện dự án. Bên cạnh đó, vì sự tham gia thúc đẩy trách nhiệm giải trình và sự minh bạch, chỉ số tín nhiệm quốc gia tốt sẽ làm giảm chi phí vay nợ của quốc gia. Đối với các dự án tài trợ quốc tế, sự tham gia của người dân giúp cho cộng đồng được hưởng các lợi ích vật chất trực tiếp, trong đó, mục tiêu giảm nghèo cũng được biết đến như là kết quả của việc người dân tham gia vào quy trình ngân sách dự án. Thứ hai, sự tham gia vào quy trình ngân sách của người dân giúp cải thiện và đổi mới quản trị nhà nước. Tham gia của người dân vào quy trình ngân sách nhà nước trở thành một nguyên tắc trong quản trị nhà nước trở nên phổ biến khi hệ thống kinh tế kế hoạch hóa tập trung sụp đổ. Khi ấy các quốc gia chuyển đổi có nhu cầu tìm kiếm mô hình thể chế mới, cùng thời điểm với làn sóng toàn cầu hóa và nhu cầu mở rộng thị trường của các nước phát triển phương Tây. Trong bối cảnh đó, quyền tham gia như một trụ cột trong các nguyên tắc của quản trị tốt đã được thúc đẩy bởi các tổ chức quốc tế. Bộ nguyên tắc quản trị tốt trong đó có sự tham gia của người dân khi áp dụng trong quản trị nhà nước đã giúp: giảm tham nhũng và lợi ích nhóm trong quá trình ra quyết định ngân sách nhà nước; cải thiện mối quan hệ nhà nước với người dân; cung cấp đầu vào hiệu quả cho quá trình ra quyết định. Thứ ba, tham gia của người dân vào quy trình ngân sách nhà nước đã được chứng minh tạo công bằng trong dịch vụ công. Những minh chứng áp dụng thành công sự tham gia ngân sách của người dân ở nhiều quốc gia đã cho thấy rằng, khi nhà nước phân bổ dịch vụ công, sự tham gia đã mang dịch vụ công tới với những đối tượng vốn bị loại trừ hoặc yếu thế. Khi từng công dân có cơ hội tham gia với lá phiếu có giá trị như nhau thì kết quả cung cấp dịch vụ công được cho thấy đến với những người nghèo hơn thay vì bị ảnh hưởng và phục vụ nhu cầu của tầng lớp tinh hoa. Tại Việt Nam, sự tham gia của người dân vào khu vực công nói chung vào quy trình ngân sách nhà nước nói riêng được ghi nhận với tên gọi là các hình thức dân chủ ở cơ sở, bước đầu được xây dựng trên nền tảng từ các Nghị quyết trong các kỳ Đại hội của ĐCSVN. Khẩu hiệu: “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” được nhắc tới từ Đại hội Đảng toàn quốc lần VI năm 1986. Tuy nhiên, để thúc đẩy và triển khai khẩu hiệu này thành các quy định của pháp luật phải kể đến Nghị Quyết số 03- NQ/HNTW ngày 18/6/1997 Hội nghị lần thứ ba BCHTW Đảng khoá VIII Về phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tiếp tục xây dựng Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong sạch, vững mạnh và đăc biệt, ĐCSVN ban hành Chỉ thị số 30 CT/TW về xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở nhận định rằng, để phát huy quyền làm chủ của dân, thu hút nhân dân tham gia quản lý nhà nước, tham gia kiểm kê, kiểm soát nhà nước, khắc phục tình trạng suy thoái, quan liêu, mất dân chủ và nạn tham nhũng. Theo đó, đạt được mục tiêu này, ĐCSVN nhận định nhiệm vụ cấp bách chính là phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở, nơi trực tiếp thực hiện mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, là nơi cần thực hiện quyền dân chủ của nhân dân một cách trực tiếp và rộng rãi nhất và yêu cầu nhà nước cần ban hành quy chế dân chủ ở cơ sở.Trước đòi hỏi từ thực tiễn và thúc đẩy của ĐCSVN, vấn đề dân chủ cơ sở bắt đầu được thể chế hóa từ những năm 1998. Theo dòng ngân sách nhà nước, quyền tham gia của người dân được chia thành ba nhóm lĩnh vực khác nhau. Thứ nhất, ngân sách của chính quyền cấp xã, người dân được quy định về quyền tham gia bắt đầu bằng Nghị quyết số 54/1998/NQ -UBTVQH ngày 26 tháng 2 năm 1998 Về Quy chế thực hiện dân chủ ở xã, thị trấn, phường. Từ Nghị quyết này, Chính phủ ban hành Nghị định số 29/1998/NĐ/CP, ngày 11-5-1998 Về Quy chế thực hiện dân chủ ở xã. Năm 2003 văn bản này được thay thế bằng Nghị định số 79/2003/NĐ-CP Quy chế thực hiện dân chủ ở xã. Bốn năm sau, tức năm 2007, quyền tham gia ngân sách tại chính quyền cơ sở của người dân được điều chỉnh bằng Pháp lệnh thực hiện dân chủ cơ sở tại xã, phường, thị trấn. Vào tháng 7 tới đây, quyền tham gia của người dân vào quy trình ngân sách nhà nước chính thức được điều chỉnh bởi Luật Thực hiện dân chủ ở cở sở 2023. Thứ hai, ngân sách khi được sử dụng tại các doanh nghiệp nhà nước được điều chỉnh bằng Nghị quyết số 60/1998/NQ - UBTVQH ngày 20 tháng 8 năm 1998, quy chế thực hiện dân chủ ở doanh nghiệp nhà nước; Nghị định số 07/1999/NĐ-CP ngày 13-2-1999 Quy chế thực hiện dân chủ ở doanh nghiệp nhà nước.Và thứ ba, ngân sách nhà nước tại các đơn vị sự nghiệp công lập, được ghi nhận bằng Nghị quyết số 55/1998/NQ - UBTVQH ngày 30 tháng 8 năm 1998 về Quy chế thực hiện dân chủ của cơ quan; Nghị định số 71/1998/NĐ-CP ban hành ngày 8-9-1998 về Quy chế thực hiện dân chủ trong hoạt động của cơ quan. Hiện nay, vấn đề ngân sách nhà nước tại các đơn vị sự nghiệp công lập và cơ quan hành chính nhà nước được điều chỉnh bởi Nghị định số 04/2015/NĐ-CP ngày 09/01/2015 của Chính phủ. Năm 2015, lần đầu tiên pháp luật ngân sách nhà nước ở Việt Nam ghi nhận quyền tham gia của người dân vào quy trình ngân sách nhà nước tại Điều 16 Luật Ngân sách nhà nước 2015 với tên gọi: giám sát ngân sách nhà nước của cộng đồng. Như vậy, tính tới thời điểm hiện tại, vấn đề về quyền tham gia của người dân vào quy trình ngân sách nhà nước đã được chính thức ghi nhận gần 25 năm, nhưng Việt Nam đang phải đối mặt với tình trạng tham nhũng ngày càng nghiêm trọng1, các dự án đầu tư công không hiệu quả2, phân bổ nguồn lực chưa công bằng, chỉ số công khai minh bạch ngân sách được đánh giá quốc tế còn rất thấp3.   Dẫn chứng:                                                   11 Báo cáo tổng kết 10 năm công tác phòng, chống tham nhũng của Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng đã nhận định: Tham nhũng là hiện tượng xã hội tiêu cực tồn tại ở nhiều quốc gia trên thế giới. Tham nhũng gây thiệt hại nghiêm trọng đến các nguồn lực công, xâm hại đến hoạt động đúng đắn của bộ máy nhà nước, làm sai lệch công lý, công bằng xã hội, làm suy giảm niềm tin, cản trở các nỗ lực giảm nghèo và phát triển đất nước, xã hội. Công tác PCTN được Đảng, Nhà nước ta xác định là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên, vừa cấp bách, vừa khó khăn, phức tạp, lâu dài. Số ngân sách nhà nước được kiến nghị phải thu hồi, xử lý tài chính hơn 975.000 tỉ đồng, gần 76.000 ha đất. Công tác thu hồi tài sản tham nhũng có chuyển biến tích cực; cơ quan thi hành án dân sự các cấp đã thu hồi 61.000 tỷ đồng, đạt 34,7%, trong khi năm 2013, tỷ lệ này chỉ đạt dưới 10%. Riêng các vụ án thuộc diện Ban Chỉ đạo theo dõi, chỉ đạo đã thu hồi được gần 50.000 tỷ đồng, đạt 41,3%. Trong 10 năm qua, cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp đã thi hành kỷ luật hơn 2.700 tổ chức đảng, gần 168.000 đảng viên, trong đó có hơn 7.390 đảng viên bị kỷ luật do tham nhũng. Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã kỷ luật hơn 170 cán bộ cấp cao diện Trung ương quản lý, trong đó có 33 Ủy viên, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, hơn 50 sĩ quan cấp tướng trong lực lượng vũ trang. Từ 2012 đến 2022, ĐCS Việt Nam ban hành 250  văn bản xây dựng, chỉnh đốn Đảng và phòng, chống tham nhũng. Quốc Hội VN ban hành hơn 300 luật, pháp lệnh, nghị quyết. Chính phủ ban hành hơn 2.600 nghị định, quyết định, chỉ thị. Cấp ủy ở trung ương ban hành hơn 45.000 văn bản, ở địa phương gần 100.000 văn bản cụ thể hóa, hướng dẫn thi hành, tổ chức thực hiện công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực.  Xin xem thêm tại: https://dangcongsan.vn/tieu-diem/10-nam-phong-chong-tham-nhung-quyet-liet-dot-phadat-nhieu-ket-qua-toan-dien-614124.html Theo báo cáo của Ủy ban Tài chính, Ngân sách của Quốc Hội.  Từ giai đoạn 2016 – 2021 tổng số 3.085 dự án được xác định có thất thoát, gây lãng phí, giảm hiệu quả đầu tư công. dự án chậm tiến độ. Số dự án chậm tiến độ đang có xu hướng tăng lên qua các năm. Tổng hợp báo cáo chưa đầy đủ của các bộ, ngành, địa phương: năm 2016 - 1.448 dự án chậm tiến độ, năm 2017 - 1.609 dự án, năm 2018 - 1.778 dự án, năm 2019 - 1.878 dự án, năm 2020 - 1.867 dự án, năm 2021 - 1.962 dự án gây thất thoát, lãng phí.  Xin xem thêm tại:  https://vtc.vn/1-300-vu-an-tham-nhung-gay-that-thoat-gan-32-000-ty-dong-ngan-sachtrong-5-nam- r710568.html#:~:text=1.300 vụ án tham nhũng gây thất thoát,32.000 tỷ đồng n gân sách trong 5 năm trong quy trình ngân sách nhà nước tại Việt Nam, người dân được tham gia hạn chế vào tiến trình phê chuẩn ngân sách của Quốc hội. Ít hoặc không được tham gia vào việc lập, thực hiện dự toán và kiểm toán ngân sách. Xin xem thêm tại: https://internationalbudget.org/open-budget-survey/country-results/2021/vietnam; Báo cáo OBI Việt Nam (ngansachvietnam.net); 2021-01-14-2021-OBS-Guide-and-Questionnaire_Final-ENGLISH.pdf (internationalbudget.org)  Vậy nguyên nhân thực chất của vấn đề này bắt nguồn từ đâu? Tại sao quy định pháp luật được thiết kế khá đầy đủ trong một thời gian dài nhưng chưa mang lại kết quả chưa thực sự? Mâu thuẫn này thôi thúc NCS lựa chọn nội dung: Sự tham gia của người dân vào quy trình ngân sách nhà nước làm đề tài của Luận án. Với mục tiêu làm rõ nội dung lý thuyết về sự tham gia của người dân vào quy trình ngân sách nhà nước, đồng thời phân tích và luận giải các quy định pháp luật về quyền tham gia của người dân vào quy trình ngân sách nhà nước theo tiến trình Đổi mới ở Việt Nam cho đến thời điểm hiện tại, tìm ra nguyên nhân thực sự trả lời cho câu hỏi: vì sao sự tham gia của người dân vào quy trình ngân sách của nhà nước tại Việt Nam đã được ghi nhận khá đầy đủ trong hệ thống pháp luật nhưng lại chưa thực sự mang lại hiệu quả? từ những bất cập đó, Luận án đồng thời đưa ra một số các gợi ý chính sách nhằm hoàn thiện pháp luật về quyền tham gia của người dân vào quy trình ngân sách nhà nước.