0888889366
Tra cứu thông tin hợp đồng
timeline_post_file647f01d1aaebd-wance-paleri-NnRIrQ1USyw-unsplash.jpg.webp

QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ SỰ THAM GIA CỦA NGƯỜI DÂN VÀO QUY TRÌNH NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC

3.1. Cơ sở chính trị cho quy định pháp luật về sự tham gia của người dân vào quy trình ngân sách nhà nước  

Tại Việt Nam, hệ thống Nhà nước và pháp luật được vận hành dưới sự lãnh đạo của ĐCSVN, đây là một nguyên tắc tổ chức Nhà nước và pháp luật có tính chất đặc thù trong chế độ một Đảng lãnh đạo. Muốn đánh giá về sự tham gia của người dân vào quy trình ngân sách nhà nước của người dân ở Việt Nam, cần phải phân tích cơ sở chính trị của pháp luật, đó chính là các chủ trương của ĐCSVN về sự tham gia của người dân, đây là cơ sở quan trọng nhất, quyết định tới không gian cho sự tham gia sẽ được thể chế hóa trong Hiến pháp và hệ thống pháp luật chuyên ngành. Có thể khái quát định hướng của ĐCSVN về quyền tham gia của người dân vào quy trình ngân sách nhà nước theo ba giai đoạn, cụ thể như sau:  

Giai đoạn trước 1991 

Đại hội Đảng lần thứ VII vào năm 1991 đặt dấu mốc quan trọng cho quá trình đổi mới tư duy của ĐCSVN về sự tham gia của người dân trong một nền quản trị quốc gia đổi mới. Trước đó, bị ảnh hưởng bởi tư duy của nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, sự tham gia của người dân vào quy trình ngân sách nhà nước chưa được ĐCSVN đề cập rõ ràng. Quyền làm chủ của người dân được diễn giải chung chung là “tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, nhân dân là chủ thể và là người thực hiện quyền lực chung của xã hội”.  

Vào thời điểm trước 1991, sự tham gia của người dân, nếu có được ghi nhận, cũng dưới khái niệm quyền làm chủ của nhân dân. Quyền làm chủ của nhân dân được thể hiện trong Tư tưởng Hồ Chí Minh, nhấn mạnh: “Để thực hiện tốt nhiệm vụ cách mạng, nhà nước ta phải phát triển quyền làm chủ và sinh hoạt chính trị của toàn dân, để phát huy tính tích cực và sáng tạo của Nhân dân, làm cho mọi người công dân Việt Nam thực sự tham gia quản lý công việc của Nhà nước, ra sức xây dựng chủ nghĩa xã hội” (Hồ Chí Minh toàn tập, NXB Chính trị Quốc gia, T.12, trang 374). 

Mức độ tham gia của người dân lần đầu được bàn tới thông qua khẩu hiệu: 

dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, theo đó sự tham gia của người dân về cơ bản được xuất phát từ quyền dân chủ nhân dân và là nền tảng để xây dựng và vận hành hoạt động cũng như tổ chức của bộ máy nhà nước và sự tham gia này được thiết kế trên nền tảng của nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung.  

Pháp luật Việt Nam thời kỳ trước 1991 không khuyến khích sở hữu tư nhân, quyền tham gia của người dân nói chung chưa được chính thức đề cập đến, liên quan đến bản chất của sự tham gia như là quyền con người là nền tảng dân chủ nhân dân, ĐCSVN có ghi  nhận nhưng nhất quán ưu tiên và ủng hộ sự tham gia được thực hiện thông qua bởi một tổ chức (tập thể) nhất định: “tăng cường chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động”. Quyền làm chủ tập thể theo mô hình XHCN tức là người dân lao động được thực thi quyền của mình trong những tổ chức mà Nhà nước cho phép.  

Giai đoạn 1991-2001 

Năm 1991, ĐCSVN thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH với nhận định sự nghiệp cách mạng của quốc gia chính là cuộc cách mạng của người dân và vì người dân . Cương lĩnh gồm 6 trụ cột, trong đó, trụ cột đầu tiên là “Do nhân dân làm chủ” để xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ XHCN, đảm bảo quyền lực thuộc về nhân dân. 

Dân chủ đi đôi với kỷ luật và phải được luật hóa. Đảng nhấn mạnh vấn đề dân chủ cần phải được thực hiện trên thực tế và ở tất cả các lĩnh vực. Đặc biệt, phải được thể chế và bảo đảm thực thi bằng pháp luật. Vì vậy, Đại Hội VII đã đặt ra nhiệm vụ phải sửa đổi Hiến pháp, tăng cường pháp chế XHCN. Tiếp tục sửa đổi và xây dựng hệ thống pháp luật về kinh tế, văn hóa, xã hội, về hình sự, dân sự, hành chính, về quyền và nghĩa vụ công dân. Đồng thời, định hướng xây dựng các đạo luật nhằm xác định quyền công dân và quyền con người, quyền đi đôi với trách nhiệm cá nhân (Văn kiện Đảng toàn tập, NXB Chính trị Quốc gia, 2004). Đại hội của Đảng lần VII cũng nêu rõ một trong những nhiệm vụ trọng tâm là: “Tiếp tục thực hiện tốt dân chủ ở cơ sở; thể chế hóa và thực hiện tốt phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” (Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia, 2016, tr.168, 38, 169, 39).  

Để thúc đẩy và triển khai khẩu hiệu này thành các quy định của pháp luật phải kể đến Nghị Quyết số 03 ngày 18/6/1997, Hội nghị lần thứ ba BCHTW Đảng khoá VIII về phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tiếp tục xây dựng Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong sạch, vững mạnh (Nghi quyết 03) và Chỉ thị số 30 CT/TW về xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở (Chỉ thị số 

30). Nội dung của hai văn bản quan trọng này chính là cơ sở để nhà nước xây dựng các quy định pháp luật đầu tiên ngoài Hiến pháp quy định chi tiết về sự tham gia của người dân vào quy trình ngân sách nhà nước. 

Khi ban hành Nghị Quyết 03 và Chỉ thị số 30, ĐCSVN đã cho thấy, bối cảnh 

Việt Nam trong nhưng năm 1997 sau gần 10 năm Đổi mới, đang phải đối diện với nhiều vấn đề liên quan kinh tế và quản trị nhà nước. Đó là nạn quan liêu, lòng tin vào Đảng và nhà nước của nhân dân bị giảm sút. Liên quan đến ngân sách nhà nước, ĐCSVN khẳng định đất đai, vốn và tài sản nhà nước chưa được quản lý chặt chẽ dẫn đến lãng phí, tham nhũng nghiêm trọng. Để giải quyết những vấn đề này, ĐCSVN lấy vấn đề dân chủ nhân dân mà cụ thể là phát huy và mở rộng quyền làm chủ của nhân dân, mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong xây dựng và quản lý nhà nước, củng cố và cải thiện dân chủ đại diện, đồng thời nghiên cứu thực hiện từng bước chế độ dân chủ trực tiếp, trước hết ở cấp cơ sở. 

Từ Nghị Quyết 03, Chỉ thị số 30 cho thấy rằng, vấn đề về sự tham gia của người dân như là một hình thức dân chủ trực tiếp bắt đầu được thực hiện và nơi áp dụng đầu tiên là cấp chính quyền thấp nhất trong bộ máy nhà nước Việt Nam. 

Về mục đích, nhằm khai thác những giá trị mà sự tham gia của người dân mang lại như cải thiện quản trị nhà nước và phát triển kinh tế. Trước bối cảnh phân cấp quản lý tài chính nói riêng và phân cấp quản lý nói chung còn chưa rõ, chưa cụ thể, sử dụng ngân sách nhà nước còn chưa hiệu quả, tham nhũng thành vấn nạn, quan liêu nghiêm trọng, vì thế, ĐCSVN đã đặt vấn đề dân chủ nhân dân trong đó khuyến khích và mở rộng quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội của người dân là ưu tiên hàng đầu trong những phương hướng cải thiện và đổi mới quản trị nhà nước.  Như vậy, sự tham gia của người dân trở thành phương hướng nhưng cũng đồng thời được sử dụng như một công cụ để cải thiện những vấn đề phát triển kinh tế và quản trị nhà nước. 

Về  phạm vi tham gia, Nghị Quyết 03 và Chỉ thị số 30 định hướng xây dựng pháp luật theo hướng khuyến khích sự tham gia gồm tất cả những vấn đề quan trọng có ảnh hưởng đến đông đảo nhân dân ở cấp cơ sở, đó là các vấn đề tác động trực tiếp đến đời sống và sinh kế của người dân tại cơ sở. Lĩnh vực tài chính ngân sách nhà nước được đặc biệt chú trọng và chia thành hai mảng theo chủ thể sử dụng ngân sách:  

Thứ nhất, đối với HĐND và UBND, Nghị quyết 03 yêu cầu nghiên cứu và từng bước thực hiện dân chủ trực tiếp đối với những quyết định quan trọng sử dụng nguồn vốn có sự đóng góp của người dân hoặc những công trình phúc lợi.  

Việc xác định được phạm vi và lĩnh vực khuyến khích tham gia của ĐCSVN cho thấy sự định hướng này là đúng. Bắt đầu từ cấp cơ sở, nơi tiếp xúc trực tiếp với người dân sẽ nhận được những phản hồi nhanh và chính xác đối với các chính sách của nhà nước. Đồng thời khẳng định những vấn đề liên quan đến trực tiếp đến đời sống của phần lớn người dân như hạ tầng, các công trình phúc lợi là những lĩnh vực liên quan đên sử dụng ngân sách nhà nước, đặc biệt, nếu nguồn vốn thực hiện có sự đóng góp của người dân thì pháp luật cần thiết kế phù hợp để nhân dân bàn và quyết 

định, thậm chí để người dân tham gia ở mức độ cao nhất. 

Thứ hai, cơ chế báo cáo về tài sản và hoạt động liên quan đối với tài chính ngân sách của các cơ quan hành chính nhà nước, các đơn vị sự nghiệp công lập và doanh nghiệp của nhà nước. 

Như vậy, Nghị quyết 03, Chỉ thị số 30 đặt trọng tâm áp dụng hình thức dân chủ trực tiếp vào các lĩnh vực liên quan đến sử dụng ngân sách nhà nước, điều này gián tiếp khẳng định rằng đây là lĩnh vực quan trọng nhất vì nó ảnh hưởng đến đông đảo quần chúng nếu đặt trọng phạm vi hoạt động của chính quyền. Đối với doanh nghiệp hoặc các đơn vị sự nghiệp công lập thì dòng lưu chuyển của vốn ngân sách là nội dung cần phải được công khai và minh bạch. 

Về cơ chế tham gia, Nghị quyết 03, Chỉ thị số 30 không xác định rõ mà yêu cầu khi nhà nước ban hành pháp luật cần phải đưa ra những phương án phù hợp để báo cáo và có thể báo báo cáo tại các kỳ họp liên quan.  

Thời gian tham gia, không được định hướng rõ, các mốc thời gian như 6 tháng; 1 năm hoặc tại Đại hội đoàn thể cán bộ ở những cơ quan nhà nước hoặc các đơn vị sự nghiệp công lập chỉ là định hướng cho chế độ báo cáo chứ chưa phải là khoảng thời gian cụ thể để người dân tham gia. 

Về mức độ tham gia quy trình ngân sách, các văn bản đã thiết kế bám sát theo khẩu hiệu “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Theo đó, dựa vào khung tham gia được xây dựng tại Chương II cho thấy quyền tham gia của người dân vào quy trình ngân sách nhà nước theo quan điểm của ĐCSVN trong giai đoạn này được thiết kế ở ba bậc, gồm được biết thông tin về NSNN, được thảo luận và giám sát ngân sách nhà nước.  

Thông qua Nghị quyết 03 và Chỉ thị số 30 cho thấy giai đoạn này, khi Việt Nam phải đổi mới phương thức quản trị nhà nước, ĐCSVN đã nhận thấy rõ vai trò của sự tham gia của người dân vào quy trình chính sách công, trong đó có quy trình ngân sách nhà nước. Việc nhìn nhận và đánh giá lại cũng như đưa ra giải pháp cải thiện quản trị quốc gia bằng việc thúc đẩy và định hướng tăng cường pháp luật và đồng thời có các cơ chế bảo đảm thực thi quyền tham gia đã cho thấy sự đổi mới trong nhận thức của ĐCSVN về quyền tham gia. Đây là cơ sở để quyền tham gia của người dân vào quy trình ngân sách nhà nước bước đầu được pháp luật ghi nhận tại Việt Nam mặc dù được định dạng với tên gọi pháp luật về dân chủ tại cấp cơ sở.  

Giai đoạn từ sau 2001 

Trong giai đoạn phát triển thứ ba về quyền tham gia của người dân vào quy trình ngân sách nhà nước, định hướng của ĐCSVN thể hiện rõ hai vấn đề. Thứ nhất, sự tham gia của người dân nói chung vào quy trình ngân sách nhà nước nói riêng cần được ghi nhận bằng thể chế tương thích với pháp luật toàn cầu về hình thức. Thứ hai, giữ vững nền tảng pháp luật XHCN về các cơ chế tham gia. Cụ thể như sau:  

Thứ nhất, về mặt tương thích và hội nhập quốc tế, ĐCSVN yêu cầu cần tôn trọng ĐƯQT về quyền con người mà Việt Nam đã ký kết. Nghị quyết đại hội Đảng IX (2001); XI (2011); XIII (2021) ghi nhận các bậc tham gia gồm: sáng kiến; thảo luận; tranh luận và giám sát và nhà nước cần tập trung xây dựng những văn bản pháp luật liên quan trực tiếp đến quyền làm chủ của nhân dân. Để cụ thể hóa định hướng này, ĐCSVN quyết định hai nội dung quan trọng, một là, yêu cầu bổ sung quyền tham gia của người dân vào các lĩnh vực pháp lý cụ thể, bắt đầu trong các bản Hiến pháp thời kỳ Đổi Mới phân định rõ quyền con người và quyền công dân đồng thời cam kết cung cấp thông tin (điều kiện cần thiết để người dân tham gia hiệu quả hơn) thuộc trách nhiệm của nhà nước. Từ cơ sở này, pháp luật chuyên ngành đã quy định về quyền tham gia của người dân, ví dụ Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (Khoản 2 Điều 1 Luật Sửa đổi, bổ sung một số Điều của Luận 

Ban hành văn ban quy phạm pháp luật 2020); Luật Ngân sách nhà nước 2015 (Điều 16). Hai là, ĐCSVN cũng yêu cầu tạo điều kiện thực hành dân chủ trực tiếp và đặc biệt nhấn mạnh tới các hình thức dân chủ trực tiếp, đồng thời nhận định người dân là trung tâm của mọi chính sách phát triển, vì vậy cần tạo điều kiện cho người dân phát triển tự do và toàn diện. (Nghị Quyết Đại hội lần XI (2001); XII (2016); XIII (2021). Yêu cầu này cho thấy sự tương thích cũng như hội nhập mạnh mẽ về các quyền con người cơ bản của luật pháp Việt Nam với quốc tế, đặc biệt là tư tưởng và nền tảng của hệ thống pháp luật toàn cầu, con người là trọng tâm của sự phát triển toàn diện, các chính sách phát triển đến cuối cùng phải phụng sự mục tiêu vì sự phát triển của con người. Đây là cơ sở và tiền đề cho Hiến pháp 2013 tách bạch giữa quyền con người với quyền công dân thay vì gộp chung như những bản Hiến pháp 

trước đây của Việt Nam. 

Thứ hai, định hướng nhà nước giữ vững quan điểm phát triển quyền tham gia của người dân vào quy trình ngân sách nhà nước trên cơ sở pháp luật XHCN được biểu hiện thông qua yêu cầu và đặt ra nhiệm vụ đối với nhà nước đó là yêu cầu ban hành pháp luật liên quan đến quyền làm chủ của người dân bên cạnh yêu cầu tăng quyền mạnh hơn cho MTTQVN các cấp. Việc ĐCSVN yêu cầu phải trao thêm các quyền cho MTTQVN và nâng cao vị trí của tổ chức chính trị này và khẩu hiệu: “Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, MTTQ và các TCCT- XH làm nòng cốt để nhân dân làm chủ”. Ở hầu hết các lĩnh vực tài chính công cho thấy vấn đề “dân chủ xã hội chủ nghĩa” tức là sự tham gia của người dân vào quy trình chính sach công nói chung, ngân sách nhà nước nói riêng từ Đổi Mới bắt đầu tính từ 1986 cho tới nay, sau hơn 36 năm vẫn được duy trì về bản chất xã hội chủ nghĩa, tham gia tập thể trong một tổ chức do nhà nước thành lập, nhà nước không khuyến khích tham gia trực tiếp bởi vì để sử dụng quyền này, người dân phải áp dụng nhiều quy định của nhiều ngành luật khác nhau. 

Tóm lại, liên quan đến quyền tham gia vào quy trình ngân sách nhà nước của người dân theo quan điểm và định hướng của ĐCSVN có những điểm căn bản như sau: 

Một là, dựa trên nền tảng pháp luật XHCN, quyền tham gia vào quy trình ngân sách nhà nước của người dân được định dạng là một hình thức “dân chủ xã hội chủ nghĩa”. Người dân là chủ thể quyền lực nhà nước vì thế người dân có quyền tham gia, tuy nhiên, tại VN, quyền này được khuyến khích áp dụng các cơ chế tham gia tập thể, thông qua một tổ chức chính trị xã hội do nhà nước thành lập. Đây là trụ cột quan trọng được ĐCSVN kiên định giữ lại mặc dù chịu ảnh hưởng và bị tác động từ nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan khác nhau, thông qua định hướng hiện tại, quyền tham gia của người dân vào quy trình ngân sách nhà nước dù dưới tác động của môi trường thể chế toàn cầu với mức độ hội nhập sâu sắc nhưng việc trao và củng cố vai trò của MTTQVN các cấp đã cho thấy Việt Nam sẽ giữ vững quan điểm và nhận thức về dân chủ XHCN, từ lý luận này, quyền tham gia của người dân nói chung, vào quy trình ngân sách nhà nước nói riêng sẽ vẫn duy trì và khuyến khích tham gia trong một tập thể nhất định, đây cũng là nhân tố ảnh hưởng quan trọng tới hiệu quả khi áp dụng quyền tham gia của người dân vào quy trình ngân sách nhà nước ở Việt Nam mà việc phân tích các quy định phap pháp luật liên quan sẽ củng cố thêm nhận định này của Luận án. 

Hai là, dưới sức ép của hội nhập và nhu cầu đổi mới tự thân, ĐCSVN đã linh hoạt thừa nhận và sử dụng mô hình tham gia trong đó có quyền tham gia vào quy trình ngân sách nhà nước của người dân và định hướng nhà nước xây dựng pháp luật tương thích với pháp luật quốc tế, ví dụ, quy định các điều kiện tham gia hiệu quả (công khai thông tin), sử dụng thuật ngữ tham gia trực tiếp, thừa nhận người dân là trung tâm của mọi chiến lược phát triển… 

Bà là, quyền tham gia của người dân vào quy trình ngân sách nhà nước được định hướng và khuyến khích tham gia gián tiếp nên hình thức tham gia trực tiếp dừng lại ở mức độ thấp, có những hình thức tham gia mang đặc trưng ở Việt Nam nhưng không rõ ràng về mức độ tham gia, ví dụ hình thức kiểm tra và giám sát hoặc thuật ngữ “dân thụ hưởng” làm cho các thang đo về sự tham gia trở thành khẩu hiệu mang tính định hướng. 

3.2. Ghi nhận sự tham gia của người dân trong các bản hiến pháp Việt Nam 

3.2.1. Theo Hiến pháp 1946  

Các bản Hiến pháp Việt Nam thể chế hóa đường lối của ĐCSVN. Hiến pháp năm 1946 của Việt Nam được ra đời như một tuyên bố với thế giới về một quốc gia độc lập, ghi nhận quyền và nghĩa vụ của công dân tại Chương II. Liên quan đến sự tham gia của người dân, Hiến pháp 1946 ghi nhận những quyền cơ bản của con người, thông qua đó, gián tiếp khẳng định khả năng bắt kịp xu hướng quốc tế về xây dựng luật khi nhận định rằng: “nền tảng quyền lực nhà nước là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân”, thể hiện rõ về quyền tham gia chính quyền của người dân 

(Điều 7). Hiến pháp năm 1946 ghi nhận những nguyên lý về dân chủ (nguyên lý chủ quyền nhân dân) và nhiều tư tưởng tiến bộ có thể sánh ngang các bản hiến pháp tiên tiến thời kỳ đó. Những nội dung này được thể hiện qua mấy ý cơ bản sau đây: 

Thứ nhất, sự tham gia được quy định nhưng bên cạnh đó, các điều kiện để tham gia hiệu quả cũng đồng thời được ghi nhận, đó là các quyền tự do ngôn luận, tự do hội họp, tự do xuất bản…tại Điều 10 Hiến pháp 1946.  Như đã trình bày tại Chương II, sự tham gia sẽ mang lại giá trị và hiệu quả cao hơn nếu cùng đồng thời kết hợp với sự công khai và minh bạch, tăng cường trách nhiệm giải trình, những nhân tố này chỉ có thể thực hiện được khi quyền tự do ngôn luận, tự do hội họp….được nhà nước thừa nhận.  

Thứ hai, theo nhận thức của tác giả Luận án, “sự tham gia chính quyền” được quy định trong Hiến pháp 1946, dù chủ thể tham gia được định danh là “công dân” nhưng vẫn mang tính cá thể hóa nhiều hơn, bởi vì, chỉ có cá thể hóa mới phụ thuộc vào “tài năng và đức hạnh” của chủ thể đó. Nếu sự tham gia được đặt trong một môi trường và khuôn khổ một tổ chức, một tập thể, tính cá nhân hay cá thể này cần phải lược bớt, để tạo một sự đồng thuận rộng rãi hơn. 

Tuy nhiên, việc Hiến pháp 1946 quy định “công dân có quyền tham gia chính quyền” đã thể hiện một tư tưởng và quan điểm nhất quán cho đến tận ngày nay về cách thức tổ chức dân chủ trong đó có sự tham gia của người dân vào quy trình ngân sách nhà nước, đó là, không tách rời quyền con người với quyền công dân. Đây là bản sắc riêng của Việt Nam khi thừa nhận về các quyền cơ bản của người dân. Nó không chỉ được biểu hiện về mặt câu chữ, các quyền con người và quyền công dân luôn được đặt thành một chương trong các bản hiến pháp, mà quan điểm này còn thể hiện rất rõ trong từng quy định của Hiến pháp hay pháp luật chuyên ngành. Ví dụ, theo thông lệ trên thế giới, quyền tự do ngôn luận, đó là quyền con người, hay quyền tham gia đóng góp và tận hưởng sự phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa và chính trị là một quyền phát triển nhưng cũng đồng thời là quyền con người căn bản, nhưng theo tư duy pháp lý ở Việt Nam, đây là một quyền công dân, chẳng hạn, theo Điều 10 Hiến pháp 1946, công dân có quyền tự do ngôn luận; công dân có quyền tham gia chính quyền (Điều 7). 

Bên cạnh đó, dựa trên nền tảng của quyền tham gia chính quyền của công dân trong Điều 7, các quyền cơ bản khác gồm quyền tham gia bầu cử (Điều 18); quyền bãi miễn đại biểu và cử tri (Điều 20); quyền phúc quyết Hiến pháp (Điều 21) trong đó, nhân dân có quyền bày tỏ ý kiến của mình để quyết định những vấn đề có liên quan đến vận mệnh của đất nước và quyết định việc sửa đổi Hiến pháp lần lượt 

được xác định.  

Hiến pháp 1946 không tách rời quyền con người với quyền công dân. Theo tác giả Luận án, đây là mấu chốt dẫn đến cách tiếp cận và góc nhìn khác nhau giữa pháp luật Việt Nam với các tiêu chuẩn đánh giá theo thông lệ quốc tế. Bởi như đã trình bày ở Chương II, sự tham gia của người dân là một quyền tự do dân sự và chính trị, là một quyền cơ bản của con người. Tuy nhiên, tại Việt Nam, Hiến pháp 1946 đã minh định sự tham gia chính quyền là một quyền của công dân, tức đây là dân quyền chứ không phải nhân quyền như thông lệ mà thế giới đã thừa nhận. 

Như vậy, theo các bậc thang của sự tham gia nói chung, pháp luật thời kỳ này đã trực tiếp hoặc gián tiếp ghi nhận nhưng có một đặc điểm chung là chưa cụ thể về cơ chế thực thi, mức độ tham gia thấp, ví dụ như quyền phúc quyết đối với những vấn đề liên quan đến vận mệnh đất nước và Hiến pháp, quyền tham gia được ghi nhận nhưng dừng ở mức độ được tham vấn, đưa ra ý kiến, chưa được quyết định.  

3.2.2. Theo Hiến pháp 1959 

Cùng với công cuộc xây dựng miền Bắc theo định hướng XHCN, hệ thống pháp luật XHCN được du nhập vào Việt Nam trong thời gian này. Nền tảng tư tưởng của hệ thống pháp luật XHCN là cơ sở cho các bản Hiến pháp 1959; Hiến pháp 1980, và sau đó là Hiến pháp 1992, mặc dù bản Hiến pháp 1992 được ban hành cho thời kỳ đổi mới và hội nhập. Tư tưởng và nền tảng pháp luật XHCN được biểu hiện gồm: nhà nước giữ vị trí chủ đạo trong các thành phần kinh tế; nền kinh tế kế hoạch tập trung; quyền lãnh đạo duy nhất thuộc về ĐCSVN; nhà nước sở hữu đất đai; tinh thần pháp luật được dùng để cai trị. Bản Hiến pháp 1959 ghi nhận các các đặc trưng này.  

Liên quan đến sự tham gia của người dân, Hiến pháp 1959 đặt những ưu tiên khác lên trên, minh chứng là quyền và nghĩa vụ của công dân được đặt tại Chương III, khái niệm tham gia kiến quốc của công dân không được giữ lại mà sự tham gia của người dân chủ yếu thông qua cơ chế dân chủ đại diện bởi các đại biểu, Điều 4 đã quy định rằng quyền lực nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là thuộc về người dân, thông qua Quốc hội và HĐND, đồng thời, các chủ thể này phải chịu 

trách nhiệm trước người dân. 

Việc người dân tham gia chính quyền được phản ánh gián tiếp thông qua Điều 23, theo đó, không phân biệt, từ đủ mười tám tuổi công dân Việt Nam có quyền bầu cử, ứng cử khi đủ hai mốt tuổi. Hoặc tại Điều 29 quy định về quyền khiếu nại cơ quan công quyền và phải được nhà nước giải quyết, nếu bị thiệt hại thì có quyền được bồi thường.  

Như vậy, trong Hiến pháp 1959 không quy định cụ thể về các hình thức thực hiện dân chủ nhân dân, các điều kiện thực sự để bảo đảm tính khả thi. Nên các kết quả đạt được về thực thi dân chủ, trong đó có sự tham gia của người dân vào lĩnh vực công hay khu vực ngân sách là hạn chế. Tính cá thể hóa, các quyền cơ bản và dân chủ trong các lĩnh vực kinh tế không có vì nhà nước chỉ thừa nhận sở hữu tập thể: Nhà nước nghiêm cấm việc lợi dụng tài sản tư hữu để làm rối loạn sinh hoạt kinh tế của xã hội, phá hoại kế hoạch kinh tế Nhà nước (Điều 17 Hiến pháp 1959). Do vậy, so với Hiến pháp 1946, sự tham gia của người dân trong giai đoạn này có sự tương đồng là quyền con người và quyền công dân vẫn không tách rời mà được ghi nhận chung. Sự khác biệt mà chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy đó là không khuyến khích sự tham gia trực tiếp, bởi sự tham gia trực tiếp dựa trên những yếu tố mang tính cá thể như Hiến pháp 1946 đã chỉ rõ, đó là “tài năng và đức hạnh”. Sự khác biệt này, có thể xuất phát từ bối cảnh chưa thống nhất, sự độc lập chưa trọn vẹn, vì thế, hoàn cảnh thực tế và đòi hỏi của thực tiễn là cần một sự nhất trí ở mức độ cao, việc tham gia vào tập thể, được đại diện bởi các cử tri trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước được ưu tiên cũng là điều có thể giải thích được trong bối cảnh lịch sử của Hiến pháp 1959. 

3.2.3. Theo Hiến pháp 1980 

Một điểm nổi bật trong Hiến pháp 1980 so với  Hiến pháp 1946 và Hiến pháp 1959 được quy định tại Điều 12: “Nhà nước quản lý xã hội theo pháp luật và không ngừng tăng cường pháp chế XHCN”. Đây là một bước chuyển giao về nhận thức của ĐCSVN và Nhà nước Việt Nam. Liên quan đến sự tham gia, sự chuyển đổi nhận thức này là tiền đề để các hình thức dân chủ trực tiếp phát triển hơn nữa, bởi vì pháp luật chính là một công cụ quan trọng nhất, bảo đảm thực thi trên thực tế các quyền tham gia của người dân trở nên hợp pháp.  

Theo (Đỗ Ngọc Hải, 2006) nguyên tắc pháp chế XHCN áp dụng tại Việt Nam trong thời gian này được cấu tạo bởi 4 nhân tố, gồm: tính thống nhất; tính hợp lý; tính  không có ngoại lệ; tính liên quan giữa pháp chế và văn hóa và cuối cùng nhưng đặc biệt quan trọng là tính gắn liền với dân chủ. Thuộc tính gắn liền với dân chủ thể hiện nội dung căn bản như mọi công dân đều có quyền bình đẳng khi tham gia quản lý và tham gia công việc của nhà nước, dân chủ là chế độ chính trị của nhà nước XHCN với sự tham gia đông đảo của quần chúng nhân dân lao động vào công việc nhà nước, dân chủ có mối quan hệ không tách rời, với pháp chế xã hội chủ nghĩa, không thể có dân chủ chân chính bên ngoài xã hội chủ nghĩa. Ghi nhận tại 

Điều 12 là cơ sở để sự tham gia quản lý công việc của nhà nước được quy định tại  Điều 56 về quyền tham gia quản lý công việc của nhà nước, khái niệm về sự tham gia đã được ghi nhận lại như một sự kế thừa Hiến pháp 1946, ngoài ra, thời điểm này, Hiến pháp 1980 khi quy định về sự tham gia của người dân có thêm một bước tiến mới đó là quy định thêm quyền tự do lập hội bên cạnh các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí như Hiến pháp 1946 và Hiến pháp 1959, tự do lập hội thể hiện tầm nhìn đầy đủ hơn của các nhà lập hiến ở Việt Nam  đối với vấn đề tham gia của người dân, bởi vì, điều kiện để phát triển của sự tham gia đó chính là sự tồn tại của các tổ chức như tổ chức chính trị xã hội; các tổ chức dân sự... Hiến pháp 1980 đã tạo thêm các điều kiện thuận lợi cho sự tham gia được phát triển một cách chính danh trong hệ thống pháp luật của Việt Nam. 

Tuy nhiên, vào những năm 1986, Việt Nam phải đối diện với một cuộc khủng hoảng toàn diện. Nguyên nhân được chỉ ra gồm các yếu tố như: sự suy yếu dẫn đến sụp đổ của hệ thống các nước XHCN là nhân tố bên ngoài, nhưng những nhân tố nội tại có thể kể đến từ nhiều nguyên nhân khác nhau đã được chứng minh và đánh giá nhưng có lẽ chủ yếu đến từ sự không phù hợp của thể chế,  pháp luật mang tính hình thức, không có tính khả thi, cấu trúc bộ máy và các quy định pháp lý xã hội chủ nghĩa dập khuôn, bỏ qua sự tương thích của môi trường/ hiện trạng kinh tế - xã hội nội tại là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến khủng hoảng.  

Trong bối cảnh đó, sự tham gia của người dân, dù được quy định trong văn bản pháp luật, song thực tế triển khai còn hạn chế, như (Phạm Văn Đức, 2017, trang 63 – 64) đã nhận định: dân chủ không thực chất dẫn đến làm chủ tập thể không thực hiện được, bị biến dạng thành vô chủ, quan liêu hóa, hành chính hóa nặng nề. Từ đó, kìm hãm sự phát triển. Đất nước lâm vào khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng, đời sống nhân dân sa sút cả về vật chất lẫn tinh thần.  

3.2.4. Theo Hiến pháp 1992 (sửa đổi năm 2001) 

Sau 6 năm tiến hành Đổi Mới, bắt đầu từ Đại Hội Đảng lần 6 năm 1986, Việt Nam tiến hành sửa đổi hiến pháp lần thứ 4, đó là Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp đầu tiên của tiến trình Đổi Mới. Liên quan đến sự tham gia của người dân, trong lần sửa đổi hiến pháp này, một số quan điểm và tư tưởng vẫn được kế thừa và duy trì, cụ thể như việc kế thừa tư duy về quyền con người và quyền cơ bản của công dân không tách rời. Sự tham gia của công dân dù không còn được tuyên bố là dân chủ 

XHCN và làm chủ tập thể như trước đây nhưng về cơ bản, việc thừa nhận và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa tại Điều 12 vẫn cho thấy quan điểm rất rõ là nhà nước khuyến khích các quyền dân chủ nhân dân được đặt trong một khuôn khổ hoặc dưới một tổ chức hoặc cộng đồng nhất định, cụ thể là các tổ chức chính trị - xã hội như MTTQ là một ví dụ.  

Tuy nhiên, dưới tác động của Đổi Mới, cùng với những thiết chế được ban hành trước khi Hiến pháp 1992 được công bố để phục vụ phát triển kinh tế đặc biệt là các bộ luật để phục vụ  thu hút hoạt động đầu tư nước ngoài, mà nội dung của những bộ luật này, chịu sự tác động và ảnh hưởng mạnh mẽ của pháp luật ở các nước phát triển, vốn coi pháp luật là công cụ để phát triển kinh tế và trong quá trình phát triển kinh tế, con người phải được đặt vào trọng tâm, sự phát triển của con người là trung tâm của mọi chiến lược phát triển. Vì thế, các chương trình phát triển 

cũng như các tổ chức quốc tế như WB, OECD, UNDP…và các quốc gia có nhu cầu mở rộng thị trường đã tiên phong xây dựng các bộ nguyên tắc trong quản trị, và đặt vào trong đó, những quyền căn bản của con người như quyền được thông tin; quyền được tham gia và nhà nước có trách nhiệm công khai, minh bạch và có nghĩa vụ phải giải trình. 

Chính vì thế, pháp luật phục vụ thu hút đầu tư và phục vụ mục đích phát triển kinh tế của Việt Nam thời kỳ sau Đổi Mới chịu sự ảnh hưởng của tư tưởng hội nhập, xây dựng pháp luật để thúc đẩy phát triển. Các quy định liên quan đến quyền tham gia của người dân trong Hiến pháp 1992 đã khẳng định điều này. Cụ thể: 

Thứ nhất, sự tham gia trong Hiến pháp cho thấy tư duy về phân cấp phân quyền đã bắt đầu và trở nên mạnh mẽ, tại Điều 11 ghi nhận công dân tham gia công việc của nhà nước đồng nghĩa là thực hiện quyền làm chủ của mình. Phạm vi tham gia trong Hiến pháp 1992 chỉ rõ người dân có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội nhưng ở cấp cơ sở. Phân cấp được định dạng rõ hơn trong Điều 56, khi quy định rằng quyền quản lý nhà nước và xã hội của công dân, có quyền thảo luận vấn đề chung, quyền được biểu quyết khi NN trưng cầu dân ý, như vậy, sự tham gia quản lý nhà nước và xã hội vẫn được quy định, nhưng khi nằm trong phạm vi cấp chính quyền, thì sự tham gia được “khoanh vùng” rất rõ. Sự tham gia vào công việc ở cấp cơ sở và những công việc này có thể nhiều loại nhưng trong đó có ảnh hưởng đến đời sống của công dân và cộng đồng. Ở cấp độ trung ương và địa phương, sự tham gia chỉ dừng lại ở mức độ được thảo luận hoặc được tham vấn, tức là mức độ thấp nhất. 

Thứ hai, Hiến pháp 1992 vẫn kế thừa các điều kiện để tham gia hiệu quả liên quan đến các quyền tự do về ngôn luận, báo chí hoặc hội họp hoặc lập hội…nhưng có sự ảnh hưởng mạnh từ hệ thống pháp luật Luật và phát triển. Cụ thể, khi quy định công dân “có quyền được thông tin” tại Điều 69 cùng với các quyền về tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội họp… đã khẳng định điều này.  

Thứ ba, việc quy định về sự tham gia trong Hiến pháp 1992 và “khoanh vùng” tham gia ở cấp cơ sở đã gián tiếp chứng minh sự ảnh hưởng của quan điểm: pháp luật là công cụ phục vụ phát triển kinh tế nhưng người dân và doanh nghiệp được đặt là trọng tâm, bởi vì, để thu hút doanh nghiệp đầu tư vào Việt Nam, các thông tin liên quan đến các thủ tục hành chính, mối quan hệ giữa nhà nước và người dân và doanh nghiệp cần được minh bạch, cần được công khai…đồng thời đáp ứng kịp thời quá trình chuyển đổi và phân cấp và phân quyền của Việt Nam trong thời gian này. Tạo điều kiện cho địa phương quyền chủ động cũng như khả năng cạnh tranh bằng con đường cải cách hành chính, và vì tiếp cận thông tin là quyền của công dân thì đồng thời cung cấp thông tin, công khai thông tin, minh bạch thông tin, trách nhiệm giải trình lại trở thành nghĩa vụ của nhà nước. 

Năm 2001, trước sức ép ngày càng mạnh mẽ của quá trình hội nhập, Hiến pháp 1992 tiếp tục được sửa đổi. Điểm mới nhất và quan trọng nhất được quy định tại Điều 2. Cụ thể như sau: “Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. 

Tuyên bố Việt Nam là nhà nước theo chế độ pháp quyền XHCN, trong đó, quyền lực nhà nước có sự phân công thành các khối lập pháp, hành pháp và tư pháp đã chứng minh sự đổi mới sâu sắc của Việt Nam dưới góc nhìn thể chế. Liên quan đến sự tham gia của người dân nói chung và sự tham gia của người dân vào quy trình ngân sách nói riêng, dự báo sẽ có những đột phá mới, xuất phát từ những lý do sau đây: 

Thứ nhất, nhà nước được xây dựng theo chế độ pháp quyền là nhà nước lấy quyền lực nhân dân làm nền tảng cho toàn bộ hoạt động và tổ chức, trong đó, các quyền cơ bản của nhân dân được ghi nhận, tôn trọng và bảo đảm thực hiện. Trong đó, quyền tham gia của người dân nói chung và tham gia vào quy trình ngân sách nói riêng là quyền tự do quan trọng và căn bản nhất. 

Thứ hai, quy định tại Điều 2 Hiến pháp 1992 (sửa đổi 2001) cho thấy quan điểm mới của VN về mối quan hệ giữa nhà nước với người dân. Theo đó, người dân được mở rộng quyền tới mức người dân được làm tất cả những gì mà pháp luật không cấm, đổi lại, khu vực nhà nước “chỉ được làm những gì mà pháp luật cho phép”. 

Thứ ba, tuyên bố Việt Nam là nhà nước pháp quyền XHCN, dự báo sự đổi mới ngày càng sâu sắc của quốc gia ở tất cả các lĩnh vực, đặc biệt là thể chế. Tuy nhiên, chính khái niệm “pháp quyền XHCN” cũng khẳng định một sự linh hoạt và uyển chuyển trong chiến lược phát triển của Việt Nam. Theo đó, nền tảng pháp luật XHCN vẫn được giữ lại như một trục chính vững chắc, dựa trên đó, các thiết chế pháp luật mới được cài đặt vào đó, tạo thành các khung định hướng cho thị trường tạo nền cho sự phát triển kinh tế. Cũng chính từ những thay đổi của thị trường đã dần dà kéo theo sự thay đổi thực sự mối quan hệ giữa nhà nước với người dân. 

Như vậy, so với sự tham gia được quy định trong các bản hiến pháp trước thời kỳ Đổi Mới, gồm Hiến pháp 1959 và Hiến pháp 1980 thì sự tham gia trong 

Hiến pháp 1992 (sửa đổi năm 2001) đã có thay đổi đáng kể. Mặc dù vẫn dựa trên nền tảng pháp luật XHCN nhưng có chuyển biến tích cực tới quyền tham gia của người dân. Ghi nhận này đánh dấu sự khởi đầu cho những chuyển đổi mạnh mẽ sau này của Việt Nam, đặc biệt dưới góc độ của thể chế. 

3.2.5. Theo Hiến pháp 2013 

Sau Đại hội Đảng lần thứ XI, Việt Nam tiến hành sửa đổi Hiến pháp lần 5, 

đó là Hiến pháp 2013. Liên quan đến quyền tham gia của người dân, Hiến pháp lần này ghi nhận rõ ràng, đầy đủ nhưng đồng thời cũng thể hiện sự uyển chuyển, linh hoạt trong hội nhập toàn cầu nhưng đồng thời kiên quyết giữ lại truyền thống pháp luật xã hội chủ nghĩa mang bản sắc riêng, đó là hệ thống pháp luật pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Cụ thể như sau: 

Thứ nhất, khẳng định Việt Nam là nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân tại khoản 1 Điều 2 cho thấy rằng, sự nhất quán cao trong việc xây dựng nhà nước theo hình thức dân chủ, bởi vì toàn bộ hệ thống thể chế được kiến tạo trên nền tảng quyền lực nhân dân, và nhà nước pháp quyền chính là một bảo đảm để các quyền tự do của người dân được tôn trọng và bảo đảm thực hiện. Việc khẳng định chắc chắn về nhà nước pháp quyền XHCN cho thấy sự đổi mới về mối quan hệ giữa nhà nước với người dân, nó dự báo về không gian dành cho các quyền cơ bản của người dân sẽ được quy định cụ thể hơn, rõ hơn với phạm vi rộng rãi hơn, đặc biệt là quyền tham gia của người dân trong khu vực công và cả lĩnh vực vốn có truyền thống khép kín như là ngân sách nhà nước. Tuy nhiên, nhà nước pháp quyền ở Việt Nam là nhà nước pháp quyền XHCN, và vì thế, nó mang bản chất pháp luật của pháp luật XHCN, trên đó, các lớp luật toàn cầu được cấy ghép một cách linh hoạt để tương thích với xu thế toàn cầu và chiến lược hội nhập ngày càng sâu sắc, nhưng trụ đỡ căn bản cho các thiết chế mang dáng dấp pháp luật toàn cầu lại chính là hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa. Điều này thể hiện ở việc các quyền con người và quyền công dân được tách khá độc lập thành những điều luật riêng trong Hiến pháp 2013 và nhà nước vẫn luôn tôn trọng việc tham gia quản lý nhà nước và xã hội của người dân nhưng khuyến khích tham gia thông qua các tổ chức và đoàn thể được tổ chức hợp pháp, đặc biệt là các tổ chức chính trị; chính trị xã hội; nghề nghiệp nằm trong hệ thống của bộ máy nhà nước. 

Thứ hai, sự uyển chuyển và linh hoạt tiếp nhận các làn sóng pháp luật mới khi hội nhập được thể hiện tại Điều 6 khi Hiến pháp 2013 lần đầu tiên chỉ rõ cơ chế tham gia của người dân có thể lựa chọn đó là dân chủ trực tiếp hoặc dân chủ gián tiếp. Trong các bản hiến pháp trước đây, khái niệm dân chủ được quy định khái quát và chung chung, tuy nhiên, lần này, Hiến pháp 2013 đã tách bạch rõ dân chủ trực tiếp và dân chủ  gián tiếp. Đây là một bước tiến mới, một sự bứt phá để pháp luật của Việt Nam phù hợp và tương thích với thông lệ quốc tế. Bởi vì, sự tham gia của người dân được thế giới đồng thuận công nhận là một hình thức dân chủ trực tiếp của người dân.  

Thứ ba, việc định dạng rõ dân chủ trực tiếp và gián tiếp làm căn cứ để lần đầu tiên trong hiến pháp của Việt Nam, các quyền con người và quyền cơ bản của công dân được tách bạch thay vì được gộp lại như những bản Hiến pháp trước đây. 

Tại Chương II của Hiến pháp 2013, các quyền con người và quyền công dân được khéo léo ghi nhận, trong đó, quyền tham gia của người dân trong khu vực công được quy định tại Điều 28. Cụ thể tại khoản 1 như sau: “Công dân có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận và kiến nghị với cơ quan nhà nước về các vấn đề của cơ sở, địa phương và cả nước”.  

Như vậy, so với Điều 56 Hiến pháp 1992, sự tham gia của người dân vào quản lý nhà nước có một số thay đổi, đó là, Hiến pháp 2013 mặc dù vẫn ghi nhận sự tham gia của người dân trong quản lý nhà nước và xã hội vẫn chỉ dừng lại ở mức độ được kiến nghị và thảo luận nhưng có sự phân bậc rõ ràng khi tham gia vào quản lý nhà nước và xã hội trong cấu trúc bộ máy nhà nước, thể hiện sự phân cấp ngày càng rõ cũng như phương pháp quản trị áp dụng mô hình từ dưới lên, bắt đầu từ cấp cơ sở, sau đó đến địa phương và trên cùng là phạm vi cả nước, khía cạnh “cả nước” thể hiện hai nghĩa, đó là sự tham gia ở cấp trung ương vì thẩm quyền của những cơ quan nhà nước có thể tác động tới phạm vi cả nước, thứ hai, tức là người dân có thể tham gia vào khu vực công, ngay cả đối với quy trình ngân sách nhà nước ở các địa phương khác chứ không chỉ khoanh vùng trong phạm vi địa giới hành chính của địa phương mình. 

Tại khoản 2 Điều 28 Hiến pháp 2013 thể hiện cam kết của nhà nước về mối quan hệ giữa nhà nước và công dân khi ghi nhận rằng công dân được khuyến khích tham gia quản lý nhà nước, đồng thời, nhà nước cần phải minh bạch khi nhận hoặc phản hồi ý kiến, kiến nghị của người dân. Không những thế, đây là sự ghi nhận lại nhằm thể hiện để chứng minh rằng Việt Nam là nhà nước pháp quyền, vì thế, các quyền cơ bản của công dân đều được cam kết tôn trọng và bảo đảm thực hiện và quá trình này yêu cầu phải công khai và minh bạch.  

Sự tham gia của người dân trước tiên là một quyền con người căn bản. Nhưng ở Việt Nam, quyền này được định hình là một quyền cơ bản của công dân. Như vậy, về lý thuyết, có một độ chênh giữa pháp luật quốc gia với pháp luật quốc tế về quyền con người. Tất nhiên, các nguyên tắc áp dụng quyền con người có tính phổ biến nhưng cũng có tính đặc thù, việc áp dụng quyền con người phụ thuộc vào nhiều nhân tố của quốc gia áp dụng. Vì vậy, khi Việt Nam đặt quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội của người dân thành một quyền cơ bản của công dân có nghĩa là quyền này sẽ được thực hiện phụ thuộc vào quan điểm của nhà nước Việt Nam ở mỗi một giai đoạn lịch sử nhất định.  

Độ chênh giữa pháp luật quốc gia với pháp luật quốc tế về quyền tham gia của người dân đã tạo nên những đặc trưng căn bản về quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội trong đó có quyền tham gia vào quy trình ngân sách của người dân tại Việt Nam, nhân tố quan trọng này sẽ quyết định tới bản chất, nội dung, các cơ chế, các hình thức và phạm vi tham gia của người dân vào quy trình ngân sách nhà nước ở Việt Nam. Cụ thể, nhà nước đã định hình sẵn về các mức độ tham gia đó là kiến nghị và thảo luận chứ không được áp dụng các nấc thang của sự tham gia như thông lệ của pháp luật quốc tế. 

Thứ tư, sự tương thích pháp lý phù hợp với hệ thống pháp luật toàn cầu còn được thể hiện tại Điều 25 Hiến pháp 2013 liên quan đến sự tham gia của người dân, đó là thay vì được quy định công dân có quyền được thông tin như trước đây thì thay vào đó quyền này được địnhh nghĩa lại thành “quyền tiếp cận thông tin”, thể hiện sự chủ động hơn cho người dân khi muốn khai thác thông tin để tham gia hiệu quả. Như đã trình bày ở phần trên, thông tin là một nhân tố quan trọng tác động tới hiệu quả của quá trình tham gia, các chủ thể tham gia chỉ có thể đưa ra được ý kiến hoặc quyết định tới vấn đề khi họ có đầy đủ thông tin. Việc cung cấp thông tin là trách nhiệm của nhà nước khi nhà nước phải có nghĩa vụ minh bạch và công khai hoạt động quả lý. Quyền tiếp cận thông tin cũng gián tiếp cho chúng ta thấy trách nhiệm công khai và minh bạch thông tin từ phía nhà nước, bởi vì, chỉ khi thông tin sẵn có và dễ dàng truy cập thì mới có thể tiếp cận thông tin trong thực tế. Sự quy định này hoàn toàn phù hợp với thông lệ quốc tế về các nguyên tắc quản trị tốt. 

Như vậy, Hiến pháp 2013 đã thể hiện rõ nét quan điểm của Việt Nam về đường lối và định hướng phát triển thông qua việc quy định các quyền con người và các quyền cơ bản của công dân. Theo đó, sự linh hoạt trong việc tiếp cận pháp luật quốc tế để đổi mới và kiến tạo quốc gia đã được thể hiện trong việc tách bạch quyền con người với quyền công dân, nhà nước có nghĩa vụ cung cấp các điều kiện và đảm bảo các quyền đó được thực thi trong thực tế. Tuy nhiên, sự khoanh vùng và giới hạn quyền tham gia của người dân vào khu vực công nói chung và vào quy trình ngân sách nhà nước nói riêng vẫn từng bước được cân nhắc và thận trọng. Sự tham gia trong Hiến pháp 2013 mới chỉ dừng lại ở những mức độ đầu tiên và nhà nước không khuyến khích sự tham gia có tính cá thể mà ủng hộ sự tham gia quy trình được vận hành trong những tổ chức thuộc bộ máy nhà nước. Quy định này được thể hiện rõ trong Điều 16 của Luật Ngân sách nhà nước 2015 là một minh chứng rất rõ về thái độ kiên quyết giữ lại nền tảng pháp luật chủ nghĩa nhưng không rập khuôn mà có thể uyển chuyển linh hoạt để thể chế cũng như quyền tham gia mang bản sắc XHCN Việt Nam một cách đặc trưng và riêng biệt. 

3.3. Thực trạng quy định pháp luật về sự tham gia của người dân vào quy trình ngân sách nhà nước 

Sự tham gia của người dân vào quy trình ngân sách được quy định khá phân tán bởi nhiều văn bản pháp luật khác nhau, trong đó có pháp luật thực hiện dân chủ cơ sở, pháp luật ngân sách, pháp luật đầu tư, pháp luật quản lý tài sản công, pháp luật thanh tra, pháp luật về tổ chức và hoạt động của chính quyền các cấp và Mặt trận tổ quốc. Với các mức độ tham gia cụ thể như sau: 

3.3.1. Được biết thông tin về ngân sách nhà nước. 

Quyền tham gia của người dân nói chung, ngân sách nhà nước nói riêng ở Việt Nam hiện được quy định đầy đủ nhất tại cấp cơ sở dưới tên gọi “thực hiện dân chủ”, trước đây được điều chỉnh bởi Pháp lệnh số 34, mới đây được xây dựng thành Luật Thực hành dân chủ ở cơ sở năm 2022. Theo đó, quyền tham gia được ghi nhận với các mức độ gồm: Được biết thông tin thể hiện với quy định là Công khai ngân sách nhà nước; Nhân dân bàn và quyết định; Nhân dân tham gia ý kiến; Nhân dân kiểm tra giám sát. trong đó có lĩnh vưc ngân sách được sửa đổi và ghi nhận khá cụ thể. 

Đối với mức độ thấp nhất, được biết thông tin về ngân sách được quy định dưới tên gọi: Công khai ngân sách. Cụ thể như sau:  

Theo quy định chung tại điểm a khoản 1 Điều 15 Luật Ngân sách nhà nước 2015, người dân được biết thông tin về ngân sách nước khi nhà nước công khai, với các nội dung chủ yếu gồm: Dự toán ngân sách nhà nước trình Quốc hội, Hội đồng nhân dân; dự toán ngân sách nhà nước đã được cấp có thẩm quyền quyết định; báo cáo tình hình thực hiện ngân sách nhà nước; quyết toán ngân sách nhà nước được Quốc hội, Hội đồng nhân dân phê chuẩn; dự toán, tình hình thực hiện, quyết toán ngân sách của các đơn vị dự toán ngân sách, các tổ chức được ngân sách nhà nước hỗ trợ và các chương trình, dự án đầu tư xây dựng cơ bản sử dụng vốn ngân sách nhà nước.  

Theo quy định này, ngân sách nhà nước được công khai được phân loại thành những nội dung khác nhau: Thứ nhất là công khai ngân sách của các cấp ngân sách; Thứ hai là công khai ngân sách của các đơn vị dự toán, các tổ chức được ngân sách nhà nước tài trợ; Thứ ba là các chương trình, dự án đầu tư xây dựng cơ bản sử dụng vốn ngân sách nhà nước. Cụ thể như sau: 

Thứ nhất, đối với các cấp ngân sách nhà nước - Ngân sách trung ương, căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 15 Luật Ngân sách nhà nước 2015, Bộ Tài chính ban hành Thông tư số 343/2016/TT-BTC Hướng dẫn thực hiện công khai ngân sách nhà nước đối với các cấp ngân sách nhà nước (Thông tư 343/2016), có bốn nội dung ngân sách trung ương phải công khai gồm: 

1, Công khai chỉ tiêu, biểu mẫu, thuyết minh làm căn cứ trình Quốc hội 

quyết định dự toán ngân sách nhà nước và phân bổ ngân sách trung ương 

2, Công khai số liệu dự toán ngân sách nhà nước và phân bổ ngân sách trung 

ương đã được Quốc hội quyết định; 

3, Công khai số liệu và thuyết minh tình hình thực hiện dự toán ngân sách nhà nước quý (06 tháng, năm) đã được báo cáo Chính phủ; 

4, Công khai số liệu và thuyết minh quyết toán ngân sách nhà nước đã được Quốc hội phê chuẩn. 

Đối với ngân sách cấp tỉnh, theo Điều 7 Thông tư 343/2016, bốn nội dung ngân sách cần phải công khai gồm: 

1, Công khai chỉ tiêu, biểu mẫu, thuyết minh làm căn cứ trình Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định dự toán ngân sách địa phương và phân bổ ngân sách cấp 

tỉnh; 

2, Công khai số liệu dự toán ngân sách địa phương và phân bổ ngân sách cấp tỉnh đã được Hội đồng nhân dân quyết định; 

3, Công khai số liệu và thuyết minh tình hình thực hiện dự toán ngân sách địa phương quý (06 tháng, năm) đã được báo cáo Ủy ban nhân dân cấp tỉnh; 

4, Công khai số liệu và thuyết minh quyết toán ngân sách địa phương đã được Hội đồng nhân dân cấp tỉnh phê chuẩn. 

Đối với ngân sách cấp huyện, theo Điều 11 Thông tư 343/2016, bốn nội dung ngân sách cần phải công khai gồm: 

1, Công khai chỉ tiêu, biểu mẫu, thuyết minh làm căn cứ trình Hội đồng nhân dân cấp huyện quyết định dự toán ngân sách huyện và phân bổ ngân sách cấp huyện; 

2, Công khai số liệu dự toán ngân sách huyện và phân bổ ngân sách cấp huyện đã được Hội đồng nhân dân cấp huyện quyết định; 

3, Công khai số liệu và thuyết minh tình hình thực hiện dự toán ngân sách huyện quý (06 tháng, năm) đã được báo cáo Ủy ban nhân dân cấp huyện; 

4, Công khai số liệu và thuyết minh quyết toán ngân sách huyện đã được Hội đồng nhân dân cấp huyện phê chuẩn. 

Đối với ngân sách cấp xã, theo Điều 15 Thông tư 343/2016, bốn nội dung ngân sách cần phải công khai gồm: 

1, Công khai chỉ tiêu, biểu mẫu và thuyết minh làm căn cứ trình Hội đồng nhân dân cấp xã quyết định dự toán ngân sách xã và kế hoạch hoạt động tài chính khác ở xã; 

2, Công khai số liệu dự toán ngân sách xã và kế hoạch hoạt động tài chính khác ở xã đã được Hội đồng nhân dân cấp xã quyết định; 

3, Công khai số liệu và thuyết minh tình hình thực hiện dự toán ngân sách xã quý (06 tháng, năm); 

4, Công khai quyết toán ngân sách xã và kết quả thực hiện các hoạt động tài 

chính khác ở xã đã được Hội đồng nhân dân cấp xã phê chuẩn. 

Về hình thức công khai của các cấp ngân sách nhà nước: 

Hiện được quy định chung tại điểm b khoản 1 Điều 15 Luật Ngân sách nhà nước 2015 gồm: công bố tại kỳ họp, niêm yết tại trụ sở làm việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị; phát hành ấn phẩm; thông báo bằng văn bản đến các cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có liên quan; đưa lên trang thông tin điện tử; thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng. Phụ thuộc vào từng cấp ngân sách mà hình thức công khai có sự điều chỉnh cho phù hợp, tuy nhiên, với ngân sách cấp trung ương thì hình thức bắt buộc là công bố trên Cổng thông tin điện tử của Bộ Tài chính, đối với cấp tỉnh hình thức bắt buộc là công bố trên Cổng/Trang thông tin điện tử của Ủy ban nhân dân tỉnh và Cổng/Trang thông tin điện tử của Sở Tài chính, đối với cấp huyện hình thức công khai bắt buộc là thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng, niêm yết tại trụ sở Ủy ban nhân dân huyện ít nhất là 30 ngày. 

Đối với cấp xã, hiện được điều chỉnh đồng thời bởi nhiều quy định khác nhau, theo đó, tại Thông tư số 343/2016 thì quy định, đối với công khai chỉ tiêu, biểu mẫu và thuyết minh làm căn cứ trình Hội đồng nhân dân cấp xã quyết định dự toán ngân sách xã và kế hoạch hoạt động tài chính khác ở xã và công khai số liệu và thuyết minh tình hình thực hiện dự toán ngân sách xã quý (06 tháng, năm) thì hình thức công khai áp dụng là niêm yết công khai tại trụ sở Ủy ban nhân dân cấp xã ít nhất trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày niêm yết; thông báo trên hệ thống truyền thanh của xã (nếu xã có hệ thống truyền thanh). Đối với công khai số liệu dự toán ngân sách xã và kế hoạch hoạt động tài chính khác ở xã đã được Hội đồng nhân dân cấp xã quyết định và công khai quyết toán ngân sách xã và kết quả thực hiện các hoạt động tài chính khác ở xã đã được Hội đồng nhân dân cấp xã phê chuẩn) thì hình thức công khai là niêm yết công khai tại trụ sở Ủy ban nhân dân cấp xã ít nhất trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày niêm yết; thông báo trên hệ thống truyền thanh của xã (nếu xã có hệ thống truyền thanh); thông báo bằng văn bản cho Đảng ủy, các tổ chức chính trị - xã hội ở xã và trưởng các thôn, làng, ấp, bản, buôn, sóc ở xã và tổ dân phố ở phường, thị trấn. 

Cùng là nội dung về công khai ngân sách nhà nước tại cấp xã, tại Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở thống nhất bốn nội dung cần phải công khai theo Thông tư số 343/2016 đồng thời bổ sung thêm nội dung kết quả thực hiện các kiến nghị của 

Kiểm toán nhà nước (nếu có) (Khoản 2 Điều 11 Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở). Tương ứng với các nội dung này, các hình thức công khai bắt buộc là đăng tải trên trang thông tin điện tử, cổng thông tin điện tử của chính quyền địa phương tại nơi đã thiết lập trang thông tin điện tử, cổng thông tin điện tử. Song song với hình thức này, UBND cấp xã phải có trách nhiệm niêm yết thông tin tại trụ sở Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân cấp xã, tại nhà văn hóa và các điểm sinh hoạt cộng đồng ở thôn, tổ dân phố. 

Về  thời điểm công khai: 

Phụ thuộc vào từng nội dung công khai ngân sách pháp luật quy định cụ thể về thời gian công khai. Đối với dự thảo dự toán trình cơ quan quyền lực của Chính phủ và UBND thì thời điểm công khai là 05 ngày làm việc kể từ ngày Chính phủ hoặc UBND trình cơ quan quyền lực nhà nước. Đối với dự toán và quyết toán ngân sách được thông qua, thời điểm công khai chậm nhất là 30 ngày kể từ ngày văn bản được ban hành. Báo cáo tình hình thực hiện dự toán ngân sách nhà nước hằng quý, 06 tháng phải được công khai chậm nhất là 15 ngày, kể từ ngày kết thúc quý và 06 tháng. Báo cáo tình hình thực hiện ngân sách nhà nước hằng năm được công khai khi Chính phủ trình Quốc hội UBND trình HĐND. 

Về chủ thể chịu trách nhiệm công khai: được giao cho cơ quan tài chính trung ương và địa phương, đối với cấp xã giao UBND mà cụ thể là Chủ tịch UBND cấp xã chịu trách nhiệm công khai. 

Thứ hai, đối với đơn vị dự toán ngân sách, tổ chức được ngân sách nhà nước hỗ trợ 

Về nội dung công khai 

Dựa vào Điều 15 Luật Ngân sách nhà nước 2015, Bộ Tài chính ban hành Thông tư số 61/2017/TT-BTC Hướng dẫn công khai ngân sách đối với đơn vị dự toán ngân sách, tổ chức được ngân sách nhà nước hỗ trợ. Theo đó, các chủ thể trên phải công khai các nội dung gồm: Dự toán ngân sách; Số liệu và thuyết minh tình hình thực hiện dự toán ngân sách nhà nước (quý, 6 tháng, năm) và Công khai quyết toán ngân sách nhà nước. 

Đối với tổ chức được ngân sách nhà nước hỗ trợ cần phải công khai kinh phí ngân sách nhà nước hỗ trợ; Công khai số liệu và thuyết minh tình hình thực hiện dự toán ngân sách nhà nước hỗ trợ (quý, 6 tháng, năm); Công khai quyết toán ngân sách nhà nước hỗ trợ 

Về chủ thể chịu trách nhiệm công khai: thuộc về Thủ trưởng đơn vị dự toán chịu trách nhiệm thực hiện công khai; Thủ trưởng tổ chức được ngân sách nhà nước hỗ trợ chịu trách nhiệm thực hiện công khai. 

Về hình thức công khai: được thực hiện bằng một hoặc một số hình thức quy định tại điểm b khoản 1 Điều 15 của Luật Ngân sách nhà nước, đối với đơn vị có Cổng thông tin điện tử thì phải thực hiện công khai ngân sách qua Cổng thông tin điện tử của đơn vị mình. 

Về thời điểm công khai: Đối với báo cáo dự toán ngân sách nhà nước phải 

được công khai chậm nhất là 15 ngày, kể từ ngày được đơn vị dự toán cấp trên hoặc cấp có thẩm quyền giao đầu năm và điều chỉnh giảm hoặc bổ sung trong năm (nếu có). Tổ chức được ngân sách nhà nước hỗ trợ phải côn khai là 15 ngày kể từ ngày được tổ chức cấp trên hoặc cấp có thẩm quyền giao đầu năm và điều chỉnh giảm hoặc bổ sung trong năm (nếu có) ; Đối với báo cáo tình hình thực hiện dự toán ngân sách nhà nước hằng quý, 6 tháng phải được công khai chậm nhất là 15 ngày, kể từ ngày kết thúc quý và 06 tháng. Đối với báo cáo tình hình thực hiện ngân sách nhà nước hàng năm được công khai chậm nhất là 05 ngày làm việc, kể từ ngày đơn vị báo cáo đơn vị dự toán cấp trên trực tiếp. Và đối với báo cáo quyết toán ngân sách nhà nước phải được công khai chậm nhất là 15 ngày, kể từ ngày được đơn vị dự toán cấp trên hoặc cấp có thẩm quyền phê duyệt. 

Thứ ba, đối với các chương trình, dự án đầu tư xây dựng cơ bản sử dụng vốn ngân sách nhà nước

Nội dung công khai: Theo quy định tại khoản 1 Điều 15 Luật Ngân sách nhà nước 2015, các chương trình, dự án đầu tư xây dựng cơ bản sử dụng vốn ngân sách nhà nước được công khai dự toán đã được cấp có thẩm quyền quyết định, tình hình thực hiện ngân sách nhà nước và quyết toán ngân sách nhà nước; kết quả thực hiện các kiến nghị của Kiểm toán nhà nước; trừ số liệu chi tiết, báo cáo thuyết minh thuộc lĩnh vực quốc phòng, an ninh, dự trữ quốc gia. Bên cạnh đó, Luật Tiếp cận thông tin 2016 đồng thời quy định tại Điểm đ khoản 1 Điều 17 về thông tin phải công khai đối với các chương trình, dự án đầu tư xây dựng cơ bản sử dụng vốn ngân sách nhà nước gồm: dự toán, tình hình thực hiện và quyết toán ngân sách. Cụ thể tại Điều 14 Luật Đầu tư công 22019 quy định về các nội dung công khai minh bạch trong đầu tư công gồm 11 nội dung, theo trình tự từ pháp luật đầu tư công cho đến kế hoạch, các nguyên tắc, tình hình  và tiến độ thực hiện cho tới khi quyết toán vốn đầu tư công 

Hình thức công khai : Được thực hiện theo điểm b khoản 1 Điều 15 Luật Ngân sách nhà nước, bao gồm nhiều hình thức khác nhau: công bố tại kỳ họp, niêm yết tại trụ sở làm việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị; phát hành ấn phẩm; thông báo bằng văn bản đến các cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có liên quan; đưa lên trang thông tin điện tử; thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng. Điểm đ khoản 1 Điều 17 Luật Tiếp cận thông tin bổ sung thêm các hình thức công khai như thông qua việc tiếp công dân, họp báo, thông cáo báo chí, hoạt động của người phát ngôn của cơ quan nhà nước theo quy định của pháp luật; hoặc các hình thức khác thuận lợi cho công dân do cơ quan có trách nhiệm công khai thông tin xác định. 

Chủ thể công khai đối với các chương trình, dự án đầu tư công theo quy định tại khoản 2 Điều 14 Luât Đầu tư công 2019 do người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị phải thực hiện việc công khai các nội dung đầu tư công theo quy định của pháp luật. 

Về thời điểm công khai áp dụng theo quy định của pháp luật ngân sách nhà nước, pháp luật về tiếp cận thông tin và Luật Thực hiện dân chủ tại cơ sở. 

3.3.2. Được tham vấn ngân sách cùng nhà nước 

 

Về lý thuyết, ở mức độ này, người dân được nhà nước mời tham gia và trả lời các nội dung được thiết kế trước về ngân sách nhà nước. Qua đó, nhà nước hiểu hơn quan điểm cũng như nhận thức của người dân về ngân sách nhà nước. 

Hiện nay, Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở có giải thích về thuật ngữ dân chủ ở cơ sở trong đó lý giải rằng đó là cách thức để người dân làm chủ thông qua việc thảo luận, tham gia ý kiến, quyết định và kiểm tra, giám sát các vấn đề ở cơ sở theo quy định của Hiến pháp và pháp luật. Qua rà soát và đánh giá các văn bản quy phạm pháp luật liên quan cho thấy, hiện nay, tại Việt Nam chưa quy định về nội dung người dân được tham vấn ngân sách cùng nhà nước. 

3.3.3. Thảo luận ngân sách cùng nhà nước  

Đây là giai đoạn người dân thể hiện quan điểm của mình về nội dung ngân sách nhà nước hoặc dự án hoặc chương trình có sử dụng ngân sách nhà nước. Quá trình thảo luận ngân sách được nhà nước tổ chức, người dân tham gia với tư cách cá nhân hoặc đại diện hộ gia đình để cung cấp nhu cầu và nó có giá trị cung cấp các phương án như là gợi ý chính sách cho các chủ thể có thẩm quyền trong quá trình ra quyết định về ngân sách nhà nước. 

Nội dung thảo luận: Qua đánh giá mức độ tham gia này tương ứng với hình thức Tham gia ý kiến, được quy định tại Mục 3 Luật Thực hiện dân chủ tại cơ sở 2022, liên quan đến ngân sách nhà nước được cụ thể như sau: 

Đối với các cấp ngân sách nhà nước, thảo luận ngân sách cùng nhà nước của 

người dân chưa được quy định. 

Đối với các đơn vị dự toán, các tổ chức được ngân sách nhà nước hỗ trợ, hiện pháp luật cũng không quy định về vấn đề thảo luận với người dân. 

Đối với các chương trình, dự án sử dụng vốn ngân sách nhà nước được quy định về thảo luận với người dân tại khoản 3 Điều 25 Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở 2022, theo đó, phạm vi thảo luận gồm các nội dung về chủ trương, chính sách đầu tư, xây dựng, đất đai, xử lý chất thải và bảo vệ môi trường, đền bù, giải phóng mặt bằng và phương án di dân, tái định canh, định cư đối với việc quyết định đầu tư công dự án quan trọng quốc gia, dự án nhóm A, dự án có quy mô di dân, tái định canh, định cư lớn, dự án có nguy cơ tác động xấu đến môi trường, dự án có ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống kinh tế - xã hội của cộng đồng dân cư nơi thực hiện dự án.  

Hình thức thảo luận: Bao gồm các hình thức như: hội nghị trao đổi, đối thoại giữa Ủy ban nhân dân cấp xã với Nhân dân; Tổ chức cuộc họp của cộng đồng dân cư; Phát phiếu lấy ý kiến của hộ gia đình; Thông qua hòm thư­ góp ý, đường dây nóng (nếu có); Thông qua Ban công tác Mặt trận ở thôn, tổ dân phố và các tổ chức chính trị - xã hội ở cơ sở; Thông qua cổng thông tin điện tử, trang thông tin điện tử của chính quyền địa phương cấp xã; Thông qua mạng viễn thông, mạng xã hội hoạt động hợp pháp theo quy định của pháp luật, bảo đảm phù hợp với mức độ ứng dụng công nghệ thông tin tại cấp xã, tại thôn, tổ dân phố. 

Chủ thể tiến hành thảo luận: UBND cấp xã chịu trách nhiệm lên kế hoạch và tổ chức lấy ý kiến của người dân, quy trình này phải thông báo tới HĐND cùng cấp và MTTQVN cùng cấp. Tại khoản 2 Điều 28 Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở 2022 cũng đồng thời quy định Chủ tịch UBND cấp xã chịu trách nhiệm chỉ đạo việc tiếp nhận, tổng hợp ý kiến, thông tin phản hồi của người dân dân; nghiên cứu tiếp thu, giải trình ý kiến tham gia của người dân về các nội dung thuộc thẩm quyền quyết định của cấp xã để quyết định theo thẩm quyền hoặc báo cáo HĐND, UBND cấp xã quyết định và thực hiện việc công khai kết quả tổng hợp ý kiến của người 

dân, nội dung giải trình, tiếp thu đến người dân. 

Việc thảo luận hay còn được quy định là Tham gia ý kiến của người dân liên quan đến ngân sách nhà nước được ghi nhận khá phù hợp và tương thích với các bậc thang tham gia nói chung. Trong trường hợp ý kiến của người tham gia không được sử dụng cho quá trình ra quyết định chính sách, pháp luật cũng ghi nhận về việc chịu trách nhiệm của các chủ thể có thẩm quyền nếu đưa ra phương án và quyết định khác với các ý kiến của đa số người dân. 

3.3.4. Thực hiện ngân sách cùng nhà nước 

Đây là giai đoạn mà nhà nước và công dân trở thành đối tác hợp tác để thực hiện các nội dung về ngân sách, các chương trình hay dự án có sử dụng ngân sách nhà nước. Người dân cùng thực hiện ngân sách nhà nước có nghĩa là họ trở thành một phần của quy trình ngân sách nhà nước, người dân cùng thực hiện và cùng chịu trách nhiệm với nhà nước.  

Hiện nay, Luật Ngân sách nhà nước 2015 cùng Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở 2022 và các quy định thuộc các lĩnh vực liên quan như pháp luật về đầu tư, pháp luật về quản lý tài sản công…không quy định rõ về nội dung người dân cùng thực hiện ngân sách với nhà nước. 

Tuy nhiên, trong thực tế tại Việt Nam hiện nay, thuật ngữ “nhà nước và nhân dân cùng làm” đang được áp dụng ở hầu hết các địa phương đã cho thấy sự tồn tại của mức độ tham gia này nhưng chưa được xây dựng thành luật. Cụ thể 

Đối với ngân sách nhà nước của các cấp chính quyền không quy định mức độ tham gia này. 

Đối với các đơn vị dự toán/chương trình được ngân sách nhà nước hỗ trợ vốn không quy định về mức độ tham gia này. 

Đối với các chương trình/ dự án sử dụng vốn ngân sách nhà nước được quy định cụ thể như sau: 

Về phạm vi áp dụng: chỉ áp dụng tại chính quyền cấp xã 

Về mục đích: theo quy định tại Điều 5 Nghị định số 24/1999/NĐ-CP Về việc ban hành quy chế tổ chức huy động, quản lý và sử dụng các khoản đóng góp tự nguyện của nhân dân để xây dựng cơ sở hạ tầng của các xã, thị trấn đã quy định về mục đích huy động nguồn lực của người dân để bổ sung vào vốn đầu tư cho các mục đích xây dựng mới, nâng cấp sửa chữa các công trình cơ sở hạ tầng của xã và công trình cơ sở hạ tầng liên thôn trong xã (gọi chung là công trình cơ sở hạ tầng của xã) gồm: công trình điện, giao thông, trường học, trạm xá xã, các công trình văn hoá, thể thao, hệ thống nước sạch, kênh, mương nội đồng và các công trình công ích khác. 

Về nội dung ngân sách người dân cùng thực hiện với nhà nước được quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 15 Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở 2022 gồm: (1) 

Chủ trương và mức đóng góp xây dựng cơ sở hạ tầng, các công trình công cộng trong phạm vi địa bàn cấp xã, ở thôn, tổ dân phố do người dân đóng góp toàn bộ hoặc một phần kinh phí, tài sản, công sức; (2) Việc thu, chi, quản lý các khoản đóng góp của người dân tại cộng đồng dân cư ngoài các khoản đã được pháp luật quy định; việc thu, chi, quản lý các khoản kinh phí, tài sản do cộng đồng dân cư được giao quản lý hoặc được tiếp nhận từ các nguồn thu, tài trợ, ủng hộ hợp pháp khác. 

Về hình thức tham gia ở mức độ Thực hiện ngân sách cùng nhà nước bao gồm: Tổ chức cuộc họp của cộng đồng dân cư; Phát phiếu lấy ý kiến của từng hộ gia đình; Biểu quyết trực tuyến nếu phù hợp với mức độ ứng dụng công nghệ thông tin và được cộng đồng dân cư thống nhất lựa chọn. UBND cấp xã có thể áp dụng 1 hoặc một số hình thức tham gia dựa vào tình hình thức tế của địa phương. 

Hình thức đóng góp được quy định gồm: Tiền; Ngày công lao động và hiện 

vật theo quy định tại Mục I Thông tư số 85/1999/TT-BTC Hướng dẫn thực hiện quy chế tổ chức huy động, quản lý và sử dụng các khoản đóng góp tự nguyện của nhân dân để xây dựng cơ sở hạ tầng của các xã, thị trấn. 

Hình thức này hiện được mặc định với tên gọi Nhà nước và nhân dân cùng làm. Theo đó, sau khi xác định đươc nội dung, UBND cấp xã chủ trì việc lựa chọn và tổ chức quy trình thực hiện. Việc đóng góp của người dân phải được lấy ý kiến với sự đồng thuận cao, sau khi đa số người dân đồng ý thì UBND xã tổ chức huy động nhân dân đóng góp, nhân dân có nghĩa vụ chấp hành nghiêm chỉnh các quyết định được đa số đồng ý. Tức là người dân phải chịu  trách nhiệm và tôn trọng với các ý kiến đã được thông qua. 

Trong quá trình thực hiện chương trình/dự án, người dân tại địa bàn được ưu tiên hợp tác như là một đối tác thực hiện dự án. Theo quy định tại khoản 1 Điều 15 Nghị định số 24/1999/NĐ-CP  thì việc thi công công trình phải ưu tiên sử dụng lao động và lực lượng thi công tại xã, chỉ mời thầu và tổ chức đấu thầu với các lực lượng thi công ngoài địa bàn xã trong trường hợp công trình đòi hỏi kỹ thuật cao, tính chất thi công phức tạp mà lực lượng thi công tại xã không đảm nhận được. Việc tổ chức đấu thầu phải thực hiện theo đúng các quy định hiện hành của Nhà nước. Như vậy, người dân không chỉ chịu trách nhiệm với quyết định khi bỏ phiếu, với tư cách là đối tác thực hiện dự án, họ phải chịu trách nhiệm trước người dân, chính quyền và pháp luật đối với các hạng mục mà họ được mời hợp tác thực hiện. 

Đối với các hình thức tham gia của người dân vào quy trình ngân sách nhà nước, mức độ thực hiện ngân sách cùng nhà nước được thiết kế chi tiết và đầy đủ hơn so với các mức độ tham gia khác. 

3.3.5. Người dân quyết định ngân sách nhà nước  

Đây là mức độ tham gia cao nhất của người dân vào quy trình ngân sách nhà nước, theo đó, ngân sách được quyết định theo nhu cầu của người dân, đồng thời người dân kiểm soát, điều hành, chịu trách nhiệm ra quyết định trước một quy trình ngân sách nhà nước. 

Đối với các cấp ngân sách nhà nước hiện chưa có quy định về mức độ tham gia này. 

Đối với các đơn vị dự toán/các tổ chức được nhà nước hỗ trợ ngân sách hiện chưa quy định về mức độ tham gia này. 

Đối với các dự án/chương trình sử dụng vốn ngân sách nhà nước hiện chưa có quy định pháp luật về mức độ tham gia này. 

3.3.6. Giám sát ngân sách nhà nước 

Ở mức độ này, người dân tiến hành theo dõi quá trình thực hiện quy trình ngân sách nhằm đảm bảo việc tuân thủ theo các nội dung ngân sách đã được quyết định trước đó. Hoạt động giám sát có thể mang tính cá nhân hoặc thông qua các tổ chức chính trị xã hội, các tổ chức dân sự hoặc nghề nghiệp. Việc đa dạng hóa các chủ thể giám sát quy trình ngân sách nhà nước có giá trị cung cấp cho nhà nước nhiều nguồn thông tin dưới nhiều góc độ khác nhau. 

Theo dòng ngân sách nhà nước liên quan tới các quy định của Luật Ngân sách nhà nước 2015, Luật Đầu tư công 2019, Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư 2020; Luật quản lý vốn nhà nước…khu vực ngân sách của các cấp chính quyền, các đơn vị dự toán/các tổ chức được ngân sách nhà nước hỗ trợ hay các chương trình/dự án sử dụng vốn ngân sách nhà nước đều được áp dụng chung cơ chế giám sát với tên gọi: Giám sát ngân sách nhà nước của cộng đồng và chủ thể chủ trì quy trình này là MTTQVN các cấp. 

Theo quy định tại Điều 9 Hiến pháp 2013 và Điều 1 và khoản 5 Điều 3 Luật MTTQVN 2015, chức năng giám sát của MTTQVN được ghi nhận cùng với các thành viên của mình và các tổ chức chính trị - xã hội là chủ thể đại diện để bảo về quyền và lợi ích hợp pháp của người dân trong đó có hoạt động giám sát ngân sách nhà nước. 

Mục đích giám sát: Hoạt động giám sát nói chung và giám sát ngân sách nhà nước của cộng đồng nói riêng nhằm mục đích như theo ghi nhận tại khoản 2 Điều 25 Luật MTTQVN 2015, đó là đại diện để bảo vệ quyền cho người dân, đồng thời đưa ra các phương án xử lý vi phạm. Đây là chức năng đại diện quyền tham gia gián tiếp của người dân với các mục tiêu phát huy quyền lực nhân dân và đồng lòng xây dựng nhà nước trong sạch, phát triển toàn diện. 

Nội dung giám sát 

Đối với các cấp ngân sách nhà nước và các đơn vị dự toán/các tổ chức được ngân sách nhà nước hỗ trợ: theo khoản 1 Điều 16 Luật Ngân sách nhà nước 2015 ghi nhận hoat động giám sát ngân sách nhà nước của cộng đồng gồm các nội dung sau: Việc chấp hành các quy định của pháp luật về quản lý, sử dụng ngân sách nhà nước; Tình hình thực hiện dự toán ngân sách nhà nước hằng năm; Việc thực hiện công khai ngân sách nhà nước.  

Đối với dự án/ chương trình sử dụng vốn ngân sách nhà nước và dự án PPP, khoản 3 Điều 74 Luật Đầu tư công 2019 quy định hoạt động giám sát của cộng đồng gồm các nội dung sau: (1) Việc chấp hành quy định của pháp luật về đầu tư, xây dựng, đất đai, xử lý chất thải và bảo vệ môi trường;( 2) Công tác đền bù, giải phóng mặt bằng và phương án tái định canh, định cư bảo đảm quyền lợi của Nhân dân; (3) Các chương trình, dự án sử dụng một phần vốn đóng góp của người dân; (4) Tình hình triển khai và tiến độ thực hiện các chương trình, dự án;( 5) Việc thực hiện công khai, minh bạch trong đầu tư công theo quy định; (6) Phát hiện những việc làm tổn hại đến lợi ích của cộng đồng; những tác động tiêu cực của dự án đến môi trường sinh sống của cộng đồng trong quá trình thực hiện đầu tư và vận hành dự án; những việc làm gây lãng phí, thất thoát vốn, tài sản thuộc dự án. 

Hình thức giám sát gồm: Nghiên cứu, xem xét văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về lĩnh vực ngân sách nhà nước liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; Tổ chức đoàn giám sát; Tham gia giám sát với cơ quan, tổ chức có thẩm quyền;  Thông qua hoạt động của Ban thanh tra nhân dân được thành lập ở cấp xã, Ban giám sát đầu tư cộng đồng. 

Do pháp luật ngân sách nhà nước không quy định một trình tự riêng về giám sát ngân sách nhà nước của cộng đồng mà chỉ ghi nhận việc giám sát ngân sách theo kế hoạch và quy định của pháp luật một cách chung chung nên có thể hiểu, quy trình giám sát ngân sách nhà nước sẽ áp dụng quy trình giám sát nói chung của MTTQVN theo quy định của Luật MTTQVN 2015. Cụ thể như sau: 

Bước 1: Dựa vào các căn cứ giám sát quy định tại khoản 1 Điều 2 Nghị quyết liên tịch số 403/2017/NQLT-UBTVQH-CP-DCTUBMTTQVN, gồm các 

chương trình hàng năm của MTTQ các cấp hoặc phối hợp với các cơ quan nhà nước khác cùng cấp trên địa bàn hoặc dựa trên đơn khiếu nại, tố cáo…hoặc các nội dung ngân sách mà người dân quan tâm để xây dựng kế hoạch và phương án giám sát.  

Bước 2: theo định kỳ, hàng năm vào khoảng quý 4, kế hoạch giám sát được ban hành sau khi có sự đồng thuận của các chủ thể liên quan. 

Bước 3: Phụ thuộc vào hình thức giám sát ngân sách nhà nước nào được lựa chọn mà quy trình sẽ được tiến hành, cụ thể như sau: 

Đối với hình thức nghiên cứu, xem xét văn bản thuộc lĩnh vực ngân sách nhà nước liên quan đến quyền và lợi ích của người dân. UBMTTQ chủ trì hoặc đề xuất nghiên cứu lại văn bản hoặc có thể tổ chức hội nghị cũng như tham vấn lấy ý kiến…nếu thấy cần thiết. Quy trình chủ yếu là các bên trình bày ý kiến và chủ thể chủ trì đưa ra kết luận.  

Đối với việc lấy ý kiến chuyên gia được thực hiện chủ yếu thông qua hình thức gián tiếp bằng văn bản cho ý kiến, UBMTTQ chịu trách nhiệm tổng kết. 

Đối với hình thức tổ chức đoàn giám sát: UBMTTQ xây dựng kế hoạch cũng như tổ chức đoàn tham gia giám sát. Dựa vào nội dung và đối tượng giám sát UBMTTQ mời chủ thể tham gia khác tham gia cùng giám sát. Cuối cùng, đơn vị chủ trì ban hành quyết định thành lập đoàn giám sát. Chậm nhất là 15 ngày trước khi tiến hành giám sát, đơn vị chủ trì giám sát buộc phải gửi thông báo cùng các thông tin liên quan cho các chủ thể tham gia giám sát, thời gian là 7 ngày phải thông tin và tài liệu phải được gửi tới chủ thể được giám sát. Trình tự giám sát được tiến hành như sau: (1) Trưởng đoàn thông tin kế hoạch giám sát ; (2) Chủ thể có thẩm quyền được giám sát báo cáo nội dung liên quan; (3) Trao đổi ý kiến giữa chủ thể được giám sát và chủ thể giám sát; (4) Chủ thể giám sát trình bày rõ hơn các nội dung liên quan, đồng thời có thể nêu ý kiến với đoàn giám sát.; (5) Đại diện chủ thể giám sát đưa ra kết luận. 

Giai đoạn sau giám sát, chậm nhất 15 ngày kể từ ngày kết thúc giám sát, chủ thể giám sát phải báo cáo kết quả tới UBMTTQ và các chủ thể liên quan, có thể tổ chức các cuộc họp nếu thấy cần thiết, cuối cùng, dựa vào kết quả đã được giám sát, chủ thể chủ trì giám sát ban hành văn bản kết luận đồng thời có thể có kiến nghị tới các chủ thể có thẩm quyền. 

Đối với hình thức giám sát ngân sách nhà nước qua hoạt động của Ban thanh tra nhân dân. 

Một là, xây dựng phương án, trước 05 ngày tiến hành giám sát, Ban TTND phải đủ phương án trình Thường trực UBMTQ và người đứng đầu cơ quan hành chính cấp xã. 

Hai là, quá trình giám sát, chủ thể chủ trì giám sát, tức là Ban TTND có quyền yêu cầu chủ thể được giám sát cung cấp các thông tin cần thiết, các ý kiến, nguyện vọng, nhu cầu cụ thể liên quan đến NSNN. 

Ba là, trên cơ sở số liệu thu thập được, việc phân tích và theo dõi các dữ liệu và minh chứng cho phép Ban TTND đánh giá được tình hình tuân thủ pháp luật NSNN, trường hợp phát hiện hành vi vi phạm, Ban TTND ban hành văn bản kiến nghị tới các chủ thể có thẩm quyền. Việc giải quyết đơn kiến nghị này được tình thời hạn từ 15 ngày kể từ ngày các chủ thể nhận được đơn kiến nghị của Ban TTND  

Cuối cùng, Ban TTND phải thông báo kết quả thực hiện kiến nghị cũng như quá trình chấp hành pháp luật NSNN của các đối tượng được giám sát cho người 

dân tại địa phương.  

Hình thức giám sát NSNN với cơ quan tổ chức có thẩm quyền: Khi giám sát NSNN cùng với các cơ quan tổ chức khác theo quy định của pháp luật, MTTQVN cử đại diện tham gia, đồng thời cùng lên phương án thực hiện, xem xét văn bản hoặc hành vi của chủ thể được giám sát và đưa ra quan điểm của MTTQ đối với nội dung được giám sát. Khi có hành vi vi phạm pháp luật, MTTQ đồng thời hoặc tự mình kiến nghị và đưa ra các hình thức xử lý vi phạm tới các chủ thể có thẩm quyền giải quyết.  

Chủ thể giám sát: Theo quy định tại Điều 16 Luật Ngân sách nhà nước 2015; Nghị định 163/2016; Luật Đầu tư công 2019; Nghị định 29/2021; Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam 2015 đều thống nhất giao MTTQVN các cấp chủ trì, phối hợp với các thành viên của Mặt trận tổ chức việc giám sát ngân sách nhà nước của cộng đồng đối với tất cả các nguồn lực từ ngân sách nhà nước. Luật Ngân sách nhà nước 2015 và Nghị định 163/2016 chỉ định rõ là MTTQVN; Ban thanh tra nhân dân ở cấp xã, Ban giám sát đầu tư của cộng đồng như quy định tại điểm đ khoản 4 Điều 52 Nghị định 163/2016 thì chủ thể tham gia còn có mặt của người dân được bầu bởi các thiết chế tự quản ở địa phương. 

Tóm lại, sự tham gia của người dân vào quy trình ngân sách nhà nước ở VN hiện còn rất thấp, thông qua hoạt động đánh giá trong nước và kết quả khảo sát quốc tế đã chứng mình điều này. 

Theo đó, đánh giá của Bộ Nội Vụ năm 2020 khi thực hiện xây dựng Luật 

Thực hiện dân chủ ở cơ sở 2022 đã cho thấy ở từng mức độ tham gia khi áp dụng Pháp lệnh 34  như sau: Đối với nội dung thông báo công khai cho dân biết còn hạn chế, đối với nội dung dân bàn và quyết định trực tiếp việc áp dụng pháp luật còn mang tính hình thức, nội dung nhân dân bàn, biểu quyết để cấp có thẩm quyền quyết định được thực hiện chủ yếu thông qua Ban GSĐTcủa cộng đồng và Ban TTND còn nhiều hạn chế do hoạt động của Ban Thanh tra nhân dân, Ban Giám sát đầu tư cộng đồng ở một số địa phương, cơ sở chưa phát huy được vai trò, chất lượng thực hiện còn thấp…Kết quả thực hiện những nội dung nhân dân tham gia ý kiến trước khi cơ quan có thẩm quyền quyết định, dung còn chung chung, chưa sát với thực tiễn cơ sở. Đồng thời chính quyền chưa tập hợp đầy đủ ý chí, nguyện vọng chính đáng và ý kiến xác đáng của các tầng lớp nhân dân. Một số nơi cán bộ lãnh đạo chưa sâu sát với nhân dân, vẫn còn hiện tượng khoán trắng cho cán bộ, công chức cấp dưới triển khai thực hiện, nội dung để đưa ra nhân dân tham gia ý kiến chưa rõ ràng, phù hợp với thực tế, nhân dân chưa thật sự tin tưởng. 

Bên cạnh đó, theo khảo sát công khai ngân sách (OBS) chỉ số công khai ngân sách (OBI) được xây dựng dựa trên 3 trụ cột gồm: Mức độ minh bạch; Sự tham gia của công chúng; Giám sát ngân sách. Khảo sát OBS đánh giá cơ chế và cơ hội chính thức để công chúng tham gia vào quy trình ngân sách. Khảo sát xem xét các hoạt động mà Chính phủ, cơ quan lập pháp (Quốc hội) và cơ quan kiểm toán tối cao (Kiểm toán nhà nước) thông qua 18 chỉ số có trọng số tương đương, áp dụng các nguyên tắc về sự tham gia của công chúng trong các chính sách tài khóa của tổ chức Sáng kiến toàn cầu về minh bạch tài khóa và đánh giá từng quốc gia theo thang điểm từ 0 đến 100. Theo đó, trong quy trình ngân sách nhà nước tại Việt Nam, người dân được tham gia hạn chế vào tiến trình phê chuẩn ngân sách của Quốc hội. Ít hoặc không được tham gia vào việc lập, thực hiện dự toán và kiểm toán ngân sách. 

Bảng 3.1: Cơ hội tham gia của công chúng trong quy trình ngân sách (số liệu NCS tổng hợp) 

 

Năm khảo sát 

Lập ngân sách 

(cơ quan hành pháp) 

Phê duyệt ngân sách (cơ quan 

lập pháp) 

Thực hiện ngân sách (cơ quan hành pháp) Kiểm toán ngân sách (cơ quan kiểm toán nhà nước) 
2021 27 56 
2019 56 
2017 

 

 

Bảng 3.2: Chỉ số công khai ngân sách của Việt Nam -  Số liệu do tác giả tổng hợp từ số liệu của CDI và IBP: 

 

Năm khảo sát Chỉ số công khai ngân sách - IBO 

Trụ cột 1 – Mức độ minh 

bạch 

Trụ cột 2 – Sự tham gia của công chúng 

Trụ cột 3 – Giám sát ngân 

sách 

2021 44 44 17 80 
2019 38 38 11 74 
2017 15 15 72 

    (Ít: 0 – 20; Tối thiểu: 21 – 40; Hạn chế:: 21 – 60; Đáng kể: 61 – 80; Đầy đủ: 81 – 100) 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 

Chương 3 đã tổng hợp, phân tích, đánh giá các chủ trương, định hướng của Đảng về sự tham gia của người dân, nhất là trong giai đoạn từ Đại hội VII năm 1991 cho đến nay. Đường lối của Đảng được thể chế hóa trong các quy định trong các bản Hiến pháp và pháp luật chuyên ngành, các quy định này luôn phát triển và được sửa đổi bổ sung qua thời gian. Hiện nay, Luật Thực hiện dân chủ sơ sở 2022 (thay thế Pháp lệnh 34/2007), Luật Ngân sách nhà nước 2015, Luật Mặt Trận Tổ 

Quốc Việt Nam, Luật Đầu tư công, Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư, Luật Thanh tra và nhiều đạo luật khác đều có quy định về sự tham gia của người dân liên quan đến ngân sách nhà nước. 

Sau khi phân tích, tại Chương 3, Luận án có thể rút ra các kết luận chính sau đây: 

Thứ nhất, thể chế hóa đường lối của Đảng, quyền tham gia của người dân vào quy trình ngân sách nhà nước đã được ghi nhận trong hệ thống pháp luật Việt Nam ngày càng rõ hơn, nhất là sau Hiến pháp 2013. Về hình thức, quyền tham gia vào lĩnh vực ngân sách nhà nước đang tiến dần và có sự tương thích với pháp luật quốc tế. Tuy vậy, cơ chế tham gia được nhấn mạnh và định hướng thông qua các thiết chế đại diện như MTTQVN hoặc Ban Giám sát đầu tư của cộng đồng hoặc Ban Thanh tra nhân dân tại cấp cơ sở. Thiết kế pháp luật về quyền tham gia vào quy trình ngân sách nhà nước của người dân cho thấy quan điểm nhất quán có từ trước đây của truyền thống pháp luật XHCN ở Việt Nam, ưu tiên thúc đẩy sự tham gia của người dân thông qua hình thức dân chủ XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng, và để sử dụng quyền này người dân phải thông qua các tổ chức của Nhà nước hoặc do Nhà nước định hướng. Đây chính là đặc trưng về quyền tham gia vào quy trình ngân sách nhà nước của người dân trong nhà nước do một Đảng lãnh đạo ở Việt Nam. 

Thứ hai, quyền tham gia của người dân vào quy trình ngân sách nhà nước được quy định phân mảng ở nhiều ngành luật khác nhau và mức độ tham gia thấp, hầu hết chỉ dừng lại ở quyền được biết thông tin về ngân sách nhà nước. Ngay cả khi thông tin được công khai thì các hình thức công khai ngân sách cũng không phù hợp dẫn đến thông tin không đầy đủ toàn diện. 

Thứ ba, quyền tham gia của người dân vào quy trình ngân sách nhà nước phổ biến ở Việt Nam hiện nay là hình thức giám sát được pháp luật ngân sách nhà nước định danh là: Giám sát ngân sách nhà nước của cộng đồng, được trao quyền chủ trì cho MTTQVN các cấp. Hình thức giám sát ngân sách nhà nước của cộng đồng 

được áp dụng cho tất cả các lĩnh vực sử dụng ngân sách nhà nước. Chính việc định danh quyền tham gia là hình thức “dân chủ XHCN” và trao quyền chủ trì cho một tổ chức thuộc nhà nước là yếu tố quyết định tới hiệu quả tham gia của người dân vào quy trình ngân sách nhà nước. Nếu muốn khuyến khích và thúc đẩy quyền tham gia vào quy trình ngân sách nhà nước của người dân ở Việt Nam trong thời gian tới thì đây chính là vấn đề cần được thiết kế lại cho phù hợp với thực trạng quản trị nhà nước trong thời kỳ hội nhập ngày càng sâu sắc.

avatar
Vương Diệu Hồng
591 ngày trước
QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ SỰ THAM GIA CỦA NGƯỜI DÂN VÀO QUY TRÌNH NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
3.1. Cơ sở chính trị cho quy định pháp luật về sự tham gia của người dân vào quy trình ngân sách nhà nước  Tại Việt Nam, hệ thống Nhà nước và pháp luật được vận hành dưới sự lãnh đạo của ĐCSVN, đây là một nguyên tắc tổ chức Nhà nước và pháp luật có tính chất đặc thù trong chế độ một Đảng lãnh đạo. Muốn đánh giá về sự tham gia của người dân vào quy trình ngân sách nhà nước của người dân ở Việt Nam, cần phải phân tích cơ sở chính trị của pháp luật, đó chính là các chủ trương của ĐCSVN về sự tham gia của người dân, đây là cơ sở quan trọng nhất, quyết định tới không gian cho sự tham gia sẽ được thể chế hóa trong Hiến pháp và hệ thống pháp luật chuyên ngành. Có thể khái quát định hướng của ĐCSVN về quyền tham gia của người dân vào quy trình ngân sách nhà nước theo ba giai đoạn, cụ thể như sau:  Giai đoạn trước 1991 Đại hội Đảng lần thứ VII vào năm 1991 đặt dấu mốc quan trọng cho quá trình đổi mới tư duy của ĐCSVN về sự tham gia của người dân trong một nền quản trị quốc gia đổi mới. Trước đó, bị ảnh hưởng bởi tư duy của nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, sự tham gia của người dân vào quy trình ngân sách nhà nước chưa được ĐCSVN đề cập rõ ràng. Quyền làm chủ của người dân được diễn giải chung chung là “tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, nhân dân là chủ thể và là người thực hiện quyền lực chung của xã hội”.  Vào thời điểm trước 1991, sự tham gia của người dân, nếu có được ghi nhận, cũng dưới khái niệm quyền làm chủ của nhân dân. Quyền làm chủ của nhân dân được thể hiện trong Tư tưởng Hồ Chí Minh, nhấn mạnh: “Để thực hiện tốt nhiệm vụ cách mạng, nhà nước ta phải phát triển quyền làm chủ và sinh hoạt chính trị của toàn dân, để phát huy tính tích cực và sáng tạo của Nhân dân, làm cho mọi người công dân Việt Nam thực sự tham gia quản lý công việc của Nhà nước, ra sức xây dựng chủ nghĩa xã hội” (Hồ Chí Minh toàn tập, NXB Chính trị Quốc gia, T.12, trang 374). Mức độ tham gia của người dân lần đầu được bàn tới thông qua khẩu hiệu: dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, theo đó sự tham gia của người dân về cơ bản được xuất phát từ quyền dân chủ nhân dân và là nền tảng để xây dựng và vận hành hoạt động cũng như tổ chức của bộ máy nhà nước và sự tham gia này được thiết kế trên nền tảng của nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung.  Pháp luật Việt Nam thời kỳ trước 1991 không khuyến khích sở hữu tư nhân, quyền tham gia của người dân nói chung chưa được chính thức đề cập đến, liên quan đến bản chất của sự tham gia như là quyền con người là nền tảng dân chủ nhân dân, ĐCSVN có ghi  nhận nhưng nhất quán ưu tiên và ủng hộ sự tham gia được thực hiện thông qua bởi một tổ chức (tập thể) nhất định: “tăng cường chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động”. Quyền làm chủ tập thể theo mô hình XHCN tức là người dân lao động được thực thi quyền của mình trong những tổ chức mà Nhà nước cho phép.  Giai đoạn 1991-2001 Năm 1991, ĐCSVN thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH với nhận định sự nghiệp cách mạng của quốc gia chính là cuộc cách mạng của người dân và vì người dân . Cương lĩnh gồm 6 trụ cột, trong đó, trụ cột đầu tiên là “Do nhân dân làm chủ” để xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ XHCN, đảm bảo quyền lực thuộc về nhân dân. Dân chủ đi đôi với kỷ luật và phải được luật hóa. Đảng nhấn mạnh vấn đề dân chủ cần phải được thực hiện trên thực tế và ở tất cả các lĩnh vực. Đặc biệt, phải được thể chế và bảo đảm thực thi bằng pháp luật. Vì vậy, Đại Hội VII đã đặt ra nhiệm vụ phải sửa đổi Hiến pháp, tăng cường pháp chế XHCN. Tiếp tục sửa đổi và xây dựng hệ thống pháp luật về kinh tế, văn hóa, xã hội, về hình sự, dân sự, hành chính, về quyền và nghĩa vụ công dân. Đồng thời, định hướng xây dựng các đạo luật nhằm xác định quyền công dân và quyền con người, quyền đi đôi với trách nhiệm cá nhân (Văn kiện Đảng toàn tập, NXB Chính trị Quốc gia, 2004). Đại hội của Đảng lần VII cũng nêu rõ một trong những nhiệm vụ trọng tâm là: “Tiếp tục thực hiện tốt dân chủ ở cơ sở; thể chế hóa và thực hiện tốt phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” (Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia, 2016, tr.168, 38, 169, 39).  Để thúc đẩy và triển khai khẩu hiệu này thành các quy định của pháp luật phải kể đến Nghị Quyết số 03 ngày 18/6/1997, Hội nghị lần thứ ba BCHTW Đảng khoá VIII về phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tiếp tục xây dựng Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong sạch, vững mạnh (Nghi quyết 03) và Chỉ thị số 30 CT/TW về xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở (Chỉ thị số 30). Nội dung của hai văn bản quan trọng này chính là cơ sở để nhà nước xây dựng các quy định pháp luật đầu tiên ngoài Hiến pháp quy định chi tiết về sự tham gia của người dân vào quy trình ngân sách nhà nước. Khi ban hành Nghị Quyết 03 và Chỉ thị số 30, ĐCSVN đã cho thấy, bối cảnh Việt Nam trong nhưng năm 1997 sau gần 10 năm Đổi mới, đang phải đối diện với nhiều vấn đề liên quan kinh tế và quản trị nhà nước. Đó là nạn quan liêu, lòng tin vào Đảng và nhà nước của nhân dân bị giảm sút. Liên quan đến ngân sách nhà nước, ĐCSVN khẳng định đất đai, vốn và tài sản nhà nước chưa được quản lý chặt chẽ dẫn đến lãng phí, tham nhũng nghiêm trọng. Để giải quyết những vấn đề này, ĐCSVN lấy vấn đề dân chủ nhân dân mà cụ thể là phát huy và mở rộng quyền làm chủ của nhân dân, mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong xây dựng và quản lý nhà nước, củng cố và cải thiện dân chủ đại diện, đồng thời nghiên cứu thực hiện từng bước chế độ dân chủ trực tiếp, trước hết ở cấp cơ sở. Từ Nghị Quyết 03, Chỉ thị số 30 cho thấy rằng, vấn đề về sự tham gia của người dân như là một hình thức dân chủ trực tiếp bắt đầu được thực hiện và nơi áp dụng đầu tiên là cấp chính quyền thấp nhất trong bộ máy nhà nước Việt Nam. Về mục đích, nhằm khai thác những giá trị mà sự tham gia của người dân mang lại như cải thiện quản trị nhà nước và phát triển kinh tế. Trước bối cảnh phân cấp quản lý tài chính nói riêng và phân cấp quản lý nói chung còn chưa rõ, chưa cụ thể, sử dụng ngân sách nhà nước còn chưa hiệu quả, tham nhũng thành vấn nạn, quan liêu nghiêm trọng, vì thế, ĐCSVN đã đặt vấn đề dân chủ nhân dân trong đó khuyến khích và mở rộng quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội của người dân là ưu tiên hàng đầu trong những phương hướng cải thiện và đổi mới quản trị nhà nước.  Như vậy, sự tham gia của người dân trở thành phương hướng nhưng cũng đồng thời được sử dụng như một công cụ để cải thiện những vấn đề phát triển kinh tế và quản trị nhà nước. Về  phạm vi tham gia, Nghị Quyết 03 và Chỉ thị số 30 định hướng xây dựng pháp luật theo hướng khuyến khích sự tham gia gồm tất cả những vấn đề quan trọng có ảnh hưởng đến đông đảo nhân dân ở cấp cơ sở, đó là các vấn đề tác động trực tiếp đến đời sống và sinh kế của người dân tại cơ sở. Lĩnh vực tài chính ngân sách nhà nước được đặc biệt chú trọng và chia thành hai mảng theo chủ thể sử dụng ngân sách:  Thứ nhất, đối với HĐND và UBND, Nghị quyết 03 yêu cầu nghiên cứu và từng bước thực hiện dân chủ trực tiếp đối với những quyết định quan trọng sử dụng nguồn vốn có sự đóng góp của người dân hoặc những công trình phúc lợi.  Việc xác định được phạm vi và lĩnh vực khuyến khích tham gia của ĐCSVN cho thấy sự định hướng này là đúng. Bắt đầu từ cấp cơ sở, nơi tiếp xúc trực tiếp với người dân sẽ nhận được những phản hồi nhanh và chính xác đối với các chính sách của nhà nước. Đồng thời khẳng định những vấn đề liên quan đến trực tiếp đến đời sống của phần lớn người dân như hạ tầng, các công trình phúc lợi là những lĩnh vực liên quan đên sử dụng ngân sách nhà nước, đặc biệt, nếu nguồn vốn thực hiện có sự đóng góp của người dân thì pháp luật cần thiết kế phù hợp để nhân dân bàn và quyết định, thậm chí để người dân tham gia ở mức độ cao nhất. Thứ hai, cơ chế báo cáo về tài sản và hoạt động liên quan đối với tài chính ngân sách của các cơ quan hành chính nhà nước, các đơn vị sự nghiệp công lập và doanh nghiệp của nhà nước. Như vậy, Nghị quyết 03, Chỉ thị số 30 đặt trọng tâm áp dụng hình thức dân chủ trực tiếp vào các lĩnh vực liên quan đến sử dụng ngân sách nhà nước, điều này gián tiếp khẳng định rằng đây là lĩnh vực quan trọng nhất vì nó ảnh hưởng đến đông đảo quần chúng nếu đặt trọng phạm vi hoạt động của chính quyền. Đối với doanh nghiệp hoặc các đơn vị sự nghiệp công lập thì dòng lưu chuyển của vốn ngân sách là nội dung cần phải được công khai và minh bạch. Về cơ chế tham gia, Nghị quyết 03, Chỉ thị số 30 không xác định rõ mà yêu cầu khi nhà nước ban hành pháp luật cần phải đưa ra những phương án phù hợp để báo cáo và có thể báo báo cáo tại các kỳ họp liên quan.  Thời gian tham gia, không được định hướng rõ, các mốc thời gian như 6 tháng; 1 năm hoặc tại Đại hội đoàn thể cán bộ ở những cơ quan nhà nước hoặc các đơn vị sự nghiệp công lập chỉ là định hướng cho chế độ báo cáo chứ chưa phải là khoảng thời gian cụ thể để người dân tham gia. Về mức độ tham gia quy trình ngân sách, các văn bản đã thiết kế bám sát theo khẩu hiệu “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Theo đó, dựa vào khung tham gia được xây dựng tại Chương II cho thấy quyền tham gia của người dân vào quy trình ngân sách nhà nước theo quan điểm của ĐCSVN trong giai đoạn này được thiết kế ở ba bậc, gồm được biết thông tin về NSNN, được thảo luận và giám sát ngân sách nhà nước.  Thông qua Nghị quyết 03 và Chỉ thị số 30 cho thấy giai đoạn này, khi Việt Nam phải đổi mới phương thức quản trị nhà nước, ĐCSVN đã nhận thấy rõ vai trò của sự tham gia của người dân vào quy trình chính sách công, trong đó có quy trình ngân sách nhà nước. Việc nhìn nhận và đánh giá lại cũng như đưa ra giải pháp cải thiện quản trị quốc gia bằng việc thúc đẩy và định hướng tăng cường pháp luật và đồng thời có các cơ chế bảo đảm thực thi quyền tham gia đã cho thấy sự đổi mới trong nhận thức của ĐCSVN về quyền tham gia. Đây là cơ sở để quyền tham gia của người dân vào quy trình ngân sách nhà nước bước đầu được pháp luật ghi nhận tại Việt Nam mặc dù được định dạng với tên gọi pháp luật về dân chủ tại cấp cơ sở.  Giai đoạn từ sau 2001 Trong giai đoạn phát triển thứ ba về quyền tham gia của người dân vào quy trình ngân sách nhà nước, định hướng của ĐCSVN thể hiện rõ hai vấn đề. Thứ nhất, sự tham gia của người dân nói chung vào quy trình ngân sách nhà nước nói riêng cần được ghi nhận bằng thể chế tương thích với pháp luật toàn cầu về hình thức. Thứ hai, giữ vững nền tảng pháp luật XHCN về các cơ chế tham gia. Cụ thể như sau:  Thứ nhất, về mặt tương thích và hội nhập quốc tế, ĐCSVN yêu cầu cần tôn trọng ĐƯQT về quyền con người mà Việt Nam đã ký kết. Nghị quyết đại hội Đảng IX (2001); XI (2011); XIII (2021) ghi nhận các bậc tham gia gồm: sáng kiến; thảo luận; tranh luận và giám sát và nhà nước cần tập trung xây dựng những văn bản pháp luật liên quan trực tiếp đến quyền làm chủ của nhân dân. Để cụ thể hóa định hướng này, ĐCSVN quyết định hai nội dung quan trọng, một là, yêu cầu bổ sung quyền tham gia của người dân vào các lĩnh vực pháp lý cụ thể, bắt đầu trong các bản Hiến pháp thời kỳ Đổi Mới phân định rõ quyền con người và quyền công dân đồng thời cam kết cung cấp thông tin (điều kiện cần thiết để người dân tham gia hiệu quả hơn) thuộc trách nhiệm của nhà nước. Từ cơ sở này, pháp luật chuyên ngành đã quy định về quyền tham gia của người dân, ví dụ Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (Khoản 2 Điều 1 Luật Sửa đổi, bổ sung một số Điều của Luận Ban hành văn ban quy phạm pháp luật 2020); Luật Ngân sách nhà nước 2015 (Điều 16). Hai là, ĐCSVN cũng yêu cầu tạo điều kiện thực hành dân chủ trực tiếp và đặc biệt nhấn mạnh tới các hình thức dân chủ trực tiếp, đồng thời nhận định người dân là trung tâm của mọi chính sách phát triển, vì vậy cần tạo điều kiện cho người dân phát triển tự do và toàn diện. (Nghị Quyết Đại hội lần XI (2001); XII (2016); XIII (2021). Yêu cầu này cho thấy sự tương thích cũng như hội nhập mạnh mẽ về các quyền con người cơ bản của luật pháp Việt Nam với quốc tế, đặc biệt là tư tưởng và nền tảng của hệ thống pháp luật toàn cầu, con người là trọng tâm của sự phát triển toàn diện, các chính sách phát triển đến cuối cùng phải phụng sự mục tiêu vì sự phát triển của con người. Đây là cơ sở và tiền đề cho Hiến pháp 2013 tách bạch giữa quyền con người với quyền công dân thay vì gộp chung như những bản Hiến pháp trước đây của Việt Nam. Thứ hai, định hướng nhà nước giữ vững quan điểm phát triển quyền tham gia của người dân vào quy trình ngân sách nhà nước trên cơ sở pháp luật XHCN được biểu hiện thông qua yêu cầu và đặt ra nhiệm vụ đối với nhà nước đó là yêu cầu ban hành pháp luật liên quan đến quyền làm chủ của người dân bên cạnh yêu cầu tăng quyền mạnh hơn cho MTTQVN các cấp. Việc ĐCSVN yêu cầu phải trao thêm các quyền cho MTTQVN và nâng cao vị trí của tổ chức chính trị này và khẩu hiệu: “Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, MTTQ và các TCCT- XH làm nòng cốt để nhân dân làm chủ”. Ở hầu hết các lĩnh vực tài chính công cho thấy vấn đề “dân chủ xã hội chủ nghĩa” tức là sự tham gia của người dân vào quy trình chính sach công nói chung, ngân sách nhà nước nói riêng từ Đổi Mới bắt đầu tính từ 1986 cho tới nay, sau hơn 36 năm vẫn được duy trì về bản chất xã hội chủ nghĩa, tham gia tập thể trong một tổ chức do nhà nước thành lập, nhà nước không khuyến khích tham gia trực tiếp bởi vì để sử dụng quyền này, người dân phải áp dụng nhiều quy định của nhiều ngành luật khác nhau. Tóm lại, liên quan đến quyền tham gia vào quy trình ngân sách nhà nước của người dân theo quan điểm và định hướng của ĐCSVN có những điểm căn bản như sau: Một là, dựa trên nền tảng pháp luật XHCN, quyền tham gia vào quy trình ngân sách nhà nước của người dân được định dạng là một hình thức “dân chủ xã hội chủ nghĩa”. Người dân là chủ thể quyền lực nhà nước vì thế người dân có quyền tham gia, tuy nhiên, tại VN, quyền này được khuyến khích áp dụng các cơ chế tham gia tập thể, thông qua một tổ chức chính trị xã hội do nhà nước thành lập. Đây là trụ cột quan trọng được ĐCSVN kiên định giữ lại mặc dù chịu ảnh hưởng và bị tác động từ nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan khác nhau, thông qua định hướng hiện tại, quyền tham gia của người dân vào quy trình ngân sách nhà nước dù dưới tác động của môi trường thể chế toàn cầu với mức độ hội nhập sâu sắc nhưng việc trao và củng cố vai trò của MTTQVN các cấp đã cho thấy Việt Nam sẽ giữ vững quan điểm và nhận thức về dân chủ XHCN, từ lý luận này, quyền tham gia của người dân nói chung, vào quy trình ngân sách nhà nước nói riêng sẽ vẫn duy trì và khuyến khích tham gia trong một tập thể nhất định, đây cũng là nhân tố ảnh hưởng quan trọng tới hiệu quả khi áp dụng quyền tham gia của người dân vào quy trình ngân sách nhà nước ở Việt Nam mà việc phân tích các quy định phap pháp luật liên quan sẽ củng cố thêm nhận định này của Luận án. Hai là, dưới sức ép của hội nhập và nhu cầu đổi mới tự thân, ĐCSVN đã linh hoạt thừa nhận và sử dụng mô hình tham gia trong đó có quyền tham gia vào quy trình ngân sách nhà nước của người dân và định hướng nhà nước xây dựng pháp luật tương thích với pháp luật quốc tế, ví dụ, quy định các điều kiện tham gia hiệu quả (công khai thông tin), sử dụng thuật ngữ tham gia trực tiếp, thừa nhận người dân là trung tâm của mọi chiến lược phát triển… Bà là, quyền tham gia của người dân vào quy trình ngân sách nhà nước được định hướng và khuyến khích tham gia gián tiếp nên hình thức tham gia trực tiếp dừng lại ở mức độ thấp, có những hình thức tham gia mang đặc trưng ở Việt Nam nhưng không rõ ràng về mức độ tham gia, ví dụ hình thức kiểm tra và giám sát hoặc thuật ngữ “dân thụ hưởng” làm cho các thang đo về sự tham gia trở thành khẩu hiệu mang tính định hướng. 3.2. Ghi nhận sự tham gia của người dân trong các bản hiến pháp Việt Nam 3.2.1. Theo Hiến pháp 1946  Các bản Hiến pháp Việt Nam thể chế hóa đường lối của ĐCSVN. Hiến pháp năm 1946 của Việt Nam được ra đời như một tuyên bố với thế giới về một quốc gia độc lập, ghi nhận quyền và nghĩa vụ của công dân tại Chương II. Liên quan đến sự tham gia của người dân, Hiến pháp 1946 ghi nhận những quyền cơ bản của con người, thông qua đó, gián tiếp khẳng định khả năng bắt kịp xu hướng quốc tế về xây dựng luật khi nhận định rằng: “nền tảng quyền lực nhà nước là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân”, thể hiện rõ về quyền tham gia chính quyền của người dân (Điều 7). Hiến pháp năm 1946 ghi nhận những nguyên lý về dân chủ (nguyên lý chủ quyền nhân dân) và nhiều tư tưởng tiến bộ có thể sánh ngang các bản hiến pháp tiên tiến thời kỳ đó. Những nội dung này được thể hiện qua mấy ý cơ bản sau đây: Thứ nhất, sự tham gia được quy định nhưng bên cạnh đó, các điều kiện để tham gia hiệu quả cũng đồng thời được ghi nhận, đó là các quyền tự do ngôn luận, tự do hội họp, tự do xuất bản…tại Điều 10 Hiến pháp 1946.  Như đã trình bày tại Chương II, sự tham gia sẽ mang lại giá trị và hiệu quả cao hơn nếu cùng đồng thời kết hợp với sự công khai và minh bạch, tăng cường trách nhiệm giải trình, những nhân tố này chỉ có thể thực hiện được khi quyền tự do ngôn luận, tự do hội họp….được nhà nước thừa nhận.  Thứ hai, theo nhận thức của tác giả Luận án, “sự tham gia chính quyền” được quy định trong Hiến pháp 1946, dù chủ thể tham gia được định danh là “công dân” nhưng vẫn mang tính cá thể hóa nhiều hơn, bởi vì, chỉ có cá thể hóa mới phụ thuộc vào “tài năng và đức hạnh” của chủ thể đó. Nếu sự tham gia được đặt trong một môi trường và khuôn khổ một tổ chức, một tập thể, tính cá nhân hay cá thể này cần phải lược bớt, để tạo một sự đồng thuận rộng rãi hơn. Tuy nhiên, việc Hiến pháp 1946 quy định “công dân có quyền tham gia chính quyền” đã thể hiện một tư tưởng và quan điểm nhất quán cho đến tận ngày nay về cách thức tổ chức dân chủ trong đó có sự tham gia của người dân vào quy trình ngân sách nhà nước, đó là, không tách rời quyền con người với quyền công dân. Đây là bản sắc riêng của Việt Nam khi thừa nhận về các quyền cơ bản của người dân. Nó không chỉ được biểu hiện về mặt câu chữ, các quyền con người và quyền công dân luôn được đặt thành một chương trong các bản hiến pháp, mà quan điểm này còn thể hiện rất rõ trong từng quy định của Hiến pháp hay pháp luật chuyên ngành. Ví dụ, theo thông lệ trên thế giới, quyền tự do ngôn luận, đó là quyền con người, hay quyền tham gia đóng góp và tận hưởng sự phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa và chính trị là một quyền phát triển nhưng cũng đồng thời là quyền con người căn bản, nhưng theo tư duy pháp lý ở Việt Nam, đây là một quyền công dân, chẳng hạn, theo Điều 10 Hiến pháp 1946, công dân có quyền tự do ngôn luận; công dân có quyền tham gia chính quyền (Điều 7). Bên cạnh đó, dựa trên nền tảng của quyền tham gia chính quyền của công dân trong Điều 7, các quyền cơ bản khác gồm quyền tham gia bầu cử (Điều 18); quyền bãi miễn đại biểu và cử tri (Điều 20); quyền phúc quyết Hiến pháp (Điều 21) trong đó, nhân dân có quyền bày tỏ ý kiến của mình để quyết định những vấn đề có liên quan đến vận mệnh của đất nước và quyết định việc sửa đổi Hiến pháp lần lượt được xác định.  Hiến pháp 1946 không tách rời quyền con người với quyền công dân. Theo tác giả Luận án, đây là mấu chốt dẫn đến cách tiếp cận và góc nhìn khác nhau giữa pháp luật Việt Nam với các tiêu chuẩn đánh giá theo thông lệ quốc tế. Bởi như đã trình bày ở Chương II, sự tham gia của người dân là một quyền tự do dân sự và chính trị, là một quyền cơ bản của con người. Tuy nhiên, tại Việt Nam, Hiến pháp 1946 đã minh định sự tham gia chính quyền là một quyền của công dân, tức đây là dân quyền chứ không phải nhân quyền như thông lệ mà thế giới đã thừa nhận. Như vậy, theo các bậc thang của sự tham gia nói chung, pháp luật thời kỳ này đã trực tiếp hoặc gián tiếp ghi nhận nhưng có một đặc điểm chung là chưa cụ thể về cơ chế thực thi, mức độ tham gia thấp, ví dụ như quyền phúc quyết đối với những vấn đề liên quan đến vận mệnh đất nước và Hiến pháp, quyền tham gia được ghi nhận nhưng dừng ở mức độ được tham vấn, đưa ra ý kiến, chưa được quyết định.  3.2.2. Theo Hiến pháp 1959 Cùng với công cuộc xây dựng miền Bắc theo định hướng XHCN, hệ thống pháp luật XHCN được du nhập vào Việt Nam trong thời gian này. Nền tảng tư tưởng của hệ thống pháp luật XHCN là cơ sở cho các bản Hiến pháp 1959; Hiến pháp 1980, và sau đó là Hiến pháp 1992, mặc dù bản Hiến pháp 1992 được ban hành cho thời kỳ đổi mới và hội nhập. Tư tưởng và nền tảng pháp luật XHCN được biểu hiện gồm: nhà nước giữ vị trí chủ đạo trong các thành phần kinh tế; nền kinh tế kế hoạch tập trung; quyền lãnh đạo duy nhất thuộc về ĐCSVN; nhà nước sở hữu đất đai; tinh thần pháp luật được dùng để cai trị. Bản Hiến pháp 1959 ghi nhận các các đặc trưng này.  Liên quan đến sự tham gia của người dân, Hiến pháp 1959 đặt những ưu tiên khác lên trên, minh chứng là quyền và nghĩa vụ của công dân được đặt tại Chương III, khái niệm tham gia kiến quốc của công dân không được giữ lại mà sự tham gia của người dân chủ yếu thông qua cơ chế dân chủ đại diện bởi các đại biểu, Điều 4 đã quy định rằng quyền lực nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là thuộc về người dân, thông qua Quốc hội và HĐND, đồng thời, các chủ thể này phải chịu trách nhiệm trước người dân. Việc người dân tham gia chính quyền được phản ánh gián tiếp thông qua Điều 23, theo đó, không phân biệt, từ đủ mười tám tuổi công dân Việt Nam có quyền bầu cử, ứng cử khi đủ hai mốt tuổi. Hoặc tại Điều 29 quy định về quyền khiếu nại cơ quan công quyền và phải được nhà nước giải quyết, nếu bị thiệt hại thì có quyền được bồi thường.  Như vậy, trong Hiến pháp 1959 không quy định cụ thể về các hình thức thực hiện dân chủ nhân dân, các điều kiện thực sự để bảo đảm tính khả thi. Nên các kết quả đạt được về thực thi dân chủ, trong đó có sự tham gia của người dân vào lĩnh vực công hay khu vực ngân sách là hạn chế. Tính cá thể hóa, các quyền cơ bản và dân chủ trong các lĩnh vực kinh tế không có vì nhà nước chỉ thừa nhận sở hữu tập thể: Nhà nước nghiêm cấm việc lợi dụng tài sản tư hữu để làm rối loạn sinh hoạt kinh tế của xã hội, phá hoại kế hoạch kinh tế Nhà nước (Điều 17 Hiến pháp 1959). Do vậy, so với Hiến pháp 1946, sự tham gia của người dân trong giai đoạn này có sự tương đồng là quyền con người và quyền công dân vẫn không tách rời mà được ghi nhận chung. Sự khác biệt mà chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy đó là không khuyến khích sự tham gia trực tiếp, bởi sự tham gia trực tiếp dựa trên những yếu tố mang tính cá thể như Hiến pháp 1946 đã chỉ rõ, đó là “tài năng và đức hạnh”. Sự khác biệt này, có thể xuất phát từ bối cảnh chưa thống nhất, sự độc lập chưa trọn vẹn, vì thế, hoàn cảnh thực tế và đòi hỏi của thực tiễn là cần một sự nhất trí ở mức độ cao, việc tham gia vào tập thể, được đại diện bởi các cử tri trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước được ưu tiên cũng là điều có thể giải thích được trong bối cảnh lịch sử của Hiến pháp 1959. 3.2.3. Theo Hiến pháp 1980 Một điểm nổi bật trong Hiến pháp 1980 so với  Hiến pháp 1946 và Hiến pháp 1959 được quy định tại Điều 12: “Nhà nước quản lý xã hội theo pháp luật và không ngừng tăng cường pháp chế XHCN”. Đây là một bước chuyển giao về nhận thức của ĐCSVN và Nhà nước Việt Nam. Liên quan đến sự tham gia, sự chuyển đổi nhận thức này là tiền đề để các hình thức dân chủ trực tiếp phát triển hơn nữa, bởi vì pháp luật chính là một công cụ quan trọng nhất, bảo đảm thực thi trên thực tế các quyền tham gia của người dân trở nên hợp pháp.  Theo (Đỗ Ngọc Hải, 2006) nguyên tắc pháp chế XHCN áp dụng tại Việt Nam trong thời gian này được cấu tạo bởi 4 nhân tố, gồm: tính thống nhất; tính hợp lý; tính  không có ngoại lệ; tính liên quan giữa pháp chế và văn hóa và cuối cùng nhưng đặc biệt quan trọng là tính gắn liền với dân chủ. Thuộc tính gắn liền với dân chủ thể hiện nội dung căn bản như mọi công dân đều có quyền bình đẳng khi tham gia quản lý và tham gia công việc của nhà nước, dân chủ là chế độ chính trị của nhà nước XHCN với sự tham gia đông đảo của quần chúng nhân dân lao động vào công việc nhà nước, dân chủ có mối quan hệ không tách rời, với pháp chế xã hội chủ nghĩa, không thể có dân chủ chân chính bên ngoài xã hội chủ nghĩa. Ghi nhận tại Điều 12 là cơ sở để sự tham gia quản lý công việc của nhà nước được quy định tại  Điều 56 về quyền tham gia quản lý công việc của nhà nước, khái niệm về sự tham gia đã được ghi nhận lại như một sự kế thừa Hiến pháp 1946, ngoài ra, thời điểm này, Hiến pháp 1980 khi quy định về sự tham gia của người dân có thêm một bước tiến mới đó là quy định thêm quyền tự do lập hội bên cạnh các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí như Hiến pháp 1946 và Hiến pháp 1959, tự do lập hội thể hiện tầm nhìn đầy đủ hơn của các nhà lập hiến ở Việt Nam  đối với vấn đề tham gia của người dân, bởi vì, điều kiện để phát triển của sự tham gia đó chính là sự tồn tại của các tổ chức như tổ chức chính trị xã hội; các tổ chức dân sự... Hiến pháp 1980 đã tạo thêm các điều kiện thuận lợi cho sự tham gia được phát triển một cách chính danh trong hệ thống pháp luật của Việt Nam. Tuy nhiên, vào những năm 1986, Việt Nam phải đối diện với một cuộc khủng hoảng toàn diện. Nguyên nhân được chỉ ra gồm các yếu tố như: sự suy yếu dẫn đến sụp đổ của hệ thống các nước XHCN là nhân tố bên ngoài, nhưng những nhân tố nội tại có thể kể đến từ nhiều nguyên nhân khác nhau đã được chứng minh và đánh giá nhưng có lẽ chủ yếu đến từ sự không phù hợp của thể chế,  pháp luật mang tính hình thức, không có tính khả thi, cấu trúc bộ máy và các quy định pháp lý xã hội chủ nghĩa dập khuôn, bỏ qua sự tương thích của môi trường/ hiện trạng kinh tế - xã hội nội tại là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến khủng hoảng.  Trong bối cảnh đó, sự tham gia của người dân, dù được quy định trong văn bản pháp luật, song thực tế triển khai còn hạn chế, như (Phạm Văn Đức, 2017, trang 63 – 64) đã nhận định: dân chủ không thực chất dẫn đến làm chủ tập thể không thực hiện được, bị biến dạng thành vô chủ, quan liêu hóa, hành chính hóa nặng nề. Từ đó, kìm hãm sự phát triển. Đất nước lâm vào khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng, đời sống nhân dân sa sút cả về vật chất lẫn tinh thần.  3.2.4. Theo Hiến pháp 1992 (sửa đổi năm 2001) Sau 6 năm tiến hành Đổi Mới, bắt đầu từ Đại Hội Đảng lần 6 năm 1986, Việt Nam tiến hành sửa đổi hiến pháp lần thứ 4, đó là Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp đầu tiên của tiến trình Đổi Mới. Liên quan đến sự tham gia của người dân, trong lần sửa đổi hiến pháp này, một số quan điểm và tư tưởng vẫn được kế thừa và duy trì, cụ thể như việc kế thừa tư duy về quyền con người và quyền cơ bản của công dân không tách rời. Sự tham gia của công dân dù không còn được tuyên bố là dân chủ XHCN và làm chủ tập thể như trước đây nhưng về cơ bản, việc thừa nhận và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa tại Điều 12 vẫn cho thấy quan điểm rất rõ là nhà nước khuyến khích các quyền dân chủ nhân dân được đặt trong một khuôn khổ hoặc dưới một tổ chức hoặc cộng đồng nhất định, cụ thể là các tổ chức chính trị - xã hội như MTTQ là một ví dụ.  Tuy nhiên, dưới tác động của Đổi Mới, cùng với những thiết chế được ban hành trước khi Hiến pháp 1992 được công bố để phục vụ phát triển kinh tế đặc biệt là các bộ luật để phục vụ  thu hút hoạt động đầu tư nước ngoài, mà nội dung của những bộ luật này, chịu sự tác động và ảnh hưởng mạnh mẽ của pháp luật ở các nước phát triển, vốn coi pháp luật là công cụ để phát triển kinh tế và trong quá trình phát triển kinh tế, con người phải được đặt vào trọng tâm, sự phát triển của con người là trung tâm của mọi chiến lược phát triển. Vì thế, các chương trình phát triển cũng như các tổ chức quốc tế như WB, OECD, UNDP…và các quốc gia có nhu cầu mở rộng thị trường đã tiên phong xây dựng các bộ nguyên tắc trong quản trị, và đặt vào trong đó, những quyền căn bản của con người như quyền được thông tin; quyền được tham gia và nhà nước có trách nhiệm công khai, minh bạch và có nghĩa vụ phải giải trình. Chính vì thế, pháp luật phục vụ thu hút đầu tư và phục vụ mục đích phát triển kinh tế của Việt Nam thời kỳ sau Đổi Mới chịu sự ảnh hưởng của tư tưởng hội nhập, xây dựng pháp luật để thúc đẩy phát triển. Các quy định liên quan đến quyền tham gia của người dân trong Hiến pháp 1992 đã khẳng định điều này. Cụ thể: Thứ nhất, sự tham gia trong Hiến pháp cho thấy tư duy về phân cấp phân quyền đã bắt đầu và trở nên mạnh mẽ, tại Điều 11 ghi nhận công dân tham gia công việc của nhà nước đồng nghĩa là thực hiện quyền làm chủ của mình. Phạm vi tham gia trong Hiến pháp 1992 chỉ rõ người dân có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội nhưng ở cấp cơ sở. Phân cấp được định dạng rõ hơn trong Điều 56, khi quy định rằng quyền quản lý nhà nước và xã hội của công dân, có quyền thảo luận vấn đề chung, quyền được biểu quyết khi NN trưng cầu dân ý, như vậy, sự tham gia quản lý nhà nước và xã hội vẫn được quy định, nhưng khi nằm trong phạm vi cấp chính quyền, thì sự tham gia được “khoanh vùng” rất rõ. Sự tham gia vào công việc ở cấp cơ sở và những công việc này có thể nhiều loại nhưng trong đó có ảnh hưởng đến đời sống của công dân và cộng đồng. Ở cấp độ trung ương và địa phương, sự tham gia chỉ dừng lại ở mức độ được thảo luận hoặc được tham vấn, tức là mức độ thấp nhất. Thứ hai, Hiến pháp 1992 vẫn kế thừa các điều kiện để tham gia hiệu quả liên quan đến các quyền tự do về ngôn luận, báo chí hoặc hội họp hoặc lập hội…nhưng có sự ảnh hưởng mạnh từ hệ thống pháp luật Luật và phát triển. Cụ thể, khi quy định công dân “có quyền được thông tin” tại Điều 69 cùng với các quyền về tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội họp… đã khẳng định điều này.  Thứ ba, việc quy định về sự tham gia trong Hiến pháp 1992 và “khoanh vùng” tham gia ở cấp cơ sở đã gián tiếp chứng minh sự ảnh hưởng của quan điểm: pháp luật là công cụ phục vụ phát triển kinh tế nhưng người dân và doanh nghiệp được đặt là trọng tâm, bởi vì, để thu hút doanh nghiệp đầu tư vào Việt Nam, các thông tin liên quan đến các thủ tục hành chính, mối quan hệ giữa nhà nước và người dân và doanh nghiệp cần được minh bạch, cần được công khai…đồng thời đáp ứng kịp thời quá trình chuyển đổi và phân cấp và phân quyền của Việt Nam trong thời gian này. Tạo điều kiện cho địa phương quyền chủ động cũng như khả năng cạnh tranh bằng con đường cải cách hành chính, và vì tiếp cận thông tin là quyền của công dân thì đồng thời cung cấp thông tin, công khai thông tin, minh bạch thông tin, trách nhiệm giải trình lại trở thành nghĩa vụ của nhà nước. Năm 2001, trước sức ép ngày càng mạnh mẽ của quá trình hội nhập, Hiến pháp 1992 tiếp tục được sửa đổi. Điểm mới nhất và quan trọng nhất được quy định tại Điều 2. Cụ thể như sau: “Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Tuyên bố Việt Nam là nhà nước theo chế độ pháp quyền XHCN, trong đó, quyền lực nhà nước có sự phân công thành các khối lập pháp, hành pháp và tư pháp đã chứng minh sự đổi mới sâu sắc của Việt Nam dưới góc nhìn thể chế. Liên quan đến sự tham gia của người dân nói chung và sự tham gia của người dân vào quy trình ngân sách nói riêng, dự báo sẽ có những đột phá mới, xuất phát từ những lý do sau đây: Thứ nhất, nhà nước được xây dựng theo chế độ pháp quyền là nhà nước lấy quyền lực nhân dân làm nền tảng cho toàn bộ hoạt động và tổ chức, trong đó, các quyền cơ bản của nhân dân được ghi nhận, tôn trọng và bảo đảm thực hiện. Trong đó, quyền tham gia của người dân nói chung và tham gia vào quy trình ngân sách nói riêng là quyền tự do quan trọng và căn bản nhất. Thứ hai, quy định tại Điều 2 Hiến pháp 1992 (sửa đổi 2001) cho thấy quan điểm mới của VN về mối quan hệ giữa nhà nước với người dân. Theo đó, người dân được mở rộng quyền tới mức người dân được làm tất cả những gì mà pháp luật không cấm, đổi lại, khu vực nhà nước “chỉ được làm những gì mà pháp luật cho phép”. Thứ ba, tuyên bố Việt Nam là nhà nước pháp quyền XHCN, dự báo sự đổi mới ngày càng sâu sắc của quốc gia ở tất cả các lĩnh vực, đặc biệt là thể chế. Tuy nhiên, chính khái niệm “pháp quyền XHCN” cũng khẳng định một sự linh hoạt và uyển chuyển trong chiến lược phát triển của Việt Nam. Theo đó, nền tảng pháp luật XHCN vẫn được giữ lại như một trục chính vững chắc, dựa trên đó, các thiết chế pháp luật mới được cài đặt vào đó, tạo thành các khung định hướng cho thị trường tạo nền cho sự phát triển kinh tế. Cũng chính từ những thay đổi của thị trường đã dần dà kéo theo sự thay đổi thực sự mối quan hệ giữa nhà nước với người dân. Như vậy, so với sự tham gia được quy định trong các bản hiến pháp trước thời kỳ Đổi Mới, gồm Hiến pháp 1959 và Hiến pháp 1980 thì sự tham gia trong Hiến pháp 1992 (sửa đổi năm 2001) đã có thay đổi đáng kể. Mặc dù vẫn dựa trên nền tảng pháp luật XHCN nhưng có chuyển biến tích cực tới quyền tham gia của người dân. Ghi nhận này đánh dấu sự khởi đầu cho những chuyển đổi mạnh mẽ sau này của Việt Nam, đặc biệt dưới góc độ của thể chế. 3.2.5. Theo Hiến pháp 2013 Sau Đại hội Đảng lần thứ XI, Việt Nam tiến hành sửa đổi Hiến pháp lần 5, đó là Hiến pháp 2013. Liên quan đến quyền tham gia của người dân, Hiến pháp lần này ghi nhận rõ ràng, đầy đủ nhưng đồng thời cũng thể hiện sự uyển chuyển, linh hoạt trong hội nhập toàn cầu nhưng đồng thời kiên quyết giữ lại truyền thống pháp luật xã hội chủ nghĩa mang bản sắc riêng, đó là hệ thống pháp luật pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Cụ thể như sau: Thứ nhất, khẳng định Việt Nam là nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân tại khoản 1 Điều 2 cho thấy rằng, sự nhất quán cao trong việc xây dựng nhà nước theo hình thức dân chủ, bởi vì toàn bộ hệ thống thể chế được kiến tạo trên nền tảng quyền lực nhân dân, và nhà nước pháp quyền chính là một bảo đảm để các quyền tự do của người dân được tôn trọng và bảo đảm thực hiện. Việc khẳng định chắc chắn về nhà nước pháp quyền XHCN cho thấy sự đổi mới về mối quan hệ giữa nhà nước với người dân, nó dự báo về không gian dành cho các quyền cơ bản của người dân sẽ được quy định cụ thể hơn, rõ hơn với phạm vi rộng rãi hơn, đặc biệt là quyền tham gia của người dân trong khu vực công và cả lĩnh vực vốn có truyền thống khép kín như là ngân sách nhà nước. Tuy nhiên, nhà nước pháp quyền ở Việt Nam là nhà nước pháp quyền XHCN, và vì thế, nó mang bản chất pháp luật của pháp luật XHCN, trên đó, các lớp luật toàn cầu được cấy ghép một cách linh hoạt để tương thích với xu thế toàn cầu và chiến lược hội nhập ngày càng sâu sắc, nhưng trụ đỡ căn bản cho các thiết chế mang dáng dấp pháp luật toàn cầu lại chính là hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa. Điều này thể hiện ở việc các quyền con người và quyền công dân được tách khá độc lập thành những điều luật riêng trong Hiến pháp 2013 và nhà nước vẫn luôn tôn trọng việc tham gia quản lý nhà nước và xã hội của người dân nhưng khuyến khích tham gia thông qua các tổ chức và đoàn thể được tổ chức hợp pháp, đặc biệt là các tổ chức chính trị; chính trị xã hội; nghề nghiệp nằm trong hệ thống của bộ máy nhà nước. Thứ hai, sự uyển chuyển và linh hoạt tiếp nhận các làn sóng pháp luật mới khi hội nhập được thể hiện tại Điều 6 khi Hiến pháp 2013 lần đầu tiên chỉ rõ cơ chế tham gia của người dân có thể lựa chọn đó là dân chủ trực tiếp hoặc dân chủ gián tiếp. Trong các bản hiến pháp trước đây, khái niệm dân chủ được quy định khái quát và chung chung, tuy nhiên, lần này, Hiến pháp 2013 đã tách bạch rõ dân chủ trực tiếp và dân chủ  gián tiếp. Đây là một bước tiến mới, một sự bứt phá để pháp luật của Việt Nam phù hợp và tương thích với thông lệ quốc tế. Bởi vì, sự tham gia của người dân được thế giới đồng thuận công nhận là một hình thức dân chủ trực tiếp của người dân.  Thứ ba, việc định dạng rõ dân chủ trực tiếp và gián tiếp làm căn cứ để lần đầu tiên trong hiến pháp của Việt Nam, các quyền con người và quyền cơ bản của công dân được tách bạch thay vì được gộp lại như những bản Hiến pháp trước đây. Tại Chương II của Hiến pháp 2013, các quyền con người và quyền công dân được khéo léo ghi nhận, trong đó, quyền tham gia của người dân trong khu vực công được quy định tại Điều 28. Cụ thể tại khoản 1 như sau: “Công dân có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận và kiến nghị với cơ quan nhà nước về các vấn đề của cơ sở, địa phương và cả nước”.  Như vậy, so với Điều 56 Hiến pháp 1992, sự tham gia của người dân vào quản lý nhà nước có một số thay đổi, đó là, Hiến pháp 2013 mặc dù vẫn ghi nhận sự tham gia của người dân trong quản lý nhà nước và xã hội vẫn chỉ dừng lại ở mức độ được kiến nghị và thảo luận nhưng có sự phân bậc rõ ràng khi tham gia vào quản lý nhà nước và xã hội trong cấu trúc bộ máy nhà nước, thể hiện sự phân cấp ngày càng rõ cũng như phương pháp quản trị áp dụng mô hình từ dưới lên, bắt đầu từ cấp cơ sở, sau đó đến địa phương và trên cùng là phạm vi cả nước, khía cạnh “cả nước” thể hiện hai nghĩa, đó là sự tham gia ở cấp trung ương vì thẩm quyền của những cơ quan nhà nước có thể tác động tới phạm vi cả nước, thứ hai, tức là người dân có thể tham gia vào khu vực công, ngay cả đối với quy trình ngân sách nhà nước ở các địa phương khác chứ không chỉ khoanh vùng trong phạm vi địa giới hành chính của địa phương mình. Tại khoản 2 Điều 28 Hiến pháp 2013 thể hiện cam kết của nhà nước về mối quan hệ giữa nhà nước và công dân khi ghi nhận rằng công dân được khuyến khích tham gia quản lý nhà nước, đồng thời, nhà nước cần phải minh bạch khi nhận hoặc phản hồi ý kiến, kiến nghị của người dân. Không những thế, đây là sự ghi nhận lại nhằm thể hiện để chứng minh rằng Việt Nam là nhà nước pháp quyền, vì thế, các quyền cơ bản của công dân đều được cam kết tôn trọng và bảo đảm thực hiện và quá trình này yêu cầu phải công khai và minh bạch.  Sự tham gia của người dân trước tiên là một quyền con người căn bản. Nhưng ở Việt Nam, quyền này được định hình là một quyền cơ bản của công dân. Như vậy, về lý thuyết, có một độ chênh giữa pháp luật quốc gia với pháp luật quốc tế về quyền con người. Tất nhiên, các nguyên tắc áp dụng quyền con người có tính phổ biến nhưng cũng có tính đặc thù, việc áp dụng quyền con người phụ thuộc vào nhiều nhân tố của quốc gia áp dụng. Vì vậy, khi Việt Nam đặt quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội của người dân thành một quyền cơ bản của công dân có nghĩa là quyền này sẽ được thực hiện phụ thuộc vào quan điểm của nhà nước Việt Nam ở mỗi một giai đoạn lịch sử nhất định.  Độ chênh giữa pháp luật quốc gia với pháp luật quốc tế về quyền tham gia của người dân đã tạo nên những đặc trưng căn bản về quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội trong đó có quyền tham gia vào quy trình ngân sách của người dân tại Việt Nam, nhân tố quan trọng này sẽ quyết định tới bản chất, nội dung, các cơ chế, các hình thức và phạm vi tham gia của người dân vào quy trình ngân sách nhà nước ở Việt Nam. Cụ thể, nhà nước đã định hình sẵn về các mức độ tham gia đó là kiến nghị và thảo luận chứ không được áp dụng các nấc thang của sự tham gia như thông lệ của pháp luật quốc tế. Thứ tư, sự tương thích pháp lý phù hợp với hệ thống pháp luật toàn cầu còn được thể hiện tại Điều 25 Hiến pháp 2013 liên quan đến sự tham gia của người dân, đó là thay vì được quy định công dân có quyền được thông tin như trước đây thì thay vào đó quyền này được địnhh nghĩa lại thành “quyền tiếp cận thông tin”, thể hiện sự chủ động hơn cho người dân khi muốn khai thác thông tin để tham gia hiệu quả. Như đã trình bày ở phần trên, thông tin là một nhân tố quan trọng tác động tới hiệu quả của quá trình tham gia, các chủ thể tham gia chỉ có thể đưa ra được ý kiến hoặc quyết định tới vấn đề khi họ có đầy đủ thông tin. Việc cung cấp thông tin là trách nhiệm của nhà nước khi nhà nước phải có nghĩa vụ minh bạch và công khai hoạt động quả lý. Quyền tiếp cận thông tin cũng gián tiếp cho chúng ta thấy trách nhiệm công khai và minh bạch thông tin từ phía nhà nước, bởi vì, chỉ khi thông tin sẵn có và dễ dàng truy cập thì mới có thể tiếp cận thông tin trong thực tế. Sự quy định này hoàn toàn phù hợp với thông lệ quốc tế về các nguyên tắc quản trị tốt. Như vậy, Hiến pháp 2013 đã thể hiện rõ nét quan điểm của Việt Nam về đường lối và định hướng phát triển thông qua việc quy định các quyền con người và các quyền cơ bản của công dân. Theo đó, sự linh hoạt trong việc tiếp cận pháp luật quốc tế để đổi mới và kiến tạo quốc gia đã được thể hiện trong việc tách bạch quyền con người với quyền công dân, nhà nước có nghĩa vụ cung cấp các điều kiện và đảm bảo các quyền đó được thực thi trong thực tế. Tuy nhiên, sự khoanh vùng và giới hạn quyền tham gia của người dân vào khu vực công nói chung và vào quy trình ngân sách nhà nước nói riêng vẫn từng bước được cân nhắc và thận trọng. Sự tham gia trong Hiến pháp 2013 mới chỉ dừng lại ở những mức độ đầu tiên và nhà nước không khuyến khích sự tham gia có tính cá thể mà ủng hộ sự tham gia quy trình được vận hành trong những tổ chức thuộc bộ máy nhà nước. Quy định này được thể hiện rõ trong Điều 16 của Luật Ngân sách nhà nước 2015 là một minh chứng rất rõ về thái độ kiên quyết giữ lại nền tảng pháp luật chủ nghĩa nhưng không rập khuôn mà có thể uyển chuyển linh hoạt để thể chế cũng như quyền tham gia mang bản sắc XHCN Việt Nam một cách đặc trưng và riêng biệt. 3.3. Thực trạng quy định pháp luật về sự tham gia của người dân vào quy trình ngân sách nhà nước Sự tham gia của người dân vào quy trình ngân sách được quy định khá phân tán bởi nhiều văn bản pháp luật khác nhau, trong đó có pháp luật thực hiện dân chủ cơ sở, pháp luật ngân sách, pháp luật đầu tư, pháp luật quản lý tài sản công, pháp luật thanh tra, pháp luật về tổ chức và hoạt động của chính quyền các cấp và Mặt trận tổ quốc. Với các mức độ tham gia cụ thể như sau: 3.3.1. Được biết thông tin về ngân sách nhà nước. Quyền tham gia của người dân nói chung, ngân sách nhà nước nói riêng ở Việt Nam hiện được quy định đầy đủ nhất tại cấp cơ sở dưới tên gọi “thực hiện dân chủ”, trước đây được điều chỉnh bởi Pháp lệnh số 34, mới đây được xây dựng thành Luật Thực hành dân chủ ở cơ sở năm 2022. Theo đó, quyền tham gia được ghi nhận với các mức độ gồm: Được biết thông tin thể hiện với quy định là Công khai ngân sách nhà nước; Nhân dân bàn và quyết định; Nhân dân tham gia ý kiến; Nhân dân kiểm tra giám sát. trong đó có lĩnh vưc ngân sách được sửa đổi và ghi nhận khá cụ thể. Đối với mức độ thấp nhất, được biết thông tin về ngân sách được quy định dưới tên gọi: Công khai ngân sách. Cụ thể như sau:  Theo quy định chung tại điểm a khoản 1 Điều 15 Luật Ngân sách nhà nước 2015, người dân được biết thông tin về ngân sách nước khi nhà nước công khai, với các nội dung chủ yếu gồm: Dự toán ngân sách nhà nước trình Quốc hội, Hội đồng nhân dân; dự toán ngân sách nhà nước đã được cấp có thẩm quyền quyết định; báo cáo tình hình thực hiện ngân sách nhà nước; quyết toán ngân sách nhà nước được Quốc hội, Hội đồng nhân dân phê chuẩn; dự toán, tình hình thực hiện, quyết toán ngân sách của các đơn vị dự toán ngân sách, các tổ chức được ngân sách nhà nước hỗ trợ và các chương trình, dự án đầu tư xây dựng cơ bản sử dụng vốn ngân sách nhà nước.  Theo quy định này, ngân sách nhà nước được công khai được phân loại thành những nội dung khác nhau: Thứ nhất là công khai ngân sách của các cấp ngân sách; Thứ hai là công khai ngân sách của các đơn vị dự toán, các tổ chức được ngân sách nhà nước tài trợ; Thứ ba là các chương trình, dự án đầu tư xây dựng cơ bản sử dụng vốn ngân sách nhà nước. Cụ thể như sau: Thứ nhất, đối với các cấp ngân sách nhà nước - Ngân sách trung ương, căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 15 Luật Ngân sách nhà nước 2015, Bộ Tài chính ban hành Thông tư số 343/2016/TT-BTC Hướng dẫn thực hiện công khai ngân sách nhà nước đối với các cấp ngân sách nhà nước (Thông tư 343/2016), có bốn nội dung ngân sách trung ương phải công khai gồm: 1, Công khai chỉ tiêu, biểu mẫu, thuyết minh làm căn cứ trình Quốc hội quyết định dự toán ngân sách nhà nước và phân bổ ngân sách trung ương 2, Công khai số liệu dự toán ngân sách nhà nước và phân bổ ngân sách trung ương đã được Quốc hội quyết định; 3, Công khai số liệu và thuyết minh tình hình thực hiện dự toán ngân sách nhà nước quý (06 tháng, năm) đã được báo cáo Chính phủ; 4, Công khai số liệu và thuyết minh quyết toán ngân sách nhà nước đã được Quốc hội phê chuẩn. Đối với ngân sách cấp tỉnh, theo Điều 7 Thông tư 343/2016, bốn nội dung ngân sách cần phải công khai gồm: 1, Công khai chỉ tiêu, biểu mẫu, thuyết minh làm căn cứ trình Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định dự toán ngân sách địa phương và phân bổ ngân sách cấp tỉnh; 2, Công khai số liệu dự toán ngân sách địa phương và phân bổ ngân sách cấp tỉnh đã được Hội đồng nhân dân quyết định; 3, Công khai số liệu và thuyết minh tình hình thực hiện dự toán ngân sách địa phương quý (06 tháng, năm) đã được báo cáo Ủy ban nhân dân cấp tỉnh; 4, Công khai số liệu và thuyết minh quyết toán ngân sách địa phương đã được Hội đồng nhân dân cấp tỉnh phê chuẩn. Đối với ngân sách cấp huyện, theo Điều 11 Thông tư 343/2016, bốn nội dung ngân sách cần phải công khai gồm: 1, Công khai chỉ tiêu, biểu mẫu, thuyết minh làm căn cứ trình Hội đồng nhân dân cấp huyện quyết định dự toán ngân sách huyện và phân bổ ngân sách cấp huyện; 2, Công khai số liệu dự toán ngân sách huyện và phân bổ ngân sách cấp huyện đã được Hội đồng nhân dân cấp huyện quyết định; 3, Công khai số liệu và thuyết minh tình hình thực hiện dự toán ngân sách huyện quý (06 tháng, năm) đã được báo cáo Ủy ban nhân dân cấp huyện; 4, Công khai số liệu và thuyết minh quyết toán ngân sách huyện đã được Hội đồng nhân dân cấp huyện phê chuẩn. Đối với ngân sách cấp xã, theo Điều 15 Thông tư 343/2016, bốn nội dung ngân sách cần phải công khai gồm: 1, Công khai chỉ tiêu, biểu mẫu và thuyết minh làm căn cứ trình Hội đồng nhân dân cấp xã quyết định dự toán ngân sách xã và kế hoạch hoạt động tài chính khác ở xã; 2, Công khai số liệu dự toán ngân sách xã và kế hoạch hoạt động tài chính khác ở xã đã được Hội đồng nhân dân cấp xã quyết định; 3, Công khai số liệu và thuyết minh tình hình thực hiện dự toán ngân sách xã quý (06 tháng, năm); 4, Công khai quyết toán ngân sách xã và kết quả thực hiện các hoạt động tài chính khác ở xã đã được Hội đồng nhân dân cấp xã phê chuẩn. Về hình thức công khai của các cấp ngân sách nhà nước: Hiện được quy định chung tại điểm b khoản 1 Điều 15 Luật Ngân sách nhà nước 2015 gồm: công bố tại kỳ họp, niêm yết tại trụ sở làm việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị; phát hành ấn phẩm; thông báo bằng văn bản đến các cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có liên quan; đưa lên trang thông tin điện tử; thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng. Phụ thuộc vào từng cấp ngân sách mà hình thức công khai có sự điều chỉnh cho phù hợp, tuy nhiên, với ngân sách cấp trung ương thì hình thức bắt buộc là công bố trên Cổng thông tin điện tử của Bộ Tài chính, đối với cấp tỉnh hình thức bắt buộc là công bố trên Cổng/Trang thông tin điện tử của Ủy ban nhân dân tỉnh và Cổng/Trang thông tin điện tử của Sở Tài chính, đối với cấp huyện hình thức công khai bắt buộc là thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng, niêm yết tại trụ sở Ủy ban nhân dân huyện ít nhất là 30 ngày. Đối với cấp xã, hiện được điều chỉnh đồng thời bởi nhiều quy định khác nhau, theo đó, tại Thông tư số 343/2016 thì quy định, đối với công khai chỉ tiêu, biểu mẫu và thuyết minh làm căn cứ trình Hội đồng nhân dân cấp xã quyết định dự toán ngân sách xã và kế hoạch hoạt động tài chính khác ở xã và công khai số liệu và thuyết minh tình hình thực hiện dự toán ngân sách xã quý (06 tháng, năm) thì hình thức công khai áp dụng là niêm yết công khai tại trụ sở Ủy ban nhân dân cấp xã ít nhất trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày niêm yết; thông báo trên hệ thống truyền thanh của xã (nếu xã có hệ thống truyền thanh). Đối với công khai số liệu dự toán ngân sách xã và kế hoạch hoạt động tài chính khác ở xã đã được Hội đồng nhân dân cấp xã quyết định và công khai quyết toán ngân sách xã và kết quả thực hiện các hoạt động tài chính khác ở xã đã được Hội đồng nhân dân cấp xã phê chuẩn) thì hình thức công khai là niêm yết công khai tại trụ sở Ủy ban nhân dân cấp xã ít nhất trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày niêm yết; thông báo trên hệ thống truyền thanh của xã (nếu xã có hệ thống truyền thanh); thông báo bằng văn bản cho Đảng ủy, các tổ chức chính trị - xã hội ở xã và trưởng các thôn, làng, ấp, bản, buôn, sóc ở xã và tổ dân phố ở phường, thị trấn. Cùng là nội dung về công khai ngân sách nhà nước tại cấp xã, tại Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở thống nhất bốn nội dung cần phải công khai theo Thông tư số 343/2016 đồng thời bổ sung thêm nội dung kết quả thực hiện các kiến nghị của Kiểm toán nhà nước (nếu có) (Khoản 2 Điều 11 Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở). Tương ứng với các nội dung này, các hình thức công khai bắt buộc là đăng tải trên trang thông tin điện tử, cổng thông tin điện tử của chính quyền địa phương tại nơi đã thiết lập trang thông tin điện tử, cổng thông tin điện tử. Song song với hình thức này, UBND cấp xã phải có trách nhiệm niêm yết thông tin tại trụ sở Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân cấp xã, tại nhà văn hóa và các điểm sinh hoạt cộng đồng ở thôn, tổ dân phố. Về  thời điểm công khai: Phụ thuộc vào từng nội dung công khai ngân sách pháp luật quy định cụ thể về thời gian công khai. Đối với dự thảo dự toán trình cơ quan quyền lực của Chính phủ và UBND thì thời điểm công khai là 05 ngày làm việc kể từ ngày Chính phủ hoặc UBND trình cơ quan quyền lực nhà nước. Đối với dự toán và quyết toán ngân sách được thông qua, thời điểm công khai chậm nhất là 30 ngày kể từ ngày văn bản được ban hành. Báo cáo tình hình thực hiện dự toán ngân sách nhà nước hằng quý, 06 tháng phải được công khai chậm nhất là 15 ngày, kể từ ngày kết thúc quý và 06 tháng. Báo cáo tình hình thực hiện ngân sách nhà nước hằng năm được công khai khi Chính phủ trình Quốc hội UBND trình HĐND. Về chủ thể chịu trách nhiệm công khai: được giao cho cơ quan tài chính trung ương và địa phương, đối với cấp xã giao UBND mà cụ thể là Chủ tịch UBND cấp xã chịu trách nhiệm công khai. Thứ hai, đối với đơn vị dự toán ngân sách, tổ chức được ngân sách nhà nước hỗ trợ Về nội dung công khai Dựa vào Điều 15 Luật Ngân sách nhà nước 2015, Bộ Tài chính ban hành Thông tư số 61/2017/TT-BTC Hướng dẫn công khai ngân sách đối với đơn vị dự toán ngân sách, tổ chức được ngân sách nhà nước hỗ trợ. Theo đó, các chủ thể trên phải công khai các nội dung gồm: Dự toán ngân sách; Số liệu và thuyết minh tình hình thực hiện dự toán ngân sách nhà nước (quý, 6 tháng, năm) và Công khai quyết toán ngân sách nhà nước. Đối với tổ chức được ngân sách nhà nước hỗ trợ cần phải công khai kinh phí ngân sách nhà nước hỗ trợ; Công khai số liệu và thuyết minh tình hình thực hiện dự toán ngân sách nhà nước hỗ trợ (quý, 6 tháng, năm); Công khai quyết toán ngân sách nhà nước hỗ trợ Về chủ thể chịu trách nhiệm công khai: thuộc về Thủ trưởng đơn vị dự toán chịu trách nhiệm thực hiện công khai; Thủ trưởng tổ chức được ngân sách nhà nước hỗ trợ chịu trách nhiệm thực hiện công khai. Về hình thức công khai: được thực hiện bằng một hoặc một số hình thức quy định tại điểm b khoản 1 Điều 15 của Luật Ngân sách nhà nước, đối với đơn vị có Cổng thông tin điện tử thì phải thực hiện công khai ngân sách qua Cổng thông tin điện tử của đơn vị mình. Về thời điểm công khai: Đối với báo cáo dự toán ngân sách nhà nước phải được công khai chậm nhất là 15 ngày, kể từ ngày được đơn vị dự toán cấp trên hoặc cấp có thẩm quyền giao đầu năm và điều chỉnh giảm hoặc bổ sung trong năm (nếu có). Tổ chức được ngân sách nhà nước hỗ trợ phải côn khai là 15 ngày kể từ ngày được tổ chức cấp trên hoặc cấp có thẩm quyền giao đầu năm và điều chỉnh giảm hoặc bổ sung trong năm (nếu có) ; Đối với báo cáo tình hình thực hiện dự toán ngân sách nhà nước hằng quý, 6 tháng phải được công khai chậm nhất là 15 ngày, kể từ ngày kết thúc quý và 06 tháng. Đối với báo cáo tình hình thực hiện ngân sách nhà nước hàng năm được công khai chậm nhất là 05 ngày làm việc, kể từ ngày đơn vị báo cáo đơn vị dự toán cấp trên trực tiếp. Và đối với báo cáo quyết toán ngân sách nhà nước phải được công khai chậm nhất là 15 ngày, kể từ ngày được đơn vị dự toán cấp trên hoặc cấp có thẩm quyền phê duyệt. Thứ ba, đối với các chương trình, dự án đầu tư xây dựng cơ bản sử dụng vốn ngân sách nhà nước. Nội dung công khai: Theo quy định tại khoản 1 Điều 15 Luật Ngân sách nhà nước 2015, các chương trình, dự án đầu tư xây dựng cơ bản sử dụng vốn ngân sách nhà nước được công khai dự toán đã được cấp có thẩm quyền quyết định, tình hình thực hiện ngân sách nhà nước và quyết toán ngân sách nhà nước; kết quả thực hiện các kiến nghị của Kiểm toán nhà nước; trừ số liệu chi tiết, báo cáo thuyết minh thuộc lĩnh vực quốc phòng, an ninh, dự trữ quốc gia. Bên cạnh đó, Luật Tiếp cận thông tin 2016 đồng thời quy định tại Điểm đ khoản 1 Điều 17 về thông tin phải công khai đối với các chương trình, dự án đầu tư xây dựng cơ bản sử dụng vốn ngân sách nhà nước gồm: dự toán, tình hình thực hiện và quyết toán ngân sách. Cụ thể tại Điều 14 Luật Đầu tư công 22019 quy định về các nội dung công khai minh bạch trong đầu tư công gồm 11 nội dung, theo trình tự từ pháp luật đầu tư công cho đến kế hoạch, các nguyên tắc, tình hình  và tiến độ thực hiện cho tới khi quyết toán vốn đầu tư công Hình thức công khai : Được thực hiện theo điểm b khoản 1 Điều 15 Luật Ngân sách nhà nước, bao gồm nhiều hình thức khác nhau: công bố tại kỳ họp, niêm yết tại trụ sở làm việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị; phát hành ấn phẩm; thông báo bằng văn bản đến các cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có liên quan; đưa lên trang thông tin điện tử; thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng. Điểm đ khoản 1 Điều 17 Luật Tiếp cận thông tin bổ sung thêm các hình thức công khai như thông qua việc tiếp công dân, họp báo, thông cáo báo chí, hoạt động của người phát ngôn của cơ quan nhà nước theo quy định của pháp luật; hoặc các hình thức khác thuận lợi cho công dân do cơ quan có trách nhiệm công khai thông tin xác định. Chủ thể công khai đối với các chương trình, dự án đầu tư công theo quy định tại khoản 2 Điều 14 Luât Đầu tư công 2019 do người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị phải thực hiện việc công khai các nội dung đầu tư công theo quy định của pháp luật. Về thời điểm công khai áp dụng theo quy định của pháp luật ngân sách nhà nước, pháp luật về tiếp cận thông tin và Luật Thực hiện dân chủ tại cơ sở. 3.3.2. Được tham vấn ngân sách cùng nhà nước  Về lý thuyết, ở mức độ này, người dân được nhà nước mời tham gia và trả lời các nội dung được thiết kế trước về ngân sách nhà nước. Qua đó, nhà nước hiểu hơn quan điểm cũng như nhận thức của người dân về ngân sách nhà nước. Hiện nay, Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở có giải thích về thuật ngữ dân chủ ở cơ sở trong đó lý giải rằng đó là cách thức để người dân làm chủ thông qua việc thảo luận, tham gia ý kiến, quyết định và kiểm tra, giám sát các vấn đề ở cơ sở theo quy định của Hiến pháp và pháp luật. Qua rà soát và đánh giá các văn bản quy phạm pháp luật liên quan cho thấy, hiện nay, tại Việt Nam chưa quy định về nội dung người dân được tham vấn ngân sách cùng nhà nước. 3.3.3. Thảo luận ngân sách cùng nhà nước  Đây là giai đoạn người dân thể hiện quan điểm của mình về nội dung ngân sách nhà nước hoặc dự án hoặc chương trình có sử dụng ngân sách nhà nước. Quá trình thảo luận ngân sách được nhà nước tổ chức, người dân tham gia với tư cách cá nhân hoặc đại diện hộ gia đình để cung cấp nhu cầu và nó có giá trị cung cấp các phương án như là gợi ý chính sách cho các chủ thể có thẩm quyền trong quá trình ra quyết định về ngân sách nhà nước. Nội dung thảo luận: Qua đánh giá mức độ tham gia này tương ứng với hình thức Tham gia ý kiến, được quy định tại Mục 3 Luật Thực hiện dân chủ tại cơ sở 2022, liên quan đến ngân sách nhà nước được cụ thể như sau: Đối với các cấp ngân sách nhà nước, thảo luận ngân sách cùng nhà nước của người dân chưa được quy định. Đối với các đơn vị dự toán, các tổ chức được ngân sách nhà nước hỗ trợ, hiện pháp luật cũng không quy định về vấn đề thảo luận với người dân. Đối với các chương trình, dự án sử dụng vốn ngân sách nhà nước được quy định về thảo luận với người dân tại khoản 3 Điều 25 Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở 2022, theo đó, phạm vi thảo luận gồm các nội dung về chủ trương, chính sách đầu tư, xây dựng, đất đai, xử lý chất thải và bảo vệ môi trường, đền bù, giải phóng mặt bằng và phương án di dân, tái định canh, định cư đối với việc quyết định đầu tư công dự án quan trọng quốc gia, dự án nhóm A, dự án có quy mô di dân, tái định canh, định cư lớn, dự án có nguy cơ tác động xấu đến môi trường, dự án có ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống kinh tế - xã hội của cộng đồng dân cư nơi thực hiện dự án.  Hình thức thảo luận: Bao gồm các hình thức như: hội nghị trao đổi, đối thoại giữa Ủy ban nhân dân cấp xã với Nhân dân; Tổ chức cuộc họp của cộng đồng dân cư; Phát phiếu lấy ý kiến của hộ gia đình; Thông qua hòm thư­ góp ý, đường dây nóng (nếu có); Thông qua Ban công tác Mặt trận ở thôn, tổ dân phố và các tổ chức chính trị - xã hội ở cơ sở; Thông qua cổng thông tin điện tử, trang thông tin điện tử của chính quyền địa phương cấp xã; Thông qua mạng viễn thông, mạng xã hội hoạt động hợp pháp theo quy định của pháp luật, bảo đảm phù hợp với mức độ ứng dụng công nghệ thông tin tại cấp xã, tại thôn, tổ dân phố. Chủ thể tiến hành thảo luận: UBND cấp xã chịu trách nhiệm lên kế hoạch và tổ chức lấy ý kiến của người dân, quy trình này phải thông báo tới HĐND cùng cấp và MTTQVN cùng cấp. Tại khoản 2 Điều 28 Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở 2022 cũng đồng thời quy định Chủ tịch UBND cấp xã chịu trách nhiệm chỉ đạo việc tiếp nhận, tổng hợp ý kiến, thông tin phản hồi của người dân dân; nghiên cứu tiếp thu, giải trình ý kiến tham gia của người dân về các nội dung thuộc thẩm quyền quyết định của cấp xã để quyết định theo thẩm quyền hoặc báo cáo HĐND, UBND cấp xã quyết định và thực hiện việc công khai kết quả tổng hợp ý kiến của người dân, nội dung giải trình, tiếp thu đến người dân. Việc thảo luận hay còn được quy định là Tham gia ý kiến của người dân liên quan đến ngân sách nhà nước được ghi nhận khá phù hợp và tương thích với các bậc thang tham gia nói chung. Trong trường hợp ý kiến của người tham gia không được sử dụng cho quá trình ra quyết định chính sách, pháp luật cũng ghi nhận về việc chịu trách nhiệm của các chủ thể có thẩm quyền nếu đưa ra phương án và quyết định khác với các ý kiến của đa số người dân. 3.3.4. Thực hiện ngân sách cùng nhà nước Đây là giai đoạn mà nhà nước và công dân trở thành đối tác hợp tác để thực hiện các nội dung về ngân sách, các chương trình hay dự án có sử dụng ngân sách nhà nước. Người dân cùng thực hiện ngân sách nhà nước có nghĩa là họ trở thành một phần của quy trình ngân sách nhà nước, người dân cùng thực hiện và cùng chịu trách nhiệm với nhà nước.  Hiện nay, Luật Ngân sách nhà nước 2015 cùng Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở 2022 và các quy định thuộc các lĩnh vực liên quan như pháp luật về đầu tư, pháp luật về quản lý tài sản công…không quy định rõ về nội dung người dân cùng thực hiện ngân sách với nhà nước. Tuy nhiên, trong thực tế tại Việt Nam hiện nay, thuật ngữ “nhà nước và nhân dân cùng làm” đang được áp dụng ở hầu hết các địa phương đã cho thấy sự tồn tại của mức độ tham gia này nhưng chưa được xây dựng thành luật. Cụ thể Đối với ngân sách nhà nước của các cấp chính quyền không quy định mức độ tham gia này. Đối với các đơn vị dự toán/chương trình được ngân sách nhà nước hỗ trợ vốn không quy định về mức độ tham gia này. Đối với các chương trình/ dự án sử dụng vốn ngân sách nhà nước được quy định cụ thể như sau: Về phạm vi áp dụng: chỉ áp dụng tại chính quyền cấp xã Về mục đích: theo quy định tại Điều 5 Nghị định số 24/1999/NĐ-CP Về việc ban hành quy chế tổ chức huy động, quản lý và sử dụng các khoản đóng góp tự nguyện của nhân dân để xây dựng cơ sở hạ tầng của các xã, thị trấn đã quy định về mục đích huy động nguồn lực của người dân để bổ sung vào vốn đầu tư cho các mục đích xây dựng mới, nâng cấp sửa chữa các công trình cơ sở hạ tầng của xã và công trình cơ sở hạ tầng liên thôn trong xã (gọi chung là công trình cơ sở hạ tầng của xã) gồm: công trình điện, giao thông, trường học, trạm xá xã, các công trình văn hoá, thể thao, hệ thống nước sạch, kênh, mương nội đồng và các công trình công ích khác. Về nội dung ngân sách người dân cùng thực hiện với nhà nước được quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 15 Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở 2022 gồm: (1) Chủ trương và mức đóng góp xây dựng cơ sở hạ tầng, các công trình công cộng trong phạm vi địa bàn cấp xã, ở thôn, tổ dân phố do người dân đóng góp toàn bộ hoặc một phần kinh phí, tài sản, công sức; (2) Việc thu, chi, quản lý các khoản đóng góp của người dân tại cộng đồng dân cư ngoài các khoản đã được pháp luật quy định; việc thu, chi, quản lý các khoản kinh phí, tài sản do cộng đồng dân cư được giao quản lý hoặc được tiếp nhận từ các nguồn thu, tài trợ, ủng hộ hợp pháp khác. Về hình thức tham gia ở mức độ Thực hiện ngân sách cùng nhà nước bao gồm: Tổ chức cuộc họp của cộng đồng dân cư; Phát phiếu lấy ý kiến của từng hộ gia đình; Biểu quyết trực tuyến nếu phù hợp với mức độ ứng dụng công nghệ thông tin và được cộng đồng dân cư thống nhất lựa chọn. UBND cấp xã có thể áp dụng 1 hoặc một số hình thức tham gia dựa vào tình hình thức tế của địa phương. Hình thức đóng góp được quy định gồm: Tiền; Ngày công lao động và hiện vật theo quy định tại Mục I Thông tư số 85/1999/TT-BTC Hướng dẫn thực hiện quy chế tổ chức huy động, quản lý và sử dụng các khoản đóng góp tự nguyện của nhân dân để xây dựng cơ sở hạ tầng của các xã, thị trấn. Hình thức này hiện được mặc định với tên gọi Nhà nước và nhân dân cùng làm. Theo đó, sau khi xác định đươc nội dung, UBND cấp xã chủ trì việc lựa chọn và tổ chức quy trình thực hiện. Việc đóng góp của người dân phải được lấy ý kiến với sự đồng thuận cao, sau khi đa số người dân đồng ý thì UBND xã tổ chức huy động nhân dân đóng góp, nhân dân có nghĩa vụ chấp hành nghiêm chỉnh các quyết định được đa số đồng ý. Tức là người dân phải chịu  trách nhiệm và tôn trọng với các ý kiến đã được thông qua. Trong quá trình thực hiện chương trình/dự án, người dân tại địa bàn được ưu tiên hợp tác như là một đối tác thực hiện dự án. Theo quy định tại khoản 1 Điều 15 Nghị định số 24/1999/NĐ-CP  thì việc thi công công trình phải ưu tiên sử dụng lao động và lực lượng thi công tại xã, chỉ mời thầu và tổ chức đấu thầu với các lực lượng thi công ngoài địa bàn xã trong trường hợp công trình đòi hỏi kỹ thuật cao, tính chất thi công phức tạp mà lực lượng thi công tại xã không đảm nhận được. Việc tổ chức đấu thầu phải thực hiện theo đúng các quy định hiện hành của Nhà nước. Như vậy, người dân không chỉ chịu trách nhiệm với quyết định khi bỏ phiếu, với tư cách là đối tác thực hiện dự án, họ phải chịu trách nhiệm trước người dân, chính quyền và pháp luật đối với các hạng mục mà họ được mời hợp tác thực hiện. Đối với các hình thức tham gia của người dân vào quy trình ngân sách nhà nước, mức độ thực hiện ngân sách cùng nhà nước được thiết kế chi tiết và đầy đủ hơn so với các mức độ tham gia khác. 3.3.5. Người dân quyết định ngân sách nhà nước  Đây là mức độ tham gia cao nhất của người dân vào quy trình ngân sách nhà nước, theo đó, ngân sách được quyết định theo nhu cầu của người dân, đồng thời người dân kiểm soát, điều hành, chịu trách nhiệm ra quyết định trước một quy trình ngân sách nhà nước. Đối với các cấp ngân sách nhà nước hiện chưa có quy định về mức độ tham gia này. Đối với các đơn vị dự toán/các tổ chức được nhà nước hỗ trợ ngân sách hiện chưa quy định về mức độ tham gia này. Đối với các dự án/chương trình sử dụng vốn ngân sách nhà nước hiện chưa có quy định pháp luật về mức độ tham gia này. 3.3.6. Giám sát ngân sách nhà nước Ở mức độ này, người dân tiến hành theo dõi quá trình thực hiện quy trình ngân sách nhằm đảm bảo việc tuân thủ theo các nội dung ngân sách đã được quyết định trước đó. Hoạt động giám sát có thể mang tính cá nhân hoặc thông qua các tổ chức chính trị xã hội, các tổ chức dân sự hoặc nghề nghiệp. Việc đa dạng hóa các chủ thể giám sát quy trình ngân sách nhà nước có giá trị cung cấp cho nhà nước nhiều nguồn thông tin dưới nhiều góc độ khác nhau. Theo dòng ngân sách nhà nước liên quan tới các quy định của Luật Ngân sách nhà nước 2015, Luật Đầu tư công 2019, Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư 2020; Luật quản lý vốn nhà nước…khu vực ngân sách của các cấp chính quyền, các đơn vị dự toán/các tổ chức được ngân sách nhà nước hỗ trợ hay các chương trình/dự án sử dụng vốn ngân sách nhà nước đều được áp dụng chung cơ chế giám sát với tên gọi: Giám sát ngân sách nhà nước của cộng đồng và chủ thể chủ trì quy trình này là MTTQVN các cấp. Theo quy định tại Điều 9 Hiến pháp 2013 và Điều 1 và khoản 5 Điều 3 Luật MTTQVN 2015, chức năng giám sát của MTTQVN được ghi nhận cùng với các thành viên của mình và các tổ chức chính trị - xã hội là chủ thể đại diện để bảo về quyền và lợi ích hợp pháp của người dân trong đó có hoạt động giám sát ngân sách nhà nước. Mục đích giám sát: Hoạt động giám sát nói chung và giám sát ngân sách nhà nước của cộng đồng nói riêng nhằm mục đích như theo ghi nhận tại khoản 2 Điều 25 Luật MTTQVN 2015, đó là đại diện để bảo vệ quyền cho người dân, đồng thời đưa ra các phương án xử lý vi phạm. Đây là chức năng đại diện quyền tham gia gián tiếp của người dân với các mục tiêu phát huy quyền lực nhân dân và đồng lòng xây dựng nhà nước trong sạch, phát triển toàn diện. Nội dung giám sát Đối với các cấp ngân sách nhà nước và các đơn vị dự toán/các tổ chức được ngân sách nhà nước hỗ trợ: theo khoản 1 Điều 16 Luật Ngân sách nhà nước 2015 ghi nhận hoat động giám sát ngân sách nhà nước của cộng đồng gồm các nội dung sau: Việc chấp hành các quy định của pháp luật về quản lý, sử dụng ngân sách nhà nước; Tình hình thực hiện dự toán ngân sách nhà nước hằng năm; Việc thực hiện công khai ngân sách nhà nước.  Đối với dự án/ chương trình sử dụng vốn ngân sách nhà nước và dự án PPP, khoản 3 Điều 74 Luật Đầu tư công 2019 quy định hoạt động giám sát của cộng đồng gồm các nội dung sau: (1) Việc chấp hành quy định của pháp luật về đầu tư, xây dựng, đất đai, xử lý chất thải và bảo vệ môi trường;( 2) Công tác đền bù, giải phóng mặt bằng và phương án tái định canh, định cư bảo đảm quyền lợi của Nhân dân; (3) Các chương trình, dự án sử dụng một phần vốn đóng góp của người dân; (4) Tình hình triển khai và tiến độ thực hiện các chương trình, dự án;( 5) Việc thực hiện công khai, minh bạch trong đầu tư công theo quy định; (6) Phát hiện những việc làm tổn hại đến lợi ích của cộng đồng; những tác động tiêu cực của dự án đến môi trường sinh sống của cộng đồng trong quá trình thực hiện đầu tư và vận hành dự án; những việc làm gây lãng phí, thất thoát vốn, tài sản thuộc dự án. Hình thức giám sát gồm: Nghiên cứu, xem xét văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về lĩnh vực ngân sách nhà nước liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; Tổ chức đoàn giám sát; Tham gia giám sát với cơ quan, tổ chức có thẩm quyền;  Thông qua hoạt động của Ban thanh tra nhân dân được thành lập ở cấp xã, Ban giám sát đầu tư cộng đồng. Do pháp luật ngân sách nhà nước không quy định một trình tự riêng về giám sát ngân sách nhà nước của cộng đồng mà chỉ ghi nhận việc giám sát ngân sách theo kế hoạch và quy định của pháp luật một cách chung chung nên có thể hiểu, quy trình giám sát ngân sách nhà nước sẽ áp dụng quy trình giám sát nói chung của MTTQVN theo quy định của Luật MTTQVN 2015. Cụ thể như sau: Bước 1: Dựa vào các căn cứ giám sát quy định tại khoản 1 Điều 2 Nghị quyết liên tịch số 403/2017/NQLT-UBTVQH-CP-DCTUBMTTQVN, gồm các chương trình hàng năm của MTTQ các cấp hoặc phối hợp với các cơ quan nhà nước khác cùng cấp trên địa bàn hoặc dựa trên đơn khiếu nại, tố cáo…hoặc các nội dung ngân sách mà người dân quan tâm để xây dựng kế hoạch và phương án giám sát.  Bước 2: theo định kỳ, hàng năm vào khoảng quý 4, kế hoạch giám sát được ban hành sau khi có sự đồng thuận của các chủ thể liên quan. Bước 3: Phụ thuộc vào hình thức giám sát ngân sách nhà nước nào được lựa chọn mà quy trình sẽ được tiến hành, cụ thể như sau: Đối với hình thức nghiên cứu, xem xét văn bản thuộc lĩnh vực ngân sách nhà nước liên quan đến quyền và lợi ích của người dân. UBMTTQ chủ trì hoặc đề xuất nghiên cứu lại văn bản hoặc có thể tổ chức hội nghị cũng như tham vấn lấy ý kiến…nếu thấy cần thiết. Quy trình chủ yếu là các bên trình bày ý kiến và chủ thể chủ trì đưa ra kết luận.  Đối với việc lấy ý kiến chuyên gia được thực hiện chủ yếu thông qua hình thức gián tiếp bằng văn bản cho ý kiến, UBMTTQ chịu trách nhiệm tổng kết. Đối với hình thức tổ chức đoàn giám sát: UBMTTQ xây dựng kế hoạch cũng như tổ chức đoàn tham gia giám sát. Dựa vào nội dung và đối tượng giám sát UBMTTQ mời chủ thể tham gia khác tham gia cùng giám sát. Cuối cùng, đơn vị chủ trì ban hành quyết định thành lập đoàn giám sát. Chậm nhất là 15 ngày trước khi tiến hành giám sát, đơn vị chủ trì giám sát buộc phải gửi thông báo cùng các thông tin liên quan cho các chủ thể tham gia giám sát, thời gian là 7 ngày phải thông tin và tài liệu phải được gửi tới chủ thể được giám sát. Trình tự giám sát được tiến hành như sau: (1) Trưởng đoàn thông tin kế hoạch giám sát ; (2) Chủ thể có thẩm quyền được giám sát báo cáo nội dung liên quan; (3) Trao đổi ý kiến giữa chủ thể được giám sát và chủ thể giám sát; (4) Chủ thể giám sát trình bày rõ hơn các nội dung liên quan, đồng thời có thể nêu ý kiến với đoàn giám sát.; (5) Đại diện chủ thể giám sát đưa ra kết luận. Giai đoạn sau giám sát, chậm nhất 15 ngày kể từ ngày kết thúc giám sát, chủ thể giám sát phải báo cáo kết quả tới UBMTTQ và các chủ thể liên quan, có thể tổ chức các cuộc họp nếu thấy cần thiết, cuối cùng, dựa vào kết quả đã được giám sát, chủ thể chủ trì giám sát ban hành văn bản kết luận đồng thời có thể có kiến nghị tới các chủ thể có thẩm quyền. Đối với hình thức giám sát ngân sách nhà nước qua hoạt động của Ban thanh tra nhân dân. Một là, xây dựng phương án, trước 05 ngày tiến hành giám sát, Ban TTND phải đủ phương án trình Thường trực UBMTQ và người đứng đầu cơ quan hành chính cấp xã. Hai là, quá trình giám sát, chủ thể chủ trì giám sát, tức là Ban TTND có quyền yêu cầu chủ thể được giám sát cung cấp các thông tin cần thiết, các ý kiến, nguyện vọng, nhu cầu cụ thể liên quan đến NSNN. Ba là, trên cơ sở số liệu thu thập được, việc phân tích và theo dõi các dữ liệu và minh chứng cho phép Ban TTND đánh giá được tình hình tuân thủ pháp luật NSNN, trường hợp phát hiện hành vi vi phạm, Ban TTND ban hành văn bản kiến nghị tới các chủ thể có thẩm quyền. Việc giải quyết đơn kiến nghị này được tình thời hạn từ 15 ngày kể từ ngày các chủ thể nhận được đơn kiến nghị của Ban TTND  Cuối cùng, Ban TTND phải thông báo kết quả thực hiện kiến nghị cũng như quá trình chấp hành pháp luật NSNN của các đối tượng được giám sát cho người dân tại địa phương.  Hình thức giám sát NSNN với cơ quan tổ chức có thẩm quyền: Khi giám sát NSNN cùng với các cơ quan tổ chức khác theo quy định của pháp luật, MTTQVN cử đại diện tham gia, đồng thời cùng lên phương án thực hiện, xem xét văn bản hoặc hành vi của chủ thể được giám sát và đưa ra quan điểm của MTTQ đối với nội dung được giám sát. Khi có hành vi vi phạm pháp luật, MTTQ đồng thời hoặc tự mình kiến nghị và đưa ra các hình thức xử lý vi phạm tới các chủ thể có thẩm quyền giải quyết.  Chủ thể giám sát: Theo quy định tại Điều 16 Luật Ngân sách nhà nước 2015; Nghị định 163/2016; Luật Đầu tư công 2019; Nghị định 29/2021; Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam 2015 đều thống nhất giao MTTQVN các cấp chủ trì, phối hợp với các thành viên của Mặt trận tổ chức việc giám sát ngân sách nhà nước của cộng đồng đối với tất cả các nguồn lực từ ngân sách nhà nước. Luật Ngân sách nhà nước 2015 và Nghị định 163/2016 chỉ định rõ là MTTQVN; Ban thanh tra nhân dân ở cấp xã, Ban giám sát đầu tư của cộng đồng như quy định tại điểm đ khoản 4 Điều 52 Nghị định 163/2016 thì chủ thể tham gia còn có mặt của người dân được bầu bởi các thiết chế tự quản ở địa phương. Tóm lại, sự tham gia của người dân vào quy trình ngân sách nhà nước ở VN hiện còn rất thấp, thông qua hoạt động đánh giá trong nước và kết quả khảo sát quốc tế đã chứng mình điều này. Theo đó, đánh giá của Bộ Nội Vụ năm 2020 khi thực hiện xây dựng Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở 2022 đã cho thấy ở từng mức độ tham gia khi áp dụng Pháp lệnh 34  như sau: Đối với nội dung thông báo công khai cho dân biết còn hạn chế, đối với nội dung dân bàn và quyết định trực tiếp việc áp dụng pháp luật còn mang tính hình thức, nội dung nhân dân bàn, biểu quyết để cấp có thẩm quyền quyết định được thực hiện chủ yếu thông qua Ban GSĐTcủa cộng đồng và Ban TTND còn nhiều hạn chế do hoạt động của Ban Thanh tra nhân dân, Ban Giám sát đầu tư cộng đồng ở một số địa phương, cơ sở chưa phát huy được vai trò, chất lượng thực hiện còn thấp…Kết quả thực hiện những nội dung nhân dân tham gia ý kiến trước khi cơ quan có thẩm quyền quyết định, dung còn chung chung, chưa sát với thực tiễn cơ sở. Đồng thời chính quyền chưa tập hợp đầy đủ ý chí, nguyện vọng chính đáng và ý kiến xác đáng của các tầng lớp nhân dân. Một số nơi cán bộ lãnh đạo chưa sâu sát với nhân dân, vẫn còn hiện tượng khoán trắng cho cán bộ, công chức cấp dưới triển khai thực hiện, nội dung để đưa ra nhân dân tham gia ý kiến chưa rõ ràng, phù hợp với thực tế, nhân dân chưa thật sự tin tưởng. Bên cạnh đó, theo khảo sát công khai ngân sách (OBS) chỉ số công khai ngân sách (OBI) được xây dựng dựa trên 3 trụ cột gồm: Mức độ minh bạch; Sự tham gia của công chúng; Giám sát ngân sách. Khảo sát OBS đánh giá cơ chế và cơ hội chính thức để công chúng tham gia vào quy trình ngân sách. Khảo sát xem xét các hoạt động mà Chính phủ, cơ quan lập pháp (Quốc hội) và cơ quan kiểm toán tối cao (Kiểm toán nhà nước) thông qua 18 chỉ số có trọng số tương đương, áp dụng các nguyên tắc về sự tham gia của công chúng trong các chính sách tài khóa của tổ chức Sáng kiến toàn cầu về minh bạch tài khóa và đánh giá từng quốc gia theo thang điểm từ 0 đến 100. Theo đó, trong quy trình ngân sách nhà nước tại Việt Nam, người dân được tham gia hạn chế vào tiến trình phê chuẩn ngân sách của Quốc hội. Ít hoặc không được tham gia vào việc lập, thực hiện dự toán và kiểm toán ngân sách. Bảng 3.1: Cơ hội tham gia của công chúng trong quy trình ngân sách (số liệu NCS tổng hợp)  Năm khảo sát Lập ngân sách (cơ quan hành pháp) Phê duyệt ngân sách (cơ quan lập pháp) Thực hiện ngân sách (cơ quan hành pháp) Kiểm toán ngân sách (cơ quan kiểm toán nhà nước) 2021 27 56 0 0 2019 0 56 0 0 2017 9 8 0 0   Bảng 3.2: Chỉ số công khai ngân sách của Việt Nam -  Số liệu do tác giả tổng hợp từ số liệu của CDI và IBP:  Năm khảo sát Chỉ số công khai ngân sách - IBO Trụ cột 1 – Mức độ minh bạch Trụ cột 2 – Sự tham gia của công chúng Trụ cột 3 – Giám sát ngân sách 2021 44 44 17 80 2019 38 38 11 74 2017 15 15 7 72     (Ít: 0 – 20; Tối thiểu: 21 – 40; Hạn chế:: 21 – 60; Đáng kể: 61 – 80; Đầy đủ: 81 – 100)                 KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 Chương 3 đã tổng hợp, phân tích, đánh giá các chủ trương, định hướng của Đảng về sự tham gia của người dân, nhất là trong giai đoạn từ Đại hội VII năm 1991 cho đến nay. Đường lối của Đảng được thể chế hóa trong các quy định trong các bản Hiến pháp và pháp luật chuyên ngành, các quy định này luôn phát triển và được sửa đổi bổ sung qua thời gian. Hiện nay, Luật Thực hiện dân chủ sơ sở 2022 (thay thế Pháp lệnh 34/2007), Luật Ngân sách nhà nước 2015, Luật Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam, Luật Đầu tư công, Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư, Luật Thanh tra và nhiều đạo luật khác đều có quy định về sự tham gia của người dân liên quan đến ngân sách nhà nước. Sau khi phân tích, tại Chương 3, Luận án có thể rút ra các kết luận chính sau đây: Thứ nhất, thể chế hóa đường lối của Đảng, quyền tham gia của người dân vào quy trình ngân sách nhà nước đã được ghi nhận trong hệ thống pháp luật Việt Nam ngày càng rõ hơn, nhất là sau Hiến pháp 2013. Về hình thức, quyền tham gia vào lĩnh vực ngân sách nhà nước đang tiến dần và có sự tương thích với pháp luật quốc tế. Tuy vậy, cơ chế tham gia được nhấn mạnh và định hướng thông qua các thiết chế đại diện như MTTQVN hoặc Ban Giám sát đầu tư của cộng đồng hoặc Ban Thanh tra nhân dân tại cấp cơ sở. Thiết kế pháp luật về quyền tham gia vào quy trình ngân sách nhà nước của người dân cho thấy quan điểm nhất quán có từ trước đây của truyền thống pháp luật XHCN ở Việt Nam, ưu tiên thúc đẩy sự tham gia của người dân thông qua hình thức dân chủ XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng, và để sử dụng quyền này người dân phải thông qua các tổ chức của Nhà nước hoặc do Nhà nước định hướng. Đây chính là đặc trưng về quyền tham gia vào quy trình ngân sách nhà nước của người dân trong nhà nước do một Đảng lãnh đạo ở Việt Nam. Thứ hai, quyền tham gia của người dân vào quy trình ngân sách nhà nước được quy định phân mảng ở nhiều ngành luật khác nhau và mức độ tham gia thấp, hầu hết chỉ dừng lại ở quyền được biết thông tin về ngân sách nhà nước. Ngay cả khi thông tin được công khai thì các hình thức công khai ngân sách cũng không phù hợp dẫn đến thông tin không đầy đủ toàn diện. Thứ ba, quyền tham gia của người dân vào quy trình ngân sách nhà nước phổ biến ở Việt Nam hiện nay là hình thức giám sát được pháp luật ngân sách nhà nước định danh là: Giám sát ngân sách nhà nước của cộng đồng, được trao quyền chủ trì cho MTTQVN các cấp. Hình thức giám sát ngân sách nhà nước của cộng đồng được áp dụng cho tất cả các lĩnh vực sử dụng ngân sách nhà nước. Chính việc định danh quyền tham gia là hình thức “dân chủ XHCN” và trao quyền chủ trì cho một tổ chức thuộc nhà nước là yếu tố quyết định tới hiệu quả tham gia của người dân vào quy trình ngân sách nhà nước. Nếu muốn khuyến khích và thúc đẩy quyền tham gia vào quy trình ngân sách nhà nước của người dân ở Việt Nam trong thời gian tới thì đây chính là vấn đề cần được thiết kế lại cho phù hợp với thực trạng quản trị nhà nước trong thời kỳ hội nhập ngày càng sâu sắc.