0888889366
Tra cứu thông tin hợp đồng
timeline_post_file648593199f6a4-ẢNH-1.png.webp

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN TIẾP CẬN THÔNG TIN TRONG TỐ TỤNG HÀNH CHÍNH

1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của quyền tiếp cận thông tin trong tố  tụng hành chính 

1.1.1. Khái niệm quyền tiếp cận thông tin trong tố tụng hành chính 

1.1.1.1. Khái niệm quyền tiếp cận thông tin 

“Tự do thông tin” (freedom of information) thường được coi là đồng nghĩa  với “quyền tiếp cận thông tin” (right to access information), là một trong những  quyền cơ bản của con người. Theo Tuyên ngôn Thế giới về Quyền con người được  Đại hội đồng Liên hiệp quốc thông qua tại Nghị quyết số 217A (III) ngày  10/12/1948, nội dung quyền đang xét bao hàm cả quyền tìm kiếm, tiếp nhận và phổ biến thông tin. Điều 19 của Tuyên ngôn khẳng định: “Mọi người đều có quyền tự  do ngôn luận và bày tỏ ý kiến; quyền này bao gồm quyền tự do giữ quan điểm  không có sự can thiệp, tự do tìm kiếm, tiếp nhận và chia sẻ các ý tưởng và thông  tin bằng bất kỳ phương tiện nào và không có biên giới”. Điều 19 Công ước Quốc  tế về Các quyền dân sự, chính trị (năm 1966) cũng viết: “Mọi người đều có quyền  tự do ngôn luận. Quyền này bao gồm cả quyền tự do tìm kiếm, nhận và truyền đạt  mọi loại tin tức, ý kiến, không phân biệt ranh giới, hình thức tuyên truyền miệng,  hoặc bằng văn bản viết, in, hoặc bằng hình thức nghệ thuật hoặc thông qua mọi  phương tiện đại chúng khác tùy theo sự lựa chọn của họ” [22, tr.187]. Tuy nhiên,  xét về tính chất, có thể coi “quyền tiếp cận thông tin” nằm trong nội hàm của “tự do thông tin”, bởi khái niệm thứ nhất chủ yếu nói đến khả năng tìm kiếm, tiếp cận  và phổ biến những thông tin được ban hành và lưu giữ tại các cơ quan, tổ chức công  quyền, đặc biệt là các cơ quan hành chính nhà nước; trong khi đó khái niệm thứ hai  muốn nói đến khả năng tìm kiếm, tiếp cận và phổ biến mọi loại thông tin bất kể chủ  thể nắm giữ và có thể cho nhiều mục đích (giải trí, học thuật, chính trị, văn hóa,…). 

Quyền tiếp cận thông tin đôi khi cũng được giải thích với nghĩa hẹp hơn là  “quyền được thông tin” (right to information), hay quyền được biết về tổ chức và hoạt động của một chủ thể nào đó, đặc biệt là của các cơ quan nhà nước. Quyền  tiếp cận thông tin thể hiện tính chủ động của chủ thể tiếp cận, trong khi đó, quyền  được thông tin thể hiện một hình thức tiếp cận bị động. Bên cạnh đó, cũng cần hiểu  “được thông tin” ở góc độ kết quả thụ hưởng cuối cùng. Sự thụ hưởng ở đây có thể là hiển nhiên (do người khác chủ động cung cấp) cũng có thể là không hiển nhiên.  Để được thông tin, các chủ thể thụ hưởng cần phải có những hành động tác động  nhất định (yêu cầu cung cấp thông tin) đến chủ thể nắm giữ thông tin. Được thông  tin có thể hiểu là kết quả của hành vi chủ động thông tin từ phía chủ thể nắm giữ thông tin tới chủ thể tiếp nhận. Tức là chủ thể nắm giữ thông tin chủ động công  khai thông tin và chủ thể tiếp cận thu nhận thông tin một cách bị động. Được thông  tin ở đây cũng có thể hiểu là việc chủ thể nắm giữ thông tin đáp ứng các yêu cầu  (yêu sách) đòi được cung cấp thông tin của chủ thể tiếp nhận thông tin. Tức là chủ thể nắm giữ thông tin cung cấp thông tin một cách bị động theo các yêu cầu cụ thể của chủ thể tiếp nhận thông tin.  

Như vậy, cách hiểu quyền được thông tin tức là người dân được đặt ở vị trí  bị động khi tiếp cận thông tin là thiếu khoa học và không chính xác. Mặt khác,  quyền tiếp cận thông tin cũng phải được hiểu theo cả hai hướng chủ động lẫn bị động. Đó là quyền của các chủ thể bằng cách này hay cách khác tiếp cận các thông  tin đã được công khai (tiếp cận thụ động). Đồng thời tiếp cận thông tin cũng là  cách tiếp cận mà chủ thể tiếp nhận thông tin phải đưa ra các yêu cầu đối với các  chủ thể nắm giữ để có được thông tin mình cần (tiếp cận chủ động). Cả hai thuật  ngữ quyền tiếp cận thông tin và quyền được thông tin đều đề cập đến quyền của  chủ thể được tự do tìm kiếm và tiếp nhận thông tin. Tuy nhiên, cách hiểu này là  chưa tương thích với nhận thức và quy định chung của luật pháp quốc tế, trong đó  coi “quyền được thông tin” chỉ là một trong ba khía cạnh của quyền tiếp cận thông  tin (gồm: Quyền được thông tin; quyền được tìm kiếm, yêu cầu cung cấp thông  tin; và quyền được phổ biến thông tin). 

Trách nhiệm bảo đảm quyền tiếp cận thông tin thuộc về Nhà nước nhằm hiện  thực hóa quyền tiếp cận thông tin của công dân đã được hiến định trong Hiến pháp  2013. Bảo đảm quyền tiếp cận thông tin được xem là tiền đề thực hiện đảm bảo thực hiện các quyền chính trị, dân sự và các quyền kinh tế, văn hóa, xã hội của công  dân. Bảo đảm quyền tiếp cận thông tin sẽ đảm bảo cá nhân được thông tin về hoạt  động của các cơ quan nhà nước và có thể tham gia giám sát phản biện xã hội; ngăn  ngừa việc cơ quan nhà nước đưa ra những quyết định có thể xâm phạm các quyền  công dân khác. Có thể nói, việc bảo đảm quyền tiếp cận thông tin có ý nghĩa quan  trọng trong sự phát triển đất nước, góp phần thúc đẩy sự phát triển nền dân chủ của  các quốc gia, góp phần củng cố mối quan hệ giữa Nhà nước và công dân. Ngoài ra,  việc bảo đảm quyền tiếp cận thông tin cũng làm tăng tính hiệu quả, minh bạch và  trách nhiệm giải trình của cơ quan nhà nước trong việc thực hành công vụ. Từ việc  bảo đảm quyền này cũng góp phần nâng cao chất lượng của các chính sách pháp  luật khi đi vào đời sống xã hội… 

Như vậy, khái niệm được sử dụng trong luận án gắn với các thông tin đặc  thù do đó nên: Quyền tiếp cận thông tin là quyền của công dân nhằm tìm kiếm,  tiếp nhận, lưu giữ, phổ biến, sử dụng thông tin được ban hành và lưu giữ tại các  cơ quan, tổ chức công quyền. Theo cách hiểu này thì quyền tiếp cận thông tin bao  hàm đầy đủ các quyền của người dân đối với thông tin trong tương quan với các  quyền tự do khác của con người, như: Tự do tư tưởng, tự do tín ngưỡng và tôn giáo,  tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do biểu tình, tự do lập hội… 

1.1.1.2. Khái niệm tố tụng hành chính 

Tố tụng hành chính là một trong những khái niệm khá mới mẻ cả về phương  diện lý luận và thực tiễn của hoạt động tư pháp ở Việt Nam. Hiện nay, có một số quan điểm, khái niệm khác nhau về tố tụng hành chính, cụ thể như sau: 

“Tố tụng hành chính được xem là một dạng của hoạt động tài phán. Trong  tiếng Latinh “tài phán” là “jurisdictio”, trong tiếng Anh là “jurisdiction”. Theo  nghĩa rộng, tài phán là quyền lực của cơ quan nhà nước trong việc xem xét tính  đúng sai của các hoạt động hành pháp diễn ra trên phạm vi lãnh thổ nhất định.  Còn theo nghĩa hẹp, thuật ngữ này dùng để chỉ thẩm quyền của Tòa án trong việc  xem xét, đánh giá và ra các phán quyết đối với vụ việc cụ thể và các đối tượng  xác định”[39, tr.86]. Theo khái niệm này thì tài phán có thể được hiểu bao gồm hoạt động giải quyết tranh chấp của Tòa án và hoạt động giải quyết tranh chấp  thuộc thẩm quyền của cơ quan hành chính [39, tr.86]. Tuy nhiên, có tác giả cho  rằng: “Tố tụng hành chính là toàn bộ hoạt động của Tòa án, Viện kiểm sát, người  tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng, của cá nhân, của cơ quan Nhà nước và  tổ chức trong việc giải quyết vụ án hành chính, cũng như trình tự do pháp luật  quy định đối với việc khởi kiện, thụ lý, giải quyết vụ án hành chính và thi hành  bản án, quyết định của Tòa án về vụ án hành chính” [30, tr.12]. Còn theo Từ điển  Luật học, tố tụng hành chính được định nghĩa là “trình tự giải quyết vụ án hành  chính theo quy định của pháp luật tại Tòa án nhằm giải quyết các khiếu kiện đối  với quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan nhà nước và của cán  bộ, công chức thuộc những cơ quan này” [75, tr.785]. 

Mặc dù có nhiều quan niệm, cách hiểu khác nhau, nhưng nghiên cứu sinh  cho rằng: Tố tụng hành chính là trình tự giải quyết vụ án hành chính theo quy định  của pháp luật tại tòa án nhằm giải quyết các khiếu kiện đối với quyết định hành  chính, hành vi hành chính của cơ quan nhà nước, của công chức, cán bộ thuộc  những cơ quan này. So với cơ chế giải quyết các khiếu kiện hành chính bằng thủ tục giải quyết khiếu nại hành chính, tố tụng hành chính có nhiều ưu điểm lớn đó  là các khiếu kiện được giải quyết bởi một hệ thống cơ quan chuyên trách độc lập  là các Tòa hành chính thuộc Tòa án nhân dân. Không những thế, thủ tục tố tụng  hành chính còn bảo đảm cho sự bình đẳng giữa công dân và các cơ quan công  quyền; đồng thời là cơ chế hữu hiệu góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp  của các cá nhân, tổ chức khi các quyền lợi của họ bị xâm phạm bởi các quyết định,  hành vi hành chính của các cơ quan công quyền. 

Ngoài khái niệm tố tụng hành chính, ta cũng cần phải hiểu rõ các đương sự trong vụ án hành chính. Đương sự trong vụ án hành chính có thể được hiểu là  người tham gia tố tụng để bảo vệ quyền, lợi ích của mình hoặc bảo vệ lợi ích công  cộng, lợi ích của Nhà nước thuộc lĩnh vực mình phụ trách do có quyền, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hành chính. Họ có thể là cá nhân, cơ quan hoặc tổ chức tham  gia tố tụng với tư cách là người khởi kiện, người bị kiện và người có quyền lợi,  nghĩa vụ liên quan trong vụ án hành chính. Theo đó:

Người khởi kiện là người tham gia tố tụng khởi kiện vụ án hành chính nhằm  bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Tuy cũng tham gia tố tụng để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình như các đương sự khác nhưng việc tham gia tố tụng của người khởi kiện mang tính chủ động. Trong tố tụng hành chính, hoạt  động tố tụng của người khởi kiện có thể dẫn dến việc làm phát sinh, thay đổi hay  đình chỉ tố tụng. 

Người bị kiện là người tham gia tố tụng để trả lời về việc kiện do bị người  khởi kiện hoặc bị người khác khởi kiện theo quy định của pháp luật. Việc tham  gia vào vụ án hành chính của người bị kiện mang tính bị động chứ không chủ động như người khởi kiện. Do bị người khởi kiện hoặc người đại diện của họ khởi  kiện nên người bị kiện phải tham gia tố tụng để trả lời về việc kiện. Tuy nhiên,  hoạt động tố tụng hành chính của người bị kiện cũng có thể làm thay đổi quá trình  giải quyết vụ án hành chính. 

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án hành chính là người  tham gia tố tụng vào vụ án hành chính đã phát sinh giữa người khởi kiện và người  bị kiện để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Việc tham gia tố tụng của  người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án hành chính có thể do họ chủ  động, theo yêu cầu của người khởi kiện hoặc theo yêu cầu của Tòa án. Người có  quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không khởi kiện vụ án cũng như không bị kiện mà  là người tham gia tố tụng khi vụ án đã xuất hiện giữa người khởi kiện, người bị kiện để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ. Việc tham gia tố tụng của họ trong  vụ án hành chính là do họ có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hành chính.  Ngoài ra, việc tham gia tố tụng còn xuất phát từ các căn cứ pháp lý khác. 

Đặc điểm của tố tụng hành chính: 

Thứ nhất, tố tụng hành chính là tổ chức và hoạt động xét xử các tranh chấp  hành chính phát sinh khi có đơn khởi kiện vụ án hành chính giữa công dân, tổ chức với các cơ quan, tổ chức, cá nhân công quyền. 

Thứ hai, cơ quan tiến hành tố tụng hành chính ở Việt Nam là Tòa án và  Viện kiểm sát. Trong hoạt động, các cơ quan này được nhân danh Nhà nước thực hiện quyền và nghĩa vụ tố tụng để giải quyết vụ án hành chính cụ thể theo đúng  quy định của pháp luật tố tụng. 

Thứ ba, đối tượng khởi kiện vụ án hành chính trong tố tụng hành chính là  các quyết định hành chính, hành vi hành chính do người có thẩm quyền trong các  cơ quan công quyền ban hành hoặc thực hiện. 

Thứ tư, tố tụng hành chính được thực hiện theo trình tự, thủ tục, do pháp  luật tố tụng hành chính quy định. Luật Tố tụng hành chính (được Quốc hội khóa  13 thông qua ngày 25/11/2015 và có hiệu lực kể từ ngày 01/07/2016) là văn bản  có hiệu lực pháp lý cao nhất trong công tác giải quyết các vụ án hành chính ở Việt  Nam hiện nay. 

1.1.1.3. Khái niệm quyền tiếp cận thông tin trong tố tụng hành chính 

Tiếp cận thông tin trong tố tụng hành chính có nội hàm xuất phát từ quyền  tiếp cận thông tin nói chung như đã nói ở trên, so với quyền tiếp cận thông tin  khác thì các thông tin trong tố tụng hành chính là những thông tin mang tính đặc  thù. Trong tố tụng hành chính, các tài liệu, chứng cứ là các văn bản, giấy tờ, hình  ảnh, bản ghi âm, lời tường trình của người có liên quan,... là những “thông tin”  cần thiết, là cơ sở để các đương sự bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình và là cơ  sở để Tòa án ra quyết định hành chính. Vì vậy, có thể xem các “thông tin” này là  bằng chứng lột tả khách quan bản chất của sự việc. Trong quá trình giải quyết các  vụ án hành chính, Tòa án mà cụ thể là Thẩm phán được phân công giải quyết vụ  án phải dựa vào các tài liệu, chứng cứ do đương sự tham gia tố tụng xuất trình  cũng như được Tòa án thu thập để làm căn cứ xác định tính hợp pháp, chấp nhận  hay phản bác ý kiến, yêu cầu của đương sự. 

Tiếp cận thông tin trong tố tụng hành chính là một trong những nội dung quan trọng nhằm bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các cơ quan, tổ chức, cá  nhân, đồng thời đảm bảo tính hiệu lực, hiệu quả trong thực thi pháp luật hiện hành. Quyền tiếp cận thông tin của người dân đã được ghi nhận trong Hiến pháp và đã  được cụ thể hóa trong một số văn bản pháp luật chuyên ngành. Tại Điều 98, Luật  Tố tụng hành chính năm 2015, quy định, quyền tiếp cận, trao đổi tài liệu, chứng cứ của đương sự trong vụ án hành chính “Đương sự có quyền được biết, ghi chép,  sao chụp, trao đổi tài liệu, chứng cứ do đương sự khác giao nộp cho Tòa án hoặc  do Tòa án thu thập được, trừ tài liệu, chứng cứ quy định tại Khoản 2 Điều 96 của  Luật này (Tòa án không công khai nội dung chứng cứ có liên quan đến bí mật nhà  nước, thuần phong, mỹ tục của dân tộc, bí mật nghề nghiệp, bí mật kinh doanh,  bí mật cá nhân theo yêu cầu chính đáng của đương sự nhưng phải thông báo cho  đương sự biết những chứng cứ không được công khai)”. 

Mặc dù quyền tiếp cận thông tin nói chung và quyền tiếp cận thông tin trong  tố tụng hành chính nói riêng đã được đề cập đến trong một số văn bản cụ thể, tuy  nhiên, cho đến nay, chưa có một khái niệm chính thức nào được đưa ra về quyền  tiếp cận thông tin trong tố tụng hành chính. Hiện nay, các công trình nghiên cứu,  các bài viết chủ yếu đề cập đến các khái niệm về quyền tiếp cận thông tin, khái  niệm về tố tụng hành chính. Xét về bản chất, quyền tiếp cận thông tin là quyền của  công dân nhằm tìm kiếm, tiếp nhận, lưu giữ, phổ biến, sử dụng tất cả các thông tin  được ban hành và lưu giữ tại các cơ quan, tổ chức công quyền theo quy định, các  thông tin này được cung cấp dưới cả hai hình thức là chủ động và bị động. Còn tố  tụng hành chính là những trình tự để giải quyết các vụ án hành chính theo quy định  của pháp luật. Thông qua trình tự này, Tòa án và các cơ quan tiến hành tố tụng sẽ  hỗ trợ giải quyết các khiếu kiện của cá nhân, tổ chức đối với các quyết định, hành  vi hành chính của các cơ quan nhà nước, cá nhân, tổ chức có thẩm quyền gây ảnh  hưởng đến quyền và lợi ích chính đáng của chủ thể bị xâm phạm. 

Từ những phân tích ở trên, nghiên cứu sinh đưa ra khái niệm như sau:  “Quyền tiếp cận thông tin trong tố tụng hành chính là quyền của đương sự nhằm  tìm kiếm, ghi chép, sao chụp, phổ biến/trao đổi các tài liệu, chứng cứ từ các cơ  quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của  bản thân trong tố tụng hành chính”. 

Việc đảm bảo quyền nói chung và quyền tiếp cận thông tin nói riêng của  các đương sự trong tố tụng hành chính là trách nhiệm của Nhà nước thông qua bộ  máy của mình

1.1.2. Đặc điểm của quyền tiếp cận thông tin trong tố tụng hành chính 

Thứ nhất, quyền tiếp cận thông tin trong tố tụng hành chính là một trong  những quyền cơ bản của đương sự được ghi nhận bằng pháp luật  

Trong hoạt động tố tụng hành chính, quyền tiếp cận thông tin của các đương  sự có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của  mình. Trong khi đó, với vị thế bất cân xứng giữa người khởi kiện, người có quyền  lợi, nghĩa vụ liên quan và bên bị kiện là các cơ quan, tổ chức, cá nhân công quyền  dẫn đến việc tiếp cận thông tin hết sức khó khăn. Vì vậy, để đảm bảo việc thực  hiện có hiệu quả trên thực tế thì cần phải có một cơ sở pháp lý vững chắc, đầy đủ ghi nhận quyền tiếp cận thông tin của các đương sự. 

Pháp luật ghi nhận quyền tiếp cận thông tin trong tố tụng hành chính của  người dân cũng như quyền của các đương sự trong tố tụng hành chính. Cụ thể là  đương sự được phép tiếp cận thông tin của các cơ quan nhà nước (trừ các thông tin  thuộc bí mật nhà nước); có quyền tiếp cận với các tài liệu, chứng cứ được đương  sự khác, các cá nhân, tổ chức, cơ quan có liên quan giao nộp hoặc các chứng cứ, tài  liệu mà tòa án thu thập được. Việc pháp luật ghi nhận sẽ bảo đảm thực thi quyền  của đương sự trong tố tụng hành chính với tư cách quyền con người được minh  bạch, rõ ràng và hiệu quả hơn..  

Sự ghi nhận của pháp luật cũng giúp thể hiện rõ các nội hàm của quyền như  chủ thể áp dụng quyền (chủ thể quyền, chủ thể bảo đảm); nội dung của  quyền(quyền tiếp cận, thu thập, sử dụng, chia sẻ…thông tin); trách nhiệm, nghĩa  vụ (thu thập, cung cấp, chia sẻ, công khai thông tin…) đồng thời cũng quy định  cụ thể về quá trình thực hiện quyền như cơ quan - tổ chức – cá nhân chịu trách  nhiệm thực hiện; quy trình, trình tự, thủ tục thực hiện… 

Thứ hai, chủ thể liên quan đến quyền tiếp cận thông tin trong tố tụng hành  chính bao gồm chủ thể thực hiện quyền tiếp cận thông tin, chủ thể bảo đảm quyền  tiếp cận thông tin 

Về chủ thể quyền tiếp cận thông tin trong tố tụng hành chính bao gồm người  khởi kiện, người bị kiện và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Những chủ thể này yêu cầu những chủ thể có nghĩa vụ phải cung cấp thông tin để có thể bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của mình. Để thực hiện tốt quyền tiếp  cận thông tin, không chỉ dựa trên năng lực cá nhân, mà cần phải có sự bảo đảm của  pháp luật, của các cơ quan nhà nước. Hầu hết luật tiếp cận thông tin của các quốc  gia đều cho phép bất kỳ cá nhân nào cũng có quyền yêu cầu cung cấp thông tin mà  không kể đến lợi ích pháp lý, địa vị pháp lý và nơi cư trú. Trong bối cảnh nền kinh  tế hội nhập toàn cầu, một số quốc gia trên thế giới quy định chủ thể không mang  quốc tịch của quốc gia sở tại cũng có thể yêu cầu được cung cấp những thông tin  nhất định, cụ thể như thông tin liên quan đến điều kiện cư trú, làm việc của người  nước ngoài,… Một số quốc gia như Phần Lan còn cho phép ẩn danh khi đưa ra các  yêu cầu cung cấp thông tin [76, tr.36].  

Về năng lực chủ thể theo quy định của pháp luật tố tụng hành chính thì mọi  cá nhân, cơ quan nhà nước, tổ chức đều có quyền tiếp cận thông tin (năng lực pháp  luật). Tuy nhiên, bên cạnh năng lực pháp luật đó, cá nhân, cơ quan, tổ chức đều  phải có năng lực hành vi. Chủ thể quyền tiếp cận thông tin phải thể hiện được năng  lực của mình trong quá trình tiếp cận, sử dụng và khai thác thông tin hiệu quả. Cụ thể, đối với chủ thể quyền tiếp cận thông tin là các cá nhân: 

Một là, có năng lực pháp luật: Đây là loại năng lực của các chủ thể thực  hiện quyền tiếp cận thông tin được pháp luật tố tụng hành chính quy định. Tức là,  khả năng được hưởng những quyền tiếp cận thông tin như quyền sao chép, quyền  trao đổi thông tin, quyền tìm kiếm thông tin,… khi tham gia vào các giai đoạn của  quá trình tố tụng hành chính. Đồng thời, các chủ thể này cũng phải gánh chịu  những nghĩa vụ tương ứng. 

Hai là, có năng lực hành vi: Tức là khả năng tự mình sử dụng đúng đắn  quyền của mình do pháp luật tố tụng hành chính quy định một cách độc lập. Năng  lực hành vi được xác định thông qua độ tuổi và sức khỏe. Cụ thể là người thực  hiện quyền tiếp cận thông tin phải đủ 18 tuổi trở lên, có sức khỏe bình thường,  không có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần. Nếu người thực hiện quyền tiếp  cận thông tin bị hạn chế năng lực hành vi thì việc thực hiện quyền thông qua người  đại diện hợp pháp.

Nếu đương sự là các cơ quan nhà nước, tổ chức thì việc thực hiện quyền  tiếp cận thông tin trong tố tụng hành chính thông qua người đại diện theo pháp  luật hoặc theo ủy quyền. Người đại diện theo pháp luật của cơ quan nhà nước, tổ chức là người đứng đầu cơ quan, tổ chức đó. Còn người đại diện theo ủy quyền là  bất kỳ người nào (có đầy đủ năng lực chủ thể) được đương sự ủy quyền đại diện  cho mình trong việc thực hiện quyền tiếp cận thông tin, trừ một số trường hợp  pháp luật quy định ngăn cấm. 

Việc mở rộng đối tượng được thực hiện quyền tiếp cận thông tin trong tố tụng hành chính tạo cơ hội cho đương sự được thỏa mãn nhu cầu thông tin của  mình và đảm bảo cho công lý được thực thi, bảo đảm tính hiệu lực, hiệu quả của  bản án. Tuy nhiên, trong khuôn khổ, phạm vi nghiên cứu của luận án này, tác giả chỉ đề cập đến quyền tiếp cận thông tin của cá nhân khởi kiện vụ án hành chính  đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính. 

Về chủ thể bảo đảm quyền tiếp cận thông tin trong tố tụng hành chính: Bảo  đảm quyền tiếp cận thông tin trong tố tụng hành chính hiệu quả luôn phụ thuộc vào  chủ thể nắm giữ thông tin hay nói cách khác là người có trách nhiệm cung cấp  thông tin cũng như TAND có đầy đủ nhận thức, quyền hạn và khả năng bảo đảm  quyền tiếp cận thông tin của đương sự. Tuy nhiên, trong tố tụng hành chính người  cung cấp thông tin có thể cũng chính là bên bị kiện, do đó thông thường để bảo vệ quyền và lợi ích, họ sẽ phớt lờ việc phải có nghĩa vụ cung cấp thông tin. Do đó, để 

bảo đảm quyền của người khởi kiện, những người thuộc diện yếu thế trong tố tụng  hành chính thì rất cần sự bảo đảm bằng trách nhiệm của nhà nước. Chủ thể bảo đảm  quyền tiếp cận thông tin trong tố tụng hành chính bao gồm các cơ quan nhà nước  và có thể chia thành hai nhóm đó là: Các cơ quan hành chính nhà nước và các cơ  quan tư pháp. 

Đối với chủ thể là cơ quan hành chính nhà nước 

Các cơ quan hành chính nhà nước là chủ thể thực hiện chức năng cung cấp  thông tin trong tố tụng hành chính. Có hai cách tiếp cận chính khi định nghĩa chủ thể nào cung cấp thông tin. Cách tiếp cận thứ nhất và thông thường nhất là chỉ cần định nghĩa các chủ thể và những vấn đề mang tính nguyên tắc, còn việc xác định  cụ thể sẽ được giải quyết theo từng trường hợp. Cách tiếp cận thứ hai là đưa ra danh  mục các tên của các chủ thể có nghĩa vụ cung cấp thông tin. Theo cách thứ hai có  ưu điểm là rõ ràng và cụ thể nhưng sẽ bị quá cứng nhắc, sau một thời gian thường  gặp những vướng mắc do danh sách chủ thể đưa ra có khi lại vừa thừa vừa thiếu.  Trong nhiều quốc gia thì các chủ thể tư nhân cũng phải chịu sự điều chỉnh của luật  tiếp cận thông tin, tuy nhiên, luật thường chỉ quy định nghĩa vụ của dạng chủ thể này phải cung cấp một số loại thông tin nhất định mà họ đang nắm giữ, thông  thường là các thông tin về quyền con người, thông tin về môi trường. Ngược lại, ở một số quốc gia, luật tiếp cận thông tin loại trừ một số cơ quan nhất định, có nắm  giữ những thông tin nhạy cảm khỏi phạm vi điều chỉnh. Thông thường đó là các cơ  quan cảnh sát, an ninh, quân đội và tình báo [76, tr.37]... 

Ở Việt Nam, trong tố tụng hành chính, chủ thể cung cấp thông tin không  chỉ giới hạn ở tòa án, mà đương sự còn có quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá  nhân khác cung cấp tài liệu, chứng cứ. Mặt khác, việc công khai các thông tin,  giao nộp các tài liệu chứng cứ cho tòa án để tòa án thông báo cho đương sự được  tiếp cận, và cung cấp thông tin, tài liệu theo yêu cầu của đương sự tham gia tố tụng theo những trình tự, thủ tục cũng được quy định cụ thể. Tuy nhiên, việc  cung cấp thông tin trong tố tụng hành chính đối với cá nhân là người nắm giữ  thông tin thường có vị thế, ưu thế hơn người yêu cầu cung cấp thông tin, do đó  cần có một cơ chế rõ ràng và cụ thể để việc cung cấp thông tin là trách nhiệm  pháp lý, khi đó các quyền và nghĩa vụ của các bên có liên quan mới bảo đảm  tính hiệu quả 

Đối với chủ thể là cơ quan tư pháp 

Bảo đảm quyền tiếp cận thông tin là quá trình thúc đẩy công bằng và thực  thi pháp luật, củng cố nhà nước pháp quyền. Việc bảo đảm quyền tiếp cận thông  tin sẽ góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người dân, làm tăng tính hiệu  quả, minh bạch và trách nhiệm giải trình của cơ quan nhà nước, nhất là cơ quan  thực hiện quyền tư pháp, nơi thực hiện nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con  người, quyền công dân, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Để bảo đảm quyền tiếp cận thông tin được thực hiện hiệu quả thì ngoài việc hoàn thiện  trách nhiệm pháp lý, nghĩa vụ của các cơ quan, tổ chức chia sẻ thông tin, Nhà nước  cần củng cố bộ máy bảo đảm quyền tiếp cận thông tin qua vai trò tòa án xét xử các  vụ án hành chính với đầy đủ cơ sở pháp lý cho quy trình thúc đẩy và bảo vệ quyền  tiếp cận thông tin của đương sự trong tố tụng hành chính... 

Vai trò của các cơ quan tư pháp trong việc đảm bảo quyền tiếp cận thông tin  trong tố tụng hành chính được thực hiện trên hai nội dung là: Bảo đảm các chủ thể khác phải cung cấp thông tin và thực hiện trách nhiệm cung cấp, công khai thông tin. 

(i) Các cơ quan tiến hành tố tụng đảm bảo các đương sự, các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan thực hiện trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ,  thông tin liên quan đến vụ án để làm căn cứ xét xử cũng như để đương sự có thể tiếp cận được. (ii) Tòa án, Viện kiểm sát thực hiện công khai các thông tin, chứng  cứ trong vụ án để các đương sự được biết, được tiếp cận. Việc công khai thông  tin của bao gồm các thông tin liên quan đến thủ tục xét xử vụ án... Trong các chủ thể đảm bảo quyền tiếp cận thông tin trong tố tụng hành chính, Tòa án hành chính  có vai trò đặc biệt quan trọng. Tòa án thực hiện đảm bảo quyền tiếp cận thông tin  của đương sự thông qua một số nội dung: 

Thông qua chức năng, thẩm quyền của Tòa án: Tòa án với sứ mệnh là bảo  vệ công lý, bảo vệ quyền con người, bảo vệ pháp luật, được Nhà nước giao trọng  trách, quyền lực. Do đó việc Tòa án thực hiện chức năng, trách nhiệm, nhiệm vụ tố tụng hành chính là nhằm đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của các đương sự trong  đó có quyền tiếp cận thông tin. Dựa trên chức năng, thẩm quyền được giao, Tòa án  xây dựng kế hoạch, phương pháp, cách thức tổ chức thực hiện, giải quyết các vụ án  hành chính. Việc Tòa án thực hiện đúng, đủ, hiệu quả chức năng, thẩm quyền của  mình vừa tạo ra sức mạnh pháp lý vừa tạo dựng hình ảnh của một nền tư pháp công  khai, minh bạch, công bằng, nghiêm minh, vì nhân dân phục vụ. 

Tòa án phải đảm bảo sự bình đẳng giữa các đương sự trong tố tụng hành  chính: Trong quá trình xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, Đảng ta đã xác  định “Cải cách tư pháp phải được tiến hành khẩn trương, đồng bộ, có trọng tâm,  trọng điểm với những bước đi vững chắc”. Riêng với tố tụng hành chính thực hiện  “Mở rộng thẩm quyền xét xử của tòa án đối với các khiếu kiện hành chính. Đổi mới mạnh mẽ thủ tục giải quyết các khiếu kiện hành chính tại tòa án; tạo điều kiện thuận  lợi cho người dân tham gia tố tụng, bảo đảm sự bình đẳng giữa công dân và cơ quan  công quyền trước tòa án” [10].  

Như vậy có thể thấy, đảm bảo sự bình đẳng trong tố tụng hành chính là một  trong những nội dung của cải cách tư pháp nói chung và cải cách hoạt động tố tụng hành chính nói riêng mà nước ta hướng đến. Cần đảm bảo yếu tố này bởi  trong quan hệ quản lý hành chính, công dân là đối tượng chịu sự quản lý hành  chính của các cơ quan công quyền (cơ quan hành chính nhà nước). Quan hệ này  là quan hệ “quyền lực – phục tùng”. Tuy nhiên trong quan hệ tố tụng hành chính  Tòa án cần đảm bảo để quan hệ giữa công dân (người khởi kiện) – và cá nhân, cơ  quan công quyền Nhà nước (người bị khởi kiện) phải là quan hệ bình đẳng, công  bằng giữa “đương sự - đương sự”, đảm bảo mọi đương sự đều phải thực hiện quyền và nghĩa vụ đã được pháp luật quy định mà không có bất cứ trường hợp  ngoại lệ nào. 

Tòa án thực hiện hoạt động đối thoại trong tố tụng hành chính: Để bảo đảm  quyền của các đương sự; giải quyết vụ việc nhanh chóng, tiết kiệm thời gian, chi phí, công sức; nâng cao hiệu quả của hoạt động tố tụng, Tòa án thực hiện thủ tục  đối thoại giữa các đương sự. Trong quá trình đối thoại, các đương sự có quyền  cung cấp, chia sẻ các thông tin, tài liệu, chứng cứ liên quan để bảo vệ những nhận  định, quyền lợi, các quyết định mà mình đã ban hành. Đồng thời các đương sự cũng có quyền trao đổi, đối thoại, tranh luận với nhau để làm giảm các mâu thuẫn,  xung đột; đi đến đồng nhất quan điểm, nhận thức; thống nhất cách giải quyết có  thể rút một phần hoặc toàn bộ nội dung đơn kiện, sửa đổi hoặc hủy bỏ quyết định  hành chính, hành vi hành chính… 

Tòa án thực hiện ủy thác thu thập tài liệu, chứng cứ: Để phục vụ cho hoạt  động tố tụng, Tòa án có quyền tự mình hoặc ủy thác tiến hành xác minh, thu thập  tài liệu, chứng cứ để làm rõ các tình tiết của vụ án Việc ủy thác của Tòa án được  coi là hoạt động hỗ trợ, là biện pháp nhằm thu thập tài liệu, chứng cứ phục vụ cho  tố tụng hành chính. Tuy nhiên nếu không thực hiện tốt hoạt động ủy thác có thể dẫn đến kéo dài thời gian giải quyết vụ án, ảnh hưởng đến quyền của đương sự cũng như khó khăn cho các tòa án, cơ quan được ủy thác. 

Thứ ba, về phạm vi thông tin được tiếp cận trong tố tụng hành chính 

Hoạt động tố tụng hành chính bao gồm khởi kiện, thụ lý, xét xử (sơ thẩm,  phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm) và thi hành án hành chính. Do đó, thông tin  trong tố tụng hành chính cũng bao gồm: 

Một là, thông tin về chứng cứ trong vụ án hành chính. Chứng cứ trong vụ án  hành chính là những gì có thật được đương sự, cá nhân, tổ chức khác giao nộp, xuất  trình cho Tòa án trong quá trình tố tụng hoặc do Tòa án thu thập được theo trình tự,  thủ tục do pháp luật quy định mà Tòa án dùng làm căn cứ để xác định các tình tiết  khách quan của vụ án cũng như xác định yêu cầu hay sự phản đối của đương sự là  có căn cứ và hợp pháp [2, Điều 80]. Theo đó, chứng cứ được thu thập từ các nguồn  chứng cứ theo quy định của pháp luật. Đương sự có quyền được biết các chứng cứ này để phục vụ cho việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, cũng như giải  quyết một cách đúng đắn các vụ án hành chính. 

Hai là, thông tin về quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong quá trình tham  gia tố tụng hành chính. Đây là những thông tin về quyền, nghĩa vụ được pháp luật  quy định mà các chủ thể tiến hành tố tụng, tham gia tố tụng bắt buộc cần phải biết  nhằm tạo thuận lợi cho quá trình giải quyết vụ án hành chính, đương sự có thể bảo  vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chính mình và đồng thời cũng làm cho hoạt động  tố tụng hành chính được thực hiện theo đúng quy trình, thủ tục. 

Ba là, thông tin về xét xử. Theo đó, đương sự trong tố tụng hành chính có  quyền được biết các quy trình, thủ tục tố tụng (sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc  thẩm, tái thẩm), tức là toàn bộ quá trình xem xét, đánh giá bản chất pháp lý của  vụ việc nhằm đưa ra một phán xét về tính chất, mức độ pháp lý của vụ việc theo  cấp độ, nội dung xét xử; các bản án, quyết định của Tòa án. 

Bốn là, thông tin về thi hành án hành chính. Đây là những thông tin mà  đương sự có quyền được biết nhằm biết được chủ thể thực hiện thi hành án hành chính, nội dung thực hiện cũng như kết quả thực hiện, từ đó tạo sự tin tưởng của  đương sự vào Tòa án nhân dân. 

Thứ tư, quyền tiếp cận thông tin là quyền có thể bị hạn chế theo luật định 

Thông thường, các chủ thể có nghĩa vụ theo luật định phải cung cấp thông  tin một cách đầy đủ, chính xác, không được cung cấp thiếu nhằm bảo vệ quyền,  lợi ích hợp pháp của đương sự khi tham gia hoạt động tố tụng hành chính. Tuy  nhiên, trong một số trường hợp các chủ thể có quyền không cung cấp những thông  tin có liên quan đến bí mật nhà nước, thuần phong, mỹ tục của dân tộc, bí mật  nghề nghiệp, bí mật kinh doanh, bí mật cá nhân(Khoản 2,Điều 69, Khoản 2 Điều  182 Luật Tố tụng hành chính; Điều 6 Luật Tiếp cận thông tin).Bởi nếu những  thông tin này bị lộ ra bên ngoài sẽ gây ra những hậu quả nghiêm trọng, những ảnh  hưởng xấu đến quốc phòng-an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, hiệu quả hoạt động sản xuất-kinh doanh của các doanh nghiệp, quyền và lợi  ích hợp pháp của các các tổ chức, cá nhân. Do đó, pháp luật tố tụng hành chính ở một số nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam quy định những loại thông tin  mà đương sự có quyền được tiếp cận và những loại thông tin không được tiếp cận.  Các chủ thể cung cấp thông tin không có nghĩa vụ cung cấp hết thông tin cho  trong một số trường hợp cụ thể theo luật định. 

1.1.3. Vai trò của quyền tiếp cận thông tin trong tố tụng hành chính 

Tiếp cận thông tin được coi là một trong 5 bước của quy trình tố tụng hành  chính ở nhiều quốc gia trên thế giới [6].Bảo đảm quyền tiếp cận thông tin trong tố tụng hành chính là việc Nhà nước thiết lập các điều kiện cần thiết nhằm ghi nhận,  tôn trọng và thực hiện các quyền công dân trong quá trình giải quyết các khiếu kiện  hành chính bằng con đường tố tụng, thông qua hoạt động xét xử của Tòa án nhân  dân, theo một cơ chế riêng được điều chỉnh bởi luật tố tụng hành chính. Bảo đảm  quyền tiếp cận thông tin trong tố tụng hành chính là bảo đảm dân chủ, bảo đảm  hiệu lực, hiệu quả trong quản lý nhà nước, cũng là bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp  của công dân trong tố tụng hành chính. Trong quá trình giải quyết các khiếu kiện  hành chính bằng con đường tố tụng hành chính, Nhà nước tạo các điều kiện cần thiết để các cá nhân công dân thực hiện các quyền công dân của mình, thể hiện ở việc ghi nhận các quyền công dân tại Hiến pháp, Luật tố tụng hành chính; đồng thời  Nhà nước thiết lập cơ chế bảo đảm quyền công dân, đó là các quy định tạo điều  kiện cho tự thực hiện quyền công dân của mình và các quy định về thẩm quyền và  trách nhiệm của Tòa Hành chính, sự kiểm tra, giám sát của Viện kiểm sát nhân dân  trong tố tụng hành chính… 

Thứ nhất, tiếp cận thông tin trong tố tụng hành chính góp phần bảo đảm  quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân trong xây dựng nhà  nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa 

Hiến pháp năm 2013 đã bổ sung, làm rõ bản chất của Nhà nước pháp quyền  xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đó là Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân  dân [1, Điều 2]. Theo đó, Nhà nước pháp quyền thượng tôn Hiến pháp và pháp  luật, các quy định tại Hiến pháp là nền tảng cho toàn bộ hệ thống luật pháp bởi  những điều luật này sẽ được cụ thể hóa thành các bộ luật, luật để điều chỉnh các  quan hệ xã hội. Mọi chủ thể trong xã hội đều phải tuân thủ Hiến pháp và pháp  luật. Đồng thời, ở nhà nước pháp quyền có sự bình đẳng giữa mọi người (nhà  nước, tập thể và cá nhân đều bình đẳng trước pháp luật), không phân biệt đối xử trong việc công nhận, thụ hưởng và phát triển các quyền con người, quyền công  dân. Điều đó cho thấy, nhà nước pháp quyền phải xác lập được cơ chế bảo vệ, bảo  đảm thực hiện các quyền công dân cho người dân khi tham gia vào các quan hệ xã hội và khi có tranh chấp; đặc biệt khi phát sinh tranh chấp hành chính giữa  công dân với các cơ quan nhà nước hoặc với người có thẩm quyền thì chỉ có Tòa  án mới có thẩm quyền phán xét việc tuân thủ pháp luật của các bên và hệ thống  Tòa án độc lập sẽ là bảo đảm cuối cùng cho công dân có đủ khả năng và điều kiện  bảo đảm quyền công dân của mình khi bị xâm phạm. Do vậy, việc Nhà nước tạo  các điều kiện pháp lý nhằm bảo đảm quyền công dân trong tố tụng hành chính sẽ góp phần bảo đảm quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân trong  xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN.

Thứ hai, tiếp cận thông tin trong tố tụng hành chính góp phần thực hiện  trách nhiệm của Nhà nước bảo đảm quyền của cá nhân, của công dân khởi kiện 

Nhà nước là chủ thể có nghĩa vụ bảo vệ công lý, bảo vệ, bảo đảm quyền con  người, bảo đảm các quyền và nghĩa vụ công dân được ghi nhận theo Hiến pháp và  pháp luật. Nhà nước chủ động, tích cực xây dựng hệ thống pháp luật, các chương  trình, kế hoạch và triển khai đồng bộ xuyên suốt các nội dung bảo đảm quyền công  dân trong các chương trình xây dựng pháp luật của Quốc hội. Hiến pháp và pháp luật  là cơ sở, căn cứ pháp lý để công dân thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình trong  các quan hệ xã hội, trong đó có quan hệ hành chính. Hiến pháp được coi là công cụ quan trọng hàng đầu được Nhà nước sử dụng để bảo đảm quyền công dân, là “điều  kiện tiên quyết cho việc đảm bảo các quyền cơ bản của công dân” [13, tr.39]. 

Vì vậy, các cơ quan nhà nước trong đó có các cơ quan bảo vệ pháp luật,  cán bộ, công chức,phải tôn trọng và bảo đảm quyền của cá nhân, công dân tham  gia trong tố tụng hành chính. 

Thứ ba, quyền tiếp cận thông tin trong tố tụng hành chính góp phần  phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong hoạt động của bộ máy nhà nước, của  cán bộ, công chức 

Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, với  phương hướng xây dựng bộ máy nhà nước tinh gọn, trong sạch, vững mạnh, đấu  tranh phòng chống quan liêu, tham nhũng, tiêu cực trong hoạt động của bộ máy nhà  nước, của cán bộ, công chức. Tham nhũng, quan liêu, tiêu cực là hành vi của người  lạm dụng chức vụ, quyền hạn hoặc cố ý làm trái quy định của pháp luật để phục vụ lợi ích cá nhân nên đó là căn bệnh xã hội nguy hiểm cản trở sự phát triển của đất  nước và làm giảm niềm tin của người dân đối với Đảng, Nhà nước. Để giải quyết  vấn đề này, các cơ quan nhà nước, Chính phủ đã tăng cường chỉ đạo xây dựng,  hoàn thiện và tổ chức thực hiện các thể chế, cơ chế, chính sách (như xây dựng quy  tắc ứng xử, trách nhiệm người đứng đầu, cải cách thủ tục hành chính…) nhằm nâng  cao hiệu lực hiệu quả quản lý nhà nước trên mọi lĩnh vực.

Trong quan hệ hành chính phát sinh hàng ngày giữa Nhà nước (đại diện là  cơ quan nhà nước và người có thẩm quyền) với công dân, mọi quyết định hành  chính hoặc hành vi hành chính của người có thẩm quyền đều ảnh hưởng trực tiếp  đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Do đó, trong quan hệ này dễ xảy ra  tranh chấp, khiếu kiện hành chính. Với vai trò là cơ quan giải quyết tranh chấp hành  chính, trên cơ sở quy định của pháp luật, Tòa Hành chính ra phán quyết về tính hợp  pháp của các quyết định, hành vi hành chính bị khiếu kiện, qua đó bảo đảm quyền  công dân của người dân trên thực tế. Đồng thời, việc buộc cơ quan nhà nước, người  có thẩm quyền phải thực hiện bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật đã góp phần  tích cực nâng cao ý thức, tính chịu trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, người  có thẩm quyền trước người dân, góp phần đấu tranh, phòng chống quan liêu, tham  nhũng, tiêu cực của các cán bộ, công chức trong hoạt động quản lý nhà nước. 

Thứ tư, quyền tiếp cận thông tin trong tố tụng hành chính góp phần nâng  cao hiệu quả hoạt động quản lý hành chính nhà nước 

Hoạt động giải quyết các vụ án hành chính được thực hiện theo đúng quy  định của pháp luật, đặc biệt tại phiên tòa xét xử vụ án hành chính nếu được tiến  hành tốt, khoa học, khách quan sẽ tạo ra một cơ chế tư pháp độc lập giám sát hoạt  động hành pháp. Thông qua hoạt động xem xét tính hợp pháp của quyết định hành  chính, hành vi hành chính, Tòa Hành chính đã tác động trực tiếp đến hoạt động  quản lý hành chính nhà nước, đến người có thẩm quyền, nhằm hạn chế, khắc phục  những hậu quả pháp lý phát sinh từ hoạt động của các chủ thể quản lý hành chính.  Từ đó, góp phần nâng cao ý thức, trách nhiệm trong hoạt động công vụ của các  cơ quan hành chính nhà nước, người có thẩm quyền, ngăn ngừa những hành vi vi  phạm quyền công dân từ phía cơ quan hành chính nhà nước, người có thẩm quyền. 

Bên cạnh đó, trong quá trình giải quyết vụ án hành chính, nếu Tòa án phát  hiện được những văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến việc giải quyết vụ án  hành chính có dấu hiệu trái với Hiến pháp, pháp luật, Tòa án có quyền kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc đề nghị người có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung hoặc bãi bỏ văn bản quy phạm pháp luật đó. Với nhiệm vụ này, Tòa Hành  chính đã giữ vai trò quan trọng trong việc hoàn thiện hệ thống pháp luật hành  chính, nâng cao ý thức trách nhiệm của cán bộ công chức, cơ quan nhà nước, đồng  thời góp phần nâng cao hiệu quả quản lý hành chính nhà nước. 

Theo tác giả: Nguyễn Trung Thành

Link tài liệu đính kèm : https://drive.google.com/file/d/1EA-g0M5jgSwQDLNwrOS5AymwCdb61mYL/view

 

 

avatar
Đặng Quỳnh
589 ngày trước
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN TIẾP CẬN THÔNG TIN TRONG TỐ TỤNG HÀNH CHÍNH
1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của quyền tiếp cận thông tin trong tố  tụng hành chính 1.1.1. Khái niệm quyền tiếp cận thông tin trong tố tụng hành chính 1.1.1.1. Khái niệm quyền tiếp cận thông tin “Tự do thông tin” (freedom of information) thường được coi là đồng nghĩa  với “quyền tiếp cận thông tin” (right to access information), là một trong những  quyền cơ bản của con người. Theo Tuyên ngôn Thế giới về Quyền con người được  Đại hội đồng Liên hiệp quốc thông qua tại Nghị quyết số 217A (III) ngày  10/12/1948, nội dung quyền đang xét bao hàm cả quyền tìm kiếm, tiếp nhận và phổ biến thông tin. Điều 19 của Tuyên ngôn khẳng định: “Mọi người đều có quyền tự  do ngôn luận và bày tỏ ý kiến; quyền này bao gồm quyền tự do giữ quan điểm  không có sự can thiệp, tự do tìm kiếm, tiếp nhận và chia sẻ các ý tưởng và thông  tin bằng bất kỳ phương tiện nào và không có biên giới”. Điều 19 Công ước Quốc  tế về Các quyền dân sự, chính trị (năm 1966) cũng viết: “Mọi người đều có quyền  tự do ngôn luận. Quyền này bao gồm cả quyền tự do tìm kiếm, nhận và truyền đạt  mọi loại tin tức, ý kiến, không phân biệt ranh giới, hình thức tuyên truyền miệng,  hoặc bằng văn bản viết, in, hoặc bằng hình thức nghệ thuật hoặc thông qua mọi  phương tiện đại chúng khác tùy theo sự lựa chọn của họ” [22, tr.187]. Tuy nhiên,  xét về tính chất, có thể coi “quyền tiếp cận thông tin” nằm trong nội hàm của “tự do thông tin”, bởi khái niệm thứ nhất chủ yếu nói đến khả năng tìm kiếm, tiếp cận  và phổ biến những thông tin được ban hành và lưu giữ tại các cơ quan, tổ chức công  quyền, đặc biệt là các cơ quan hành chính nhà nước; trong khi đó khái niệm thứ hai  muốn nói đến khả năng tìm kiếm, tiếp cận và phổ biến mọi loại thông tin bất kể chủ  thể nắm giữ và có thể cho nhiều mục đích (giải trí, học thuật, chính trị, văn hóa,…). Quyền tiếp cận thông tin đôi khi cũng được giải thích với nghĩa hẹp hơn là  “quyền được thông tin” (right to information), hay quyền được biết về tổ chức và hoạt động của một chủ thể nào đó, đặc biệt là của các cơ quan nhà nước. Quyền  tiếp cận thông tin thể hiện tính chủ động của chủ thể tiếp cận, trong khi đó, quyền  được thông tin thể hiện một hình thức tiếp cận bị động. Bên cạnh đó, cũng cần hiểu  “được thông tin” ở góc độ kết quả thụ hưởng cuối cùng. Sự thụ hưởng ở đây có thể là hiển nhiên (do người khác chủ động cung cấp) cũng có thể là không hiển nhiên.  Để được thông tin, các chủ thể thụ hưởng cần phải có những hành động tác động  nhất định (yêu cầu cung cấp thông tin) đến chủ thể nắm giữ thông tin. Được thông  tin có thể hiểu là kết quả của hành vi chủ động thông tin từ phía chủ thể nắm giữ thông tin tới chủ thể tiếp nhận. Tức là chủ thể nắm giữ thông tin chủ động công  khai thông tin và chủ thể tiếp cận thu nhận thông tin một cách bị động. Được thông  tin ở đây cũng có thể hiểu là việc chủ thể nắm giữ thông tin đáp ứng các yêu cầu  (yêu sách) đòi được cung cấp thông tin của chủ thể tiếp nhận thông tin. Tức là chủ thể nắm giữ thông tin cung cấp thông tin một cách bị động theo các yêu cầu cụ thể của chủ thể tiếp nhận thông tin.  Như vậy, cách hiểu quyền được thông tin tức là người dân được đặt ở vị trí  bị động khi tiếp cận thông tin là thiếu khoa học và không chính xác. Mặt khác,  quyền tiếp cận thông tin cũng phải được hiểu theo cả hai hướng chủ động lẫn bị động. Đó là quyền của các chủ thể bằng cách này hay cách khác tiếp cận các thông  tin đã được công khai (tiếp cận thụ động). Đồng thời tiếp cận thông tin cũng là  cách tiếp cận mà chủ thể tiếp nhận thông tin phải đưa ra các yêu cầu đối với các  chủ thể nắm giữ để có được thông tin mình cần (tiếp cận chủ động). Cả hai thuật  ngữ quyền tiếp cận thông tin và quyền được thông tin đều đề cập đến quyền của  chủ thể được tự do tìm kiếm và tiếp nhận thông tin. Tuy nhiên, cách hiểu này là  chưa tương thích với nhận thức và quy định chung của luật pháp quốc tế, trong đó  coi “quyền được thông tin” chỉ là một trong ba khía cạnh của quyền tiếp cận thông  tin (gồm: Quyền được thông tin; quyền được tìm kiếm, yêu cầu cung cấp thông  tin; và quyền được phổ biến thông tin). Trách nhiệm bảo đảm quyền tiếp cận thông tin thuộc về Nhà nước nhằm hiện  thực hóa quyền tiếp cận thông tin của công dân đã được hiến định trong Hiến pháp  2013. Bảo đảm quyền tiếp cận thông tin được xem là tiền đề thực hiện đảm bảo thực hiện các quyền chính trị, dân sự và các quyền kinh tế, văn hóa, xã hội của công  dân. Bảo đảm quyền tiếp cận thông tin sẽ đảm bảo cá nhân được thông tin về hoạt  động của các cơ quan nhà nước và có thể tham gia giám sát phản biện xã hội; ngăn  ngừa việc cơ quan nhà nước đưa ra những quyết định có thể xâm phạm các quyền  công dân khác. Có thể nói, việc bảo đảm quyền tiếp cận thông tin có ý nghĩa quan  trọng trong sự phát triển đất nước, góp phần thúc đẩy sự phát triển nền dân chủ của  các quốc gia, góp phần củng cố mối quan hệ giữa Nhà nước và công dân. Ngoài ra,  việc bảo đảm quyền tiếp cận thông tin cũng làm tăng tính hiệu quả, minh bạch và  trách nhiệm giải trình của cơ quan nhà nước trong việc thực hành công vụ. Từ việc  bảo đảm quyền này cũng góp phần nâng cao chất lượng của các chính sách pháp  luật khi đi vào đời sống xã hội… Như vậy, khái niệm được sử dụng trong luận án gắn với các thông tin đặc  thù do đó nên: Quyền tiếp cận thông tin là quyền của công dân nhằm tìm kiếm,  tiếp nhận, lưu giữ, phổ biến, sử dụng thông tin được ban hành và lưu giữ tại các  cơ quan, tổ chức công quyền. Theo cách hiểu này thì quyền tiếp cận thông tin bao  hàm đầy đủ các quyền của người dân đối với thông tin trong tương quan với các  quyền tự do khác của con người, như: Tự do tư tưởng, tự do tín ngưỡng và tôn giáo,  tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do biểu tình, tự do lập hội… 1.1.1.2. Khái niệm tố tụng hành chính Tố tụng hành chính là một trong những khái niệm khá mới mẻ cả về phương  diện lý luận và thực tiễn của hoạt động tư pháp ở Việt Nam. Hiện nay, có một số quan điểm, khái niệm khác nhau về tố tụng hành chính, cụ thể như sau: “Tố tụng hành chính được xem là một dạng của hoạt động tài phán. Trong  tiếng Latinh “tài phán” là “jurisdictio”, trong tiếng Anh là “jurisdiction”. Theo  nghĩa rộng, tài phán là quyền lực của cơ quan nhà nước trong việc xem xét tính  đúng sai của các hoạt động hành pháp diễn ra trên phạm vi lãnh thổ nhất định.  Còn theo nghĩa hẹp, thuật ngữ này dùng để chỉ thẩm quyền của Tòa án trong việc  xem xét, đánh giá và ra các phán quyết đối với vụ việc cụ thể và các đối tượng  xác định”[39, tr.86]. Theo khái niệm này thì tài phán có thể được hiểu bao gồm hoạt động giải quyết tranh chấp của Tòa án và hoạt động giải quyết tranh chấp  thuộc thẩm quyền của cơ quan hành chính [39, tr.86]. Tuy nhiên, có tác giả cho  rằng: “Tố tụng hành chính là toàn bộ hoạt động của Tòa án, Viện kiểm sát, người  tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng, của cá nhân, của cơ quan Nhà nước và  tổ chức trong việc giải quyết vụ án hành chính, cũng như trình tự do pháp luật  quy định đối với việc khởi kiện, thụ lý, giải quyết vụ án hành chính và thi hành  bản án, quyết định của Tòa án về vụ án hành chính” [30, tr.12]. Còn theo Từ điển  Luật học, tố tụng hành chính được định nghĩa là “trình tự giải quyết vụ án hành  chính theo quy định của pháp luật tại Tòa án nhằm giải quyết các khiếu kiện đối  với quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan nhà nước và của cán  bộ, công chức thuộc những cơ quan này” [75, tr.785]. Mặc dù có nhiều quan niệm, cách hiểu khác nhau, nhưng nghiên cứu sinh  cho rằng: Tố tụng hành chính là trình tự giải quyết vụ án hành chính theo quy định  của pháp luật tại tòa án nhằm giải quyết các khiếu kiện đối với quyết định hành  chính, hành vi hành chính của cơ quan nhà nước, của công chức, cán bộ thuộc  những cơ quan này. So với cơ chế giải quyết các khiếu kiện hành chính bằng thủ tục giải quyết khiếu nại hành chính, tố tụng hành chính có nhiều ưu điểm lớn đó  là các khiếu kiện được giải quyết bởi một hệ thống cơ quan chuyên trách độc lập  là các Tòa hành chính thuộc Tòa án nhân dân. Không những thế, thủ tục tố tụng  hành chính còn bảo đảm cho sự bình đẳng giữa công dân và các cơ quan công  quyền; đồng thời là cơ chế hữu hiệu góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp  của các cá nhân, tổ chức khi các quyền lợi của họ bị xâm phạm bởi các quyết định,  hành vi hành chính của các cơ quan công quyền. Ngoài khái niệm tố tụng hành chính, ta cũng cần phải hiểu rõ các đương sự trong vụ án hành chính. Đương sự trong vụ án hành chính có thể được hiểu là  người tham gia tố tụng để bảo vệ quyền, lợi ích của mình hoặc bảo vệ lợi ích công  cộng, lợi ích của Nhà nước thuộc lĩnh vực mình phụ trách do có quyền, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hành chính. Họ có thể là cá nhân, cơ quan hoặc tổ chức tham  gia tố tụng với tư cách là người khởi kiện, người bị kiện và người có quyền lợi,  nghĩa vụ liên quan trong vụ án hành chính. Theo đó:Người khởi kiện là người tham gia tố tụng khởi kiện vụ án hành chính nhằm  bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Tuy cũng tham gia tố tụng để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình như các đương sự khác nhưng việc tham gia tố tụng của người khởi kiện mang tính chủ động. Trong tố tụng hành chính, hoạt  động tố tụng của người khởi kiện có thể dẫn dến việc làm phát sinh, thay đổi hay  đình chỉ tố tụng. Người bị kiện là người tham gia tố tụng để trả lời về việc kiện do bị người  khởi kiện hoặc bị người khác khởi kiện theo quy định của pháp luật. Việc tham  gia vào vụ án hành chính của người bị kiện mang tính bị động chứ không chủ động như người khởi kiện. Do bị người khởi kiện hoặc người đại diện của họ khởi  kiện nên người bị kiện phải tham gia tố tụng để trả lời về việc kiện. Tuy nhiên,  hoạt động tố tụng hành chính của người bị kiện cũng có thể làm thay đổi quá trình  giải quyết vụ án hành chính. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án hành chính là người  tham gia tố tụng vào vụ án hành chính đã phát sinh giữa người khởi kiện và người  bị kiện để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Việc tham gia tố tụng của  người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án hành chính có thể do họ chủ  động, theo yêu cầu của người khởi kiện hoặc theo yêu cầu của Tòa án. Người có  quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không khởi kiện vụ án cũng như không bị kiện mà  là người tham gia tố tụng khi vụ án đã xuất hiện giữa người khởi kiện, người bị kiện để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ. Việc tham gia tố tụng của họ trong  vụ án hành chính là do họ có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hành chính.  Ngoài ra, việc tham gia tố tụng còn xuất phát từ các căn cứ pháp lý khác. Đặc điểm của tố tụng hành chính: Thứ nhất, tố tụng hành chính là tổ chức và hoạt động xét xử các tranh chấp  hành chính phát sinh khi có đơn khởi kiện vụ án hành chính giữa công dân, tổ chức với các cơ quan, tổ chức, cá nhân công quyền. Thứ hai, cơ quan tiến hành tố tụng hành chính ở Việt Nam là Tòa án và  Viện kiểm sát. Trong hoạt động, các cơ quan này được nhân danh Nhà nước thực hiện quyền và nghĩa vụ tố tụng để giải quyết vụ án hành chính cụ thể theo đúng  quy định của pháp luật tố tụng. Thứ ba, đối tượng khởi kiện vụ án hành chính trong tố tụng hành chính là  các quyết định hành chính, hành vi hành chính do người có thẩm quyền trong các  cơ quan công quyền ban hành hoặc thực hiện. Thứ tư, tố tụng hành chính được thực hiện theo trình tự, thủ tục, do pháp  luật tố tụng hành chính quy định. Luật Tố tụng hành chính (được Quốc hội khóa  13 thông qua ngày 25/11/2015 và có hiệu lực kể từ ngày 01/07/2016) là văn bản  có hiệu lực pháp lý cao nhất trong công tác giải quyết các vụ án hành chính ở Việt  Nam hiện nay. 1.1.1.3. Khái niệm quyền tiếp cận thông tin trong tố tụng hành chính Tiếp cận thông tin trong tố tụng hành chính có nội hàm xuất phát từ quyền  tiếp cận thông tin nói chung như đã nói ở trên, so với quyền tiếp cận thông tin  khác thì các thông tin trong tố tụng hành chính là những thông tin mang tính đặc  thù. Trong tố tụng hành chính, các tài liệu, chứng cứ là các văn bản, giấy tờ, hình  ảnh, bản ghi âm, lời tường trình của người có liên quan,... là những “thông tin”  cần thiết, là cơ sở để các đương sự bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình và là cơ  sở để Tòa án ra quyết định hành chính. Vì vậy, có thể xem các “thông tin” này là  bằng chứng lột tả khách quan bản chất của sự việc. Trong quá trình giải quyết các  vụ án hành chính, Tòa án mà cụ thể là Thẩm phán được phân công giải quyết vụ  án phải dựa vào các tài liệu, chứng cứ do đương sự tham gia tố tụng xuất trình  cũng như được Tòa án thu thập để làm căn cứ xác định tính hợp pháp, chấp nhận  hay phản bác ý kiến, yêu cầu của đương sự. Tiếp cận thông tin trong tố tụng hành chính là một trong những nội dung quan trọng nhằm bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các cơ quan, tổ chức, cá  nhân, đồng thời đảm bảo tính hiệu lực, hiệu quả trong thực thi pháp luật hiện hành. Quyền tiếp cận thông tin của người dân đã được ghi nhận trong Hiến pháp và đã  được cụ thể hóa trong một số văn bản pháp luật chuyên ngành. Tại Điều 98, Luật  Tố tụng hành chính năm 2015, quy định, quyền tiếp cận, trao đổi tài liệu, chứng cứ của đương sự trong vụ án hành chính “Đương sự có quyền được biết, ghi chép,  sao chụp, trao đổi tài liệu, chứng cứ do đương sự khác giao nộp cho Tòa án hoặc  do Tòa án thu thập được, trừ tài liệu, chứng cứ quy định tại Khoản 2 Điều 96 của  Luật này (Tòa án không công khai nội dung chứng cứ có liên quan đến bí mật nhà  nước, thuần phong, mỹ tục của dân tộc, bí mật nghề nghiệp, bí mật kinh doanh,  bí mật cá nhân theo yêu cầu chính đáng của đương sự nhưng phải thông báo cho  đương sự biết những chứng cứ không được công khai)”. Mặc dù quyền tiếp cận thông tin nói chung và quyền tiếp cận thông tin trong  tố tụng hành chính nói riêng đã được đề cập đến trong một số văn bản cụ thể, tuy  nhiên, cho đến nay, chưa có một khái niệm chính thức nào được đưa ra về quyền  tiếp cận thông tin trong tố tụng hành chính. Hiện nay, các công trình nghiên cứu,  các bài viết chủ yếu đề cập đến các khái niệm về quyền tiếp cận thông tin, khái  niệm về tố tụng hành chính. Xét về bản chất, quyền tiếp cận thông tin là quyền của  công dân nhằm tìm kiếm, tiếp nhận, lưu giữ, phổ biến, sử dụng tất cả các thông tin  được ban hành và lưu giữ tại các cơ quan, tổ chức công quyền theo quy định, các  thông tin này được cung cấp dưới cả hai hình thức là chủ động và bị động. Còn tố  tụng hành chính là những trình tự để giải quyết các vụ án hành chính theo quy định  của pháp luật. Thông qua trình tự này, Tòa án và các cơ quan tiến hành tố tụng sẽ  hỗ trợ giải quyết các khiếu kiện của cá nhân, tổ chức đối với các quyết định, hành  vi hành chính của các cơ quan nhà nước, cá nhân, tổ chức có thẩm quyền gây ảnh  hưởng đến quyền và lợi ích chính đáng của chủ thể bị xâm phạm. Từ những phân tích ở trên, nghiên cứu sinh đưa ra khái niệm như sau:  “Quyền tiếp cận thông tin trong tố tụng hành chính là quyền của đương sự nhằm  tìm kiếm, ghi chép, sao chụp, phổ biến/trao đổi các tài liệu, chứng cứ từ các cơ  quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của  bản thân trong tố tụng hành chính”. Việc đảm bảo quyền nói chung và quyền tiếp cận thông tin nói riêng của  các đương sự trong tố tụng hành chính là trách nhiệm của Nhà nước thông qua bộ  máy của mình1.1.2. Đặc điểm của quyền tiếp cận thông tin trong tố tụng hành chính Thứ nhất, quyền tiếp cận thông tin trong tố tụng hành chính là một trong  những quyền cơ bản của đương sự được ghi nhận bằng pháp luật  Trong hoạt động tố tụng hành chính, quyền tiếp cận thông tin của các đương  sự có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của  mình. Trong khi đó, với vị thế bất cân xứng giữa người khởi kiện, người có quyền  lợi, nghĩa vụ liên quan và bên bị kiện là các cơ quan, tổ chức, cá nhân công quyền  dẫn đến việc tiếp cận thông tin hết sức khó khăn. Vì vậy, để đảm bảo việc thực  hiện có hiệu quả trên thực tế thì cần phải có một cơ sở pháp lý vững chắc, đầy đủ ghi nhận quyền tiếp cận thông tin của các đương sự. Pháp luật ghi nhận quyền tiếp cận thông tin trong tố tụng hành chính của  người dân cũng như quyền của các đương sự trong tố tụng hành chính. Cụ thể là  đương sự được phép tiếp cận thông tin của các cơ quan nhà nước (trừ các thông tin  thuộc bí mật nhà nước); có quyền tiếp cận với các tài liệu, chứng cứ được đương  sự khác, các cá nhân, tổ chức, cơ quan có liên quan giao nộp hoặc các chứng cứ, tài  liệu mà tòa án thu thập được. Việc pháp luật ghi nhận sẽ bảo đảm thực thi quyền  của đương sự trong tố tụng hành chính với tư cách quyền con người được minh  bạch, rõ ràng và hiệu quả hơn..  Sự ghi nhận của pháp luật cũng giúp thể hiện rõ các nội hàm của quyền như  chủ thể áp dụng quyền (chủ thể quyền, chủ thể bảo đảm); nội dung của  quyền(quyền tiếp cận, thu thập, sử dụng, chia sẻ…thông tin); trách nhiệm, nghĩa  vụ (thu thập, cung cấp, chia sẻ, công khai thông tin…) đồng thời cũng quy định  cụ thể về quá trình thực hiện quyền như cơ quan - tổ chức – cá nhân chịu trách  nhiệm thực hiện; quy trình, trình tự, thủ tục thực hiện… Thứ hai, chủ thể liên quan đến quyền tiếp cận thông tin trong tố tụng hành  chính bao gồm chủ thể thực hiện quyền tiếp cận thông tin, chủ thể bảo đảm quyền  tiếp cận thông tin Về chủ thể quyền tiếp cận thông tin trong tố tụng hành chính bao gồm người  khởi kiện, người bị kiện và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Những chủ thể này yêu cầu những chủ thể có nghĩa vụ phải cung cấp thông tin để có thể bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của mình. Để thực hiện tốt quyền tiếp  cận thông tin, không chỉ dựa trên năng lực cá nhân, mà cần phải có sự bảo đảm của  pháp luật, của các cơ quan nhà nước. Hầu hết luật tiếp cận thông tin của các quốc  gia đều cho phép bất kỳ cá nhân nào cũng có quyền yêu cầu cung cấp thông tin mà  không kể đến lợi ích pháp lý, địa vị pháp lý và nơi cư trú. Trong bối cảnh nền kinh  tế hội nhập toàn cầu, một số quốc gia trên thế giới quy định chủ thể không mang  quốc tịch của quốc gia sở tại cũng có thể yêu cầu được cung cấp những thông tin  nhất định, cụ thể như thông tin liên quan đến điều kiện cư trú, làm việc của người  nước ngoài,… Một số quốc gia như Phần Lan còn cho phép ẩn danh khi đưa ra các  yêu cầu cung cấp thông tin [76, tr.36].  Về năng lực chủ thể theo quy định của pháp luật tố tụng hành chính thì mọi  cá nhân, cơ quan nhà nước, tổ chức đều có quyền tiếp cận thông tin (năng lực pháp  luật). Tuy nhiên, bên cạnh năng lực pháp luật đó, cá nhân, cơ quan, tổ chức đều  phải có năng lực hành vi. Chủ thể quyền tiếp cận thông tin phải thể hiện được năng  lực của mình trong quá trình tiếp cận, sử dụng và khai thác thông tin hiệu quả. Cụ thể, đối với chủ thể quyền tiếp cận thông tin là các cá nhân: Một là, có năng lực pháp luật: Đây là loại năng lực của các chủ thể thực  hiện quyền tiếp cận thông tin được pháp luật tố tụng hành chính quy định. Tức là,  khả năng được hưởng những quyền tiếp cận thông tin như quyền sao chép, quyền  trao đổi thông tin, quyền tìm kiếm thông tin,… khi tham gia vào các giai đoạn của  quá trình tố tụng hành chính. Đồng thời, các chủ thể này cũng phải gánh chịu  những nghĩa vụ tương ứng. Hai là, có năng lực hành vi: Tức là khả năng tự mình sử dụng đúng đắn  quyền của mình do pháp luật tố tụng hành chính quy định một cách độc lập. Năng  lực hành vi được xác định thông qua độ tuổi và sức khỏe. Cụ thể là người thực  hiện quyền tiếp cận thông tin phải đủ 18 tuổi trở lên, có sức khỏe bình thường,  không có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần. Nếu người thực hiện quyền tiếp  cận thông tin bị hạn chế năng lực hành vi thì việc thực hiện quyền thông qua người  đại diện hợp pháp.Nếu đương sự là các cơ quan nhà nước, tổ chức thì việc thực hiện quyền  tiếp cận thông tin trong tố tụng hành chính thông qua người đại diện theo pháp  luật hoặc theo ủy quyền. Người đại diện theo pháp luật của cơ quan nhà nước, tổ chức là người đứng đầu cơ quan, tổ chức đó. Còn người đại diện theo ủy quyền là  bất kỳ người nào (có đầy đủ năng lực chủ thể) được đương sự ủy quyền đại diện  cho mình trong việc thực hiện quyền tiếp cận thông tin, trừ một số trường hợp  pháp luật quy định ngăn cấm. Việc mở rộng đối tượng được thực hiện quyền tiếp cận thông tin trong tố tụng hành chính tạo cơ hội cho đương sự được thỏa mãn nhu cầu thông tin của  mình và đảm bảo cho công lý được thực thi, bảo đảm tính hiệu lực, hiệu quả của  bản án. Tuy nhiên, trong khuôn khổ, phạm vi nghiên cứu của luận án này, tác giả chỉ đề cập đến quyền tiếp cận thông tin của cá nhân khởi kiện vụ án hành chính  đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính. Về chủ thể bảo đảm quyền tiếp cận thông tin trong tố tụng hành chính: Bảo  đảm quyền tiếp cận thông tin trong tố tụng hành chính hiệu quả luôn phụ thuộc vào  chủ thể nắm giữ thông tin hay nói cách khác là người có trách nhiệm cung cấp  thông tin cũng như TAND có đầy đủ nhận thức, quyền hạn và khả năng bảo đảm  quyền tiếp cận thông tin của đương sự. Tuy nhiên, trong tố tụng hành chính người  cung cấp thông tin có thể cũng chính là bên bị kiện, do đó thông thường để bảo vệ quyền và lợi ích, họ sẽ phớt lờ việc phải có nghĩa vụ cung cấp thông tin. Do đó, để bảo đảm quyền của người khởi kiện, những người thuộc diện yếu thế trong tố tụng  hành chính thì rất cần sự bảo đảm bằng trách nhiệm của nhà nước. Chủ thể bảo đảm  quyền tiếp cận thông tin trong tố tụng hành chính bao gồm các cơ quan nhà nước  và có thể chia thành hai nhóm đó là: Các cơ quan hành chính nhà nước và các cơ  quan tư pháp. Đối với chủ thể là cơ quan hành chính nhà nước Các cơ quan hành chính nhà nước là chủ thể thực hiện chức năng cung cấp  thông tin trong tố tụng hành chính. Có hai cách tiếp cận chính khi định nghĩa chủ thể nào cung cấp thông tin. Cách tiếp cận thứ nhất và thông thường nhất là chỉ cần định nghĩa các chủ thể và những vấn đề mang tính nguyên tắc, còn việc xác định  cụ thể sẽ được giải quyết theo từng trường hợp. Cách tiếp cận thứ hai là đưa ra danh  mục các tên của các chủ thể có nghĩa vụ cung cấp thông tin. Theo cách thứ hai có  ưu điểm là rõ ràng và cụ thể nhưng sẽ bị quá cứng nhắc, sau một thời gian thường  gặp những vướng mắc do danh sách chủ thể đưa ra có khi lại vừa thừa vừa thiếu.  Trong nhiều quốc gia thì các chủ thể tư nhân cũng phải chịu sự điều chỉnh của luật  tiếp cận thông tin, tuy nhiên, luật thường chỉ quy định nghĩa vụ của dạng chủ thể này phải cung cấp một số loại thông tin nhất định mà họ đang nắm giữ, thông  thường là các thông tin về quyền con người, thông tin về môi trường. Ngược lại, ở một số quốc gia, luật tiếp cận thông tin loại trừ một số cơ quan nhất định, có nắm  giữ những thông tin nhạy cảm khỏi phạm vi điều chỉnh. Thông thường đó là các cơ  quan cảnh sát, an ninh, quân đội và tình báo [76, tr.37]... Ở Việt Nam, trong tố tụng hành chính, chủ thể cung cấp thông tin không  chỉ giới hạn ở tòa án, mà đương sự còn có quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá  nhân khác cung cấp tài liệu, chứng cứ. Mặt khác, việc công khai các thông tin,  giao nộp các tài liệu chứng cứ cho tòa án để tòa án thông báo cho đương sự được  tiếp cận, và cung cấp thông tin, tài liệu theo yêu cầu của đương sự tham gia tố tụng theo những trình tự, thủ tục cũng được quy định cụ thể. Tuy nhiên, việc  cung cấp thông tin trong tố tụng hành chính đối với cá nhân là người nắm giữ  thông tin thường có vị thế, ưu thế hơn người yêu cầu cung cấp thông tin, do đó  cần có một cơ chế rõ ràng và cụ thể để việc cung cấp thông tin là trách nhiệm  pháp lý, khi đó các quyền và nghĩa vụ của các bên có liên quan mới bảo đảm  tính hiệu quả Đối với chủ thể là cơ quan tư pháp Bảo đảm quyền tiếp cận thông tin là quá trình thúc đẩy công bằng và thực  thi pháp luật, củng cố nhà nước pháp quyền. Việc bảo đảm quyền tiếp cận thông  tin sẽ góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người dân, làm tăng tính hiệu  quả, minh bạch và trách nhiệm giải trình của cơ quan nhà nước, nhất là cơ quan  thực hiện quyền tư pháp, nơi thực hiện nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con  người, quyền công dân, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Để bảo đảm quyền tiếp cận thông tin được thực hiện hiệu quả thì ngoài việc hoàn thiện  trách nhiệm pháp lý, nghĩa vụ của các cơ quan, tổ chức chia sẻ thông tin, Nhà nước  cần củng cố bộ máy bảo đảm quyền tiếp cận thông tin qua vai trò tòa án xét xử các  vụ án hành chính với đầy đủ cơ sở pháp lý cho quy trình thúc đẩy và bảo vệ quyền  tiếp cận thông tin của đương sự trong tố tụng hành chính... Vai trò của các cơ quan tư pháp trong việc đảm bảo quyền tiếp cận thông tin  trong tố tụng hành chính được thực hiện trên hai nội dung là: Bảo đảm các chủ thể khác phải cung cấp thông tin và thực hiện trách nhiệm cung cấp, công khai thông tin. (i) Các cơ quan tiến hành tố tụng đảm bảo các đương sự, các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan thực hiện trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ,  thông tin liên quan đến vụ án để làm căn cứ xét xử cũng như để đương sự có thể tiếp cận được. (ii) Tòa án, Viện kiểm sát thực hiện công khai các thông tin, chứng  cứ trong vụ án để các đương sự được biết, được tiếp cận. Việc công khai thông  tin của bao gồm các thông tin liên quan đến thủ tục xét xử vụ án... Trong các chủ thể đảm bảo quyền tiếp cận thông tin trong tố tụng hành chính, Tòa án hành chính  có vai trò đặc biệt quan trọng. Tòa án thực hiện đảm bảo quyền tiếp cận thông tin  của đương sự thông qua một số nội dung: Thông qua chức năng, thẩm quyền của Tòa án: Tòa án với sứ mệnh là bảo  vệ công lý, bảo vệ quyền con người, bảo vệ pháp luật, được Nhà nước giao trọng  trách, quyền lực. Do đó việc Tòa án thực hiện chức năng, trách nhiệm, nhiệm vụ tố tụng hành chính là nhằm đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của các đương sự trong  đó có quyền tiếp cận thông tin. Dựa trên chức năng, thẩm quyền được giao, Tòa án  xây dựng kế hoạch, phương pháp, cách thức tổ chức thực hiện, giải quyết các vụ án  hành chính. Việc Tòa án thực hiện đúng, đủ, hiệu quả chức năng, thẩm quyền của  mình vừa tạo ra sức mạnh pháp lý vừa tạo dựng hình ảnh của một nền tư pháp công  khai, minh bạch, công bằng, nghiêm minh, vì nhân dân phục vụ. Tòa án phải đảm bảo sự bình đẳng giữa các đương sự trong tố tụng hành  chính: Trong quá trình xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, Đảng ta đã xác  định “Cải cách tư pháp phải được tiến hành khẩn trương, đồng bộ, có trọng tâm,  trọng điểm với những bước đi vững chắc”. Riêng với tố tụng hành chính thực hiện  “Mở rộng thẩm quyền xét xử của tòa án đối với các khiếu kiện hành chính. Đổi mới mạnh mẽ thủ tục giải quyết các khiếu kiện hành chính tại tòa án; tạo điều kiện thuận  lợi cho người dân tham gia tố tụng, bảo đảm sự bình đẳng giữa công dân và cơ quan  công quyền trước tòa án” [10].  Như vậy có thể thấy, đảm bảo sự bình đẳng trong tố tụng hành chính là một  trong những nội dung của cải cách tư pháp nói chung và cải cách hoạt động tố tụng hành chính nói riêng mà nước ta hướng đến. Cần đảm bảo yếu tố này bởi  trong quan hệ quản lý hành chính, công dân là đối tượng chịu sự quản lý hành  chính của các cơ quan công quyền (cơ quan hành chính nhà nước). Quan hệ này  là quan hệ “quyền lực – phục tùng”. Tuy nhiên trong quan hệ tố tụng hành chính  Tòa án cần đảm bảo để quan hệ giữa công dân (người khởi kiện) – và cá nhân, cơ  quan công quyền Nhà nước (người bị khởi kiện) phải là quan hệ bình đẳng, công  bằng giữa “đương sự - đương sự”, đảm bảo mọi đương sự đều phải thực hiện quyền và nghĩa vụ đã được pháp luật quy định mà không có bất cứ trường hợp  ngoại lệ nào. Tòa án thực hiện hoạt động đối thoại trong tố tụng hành chính: Để bảo đảm  quyền của các đương sự; giải quyết vụ việc nhanh chóng, tiết kiệm thời gian, chi phí, công sức; nâng cao hiệu quả của hoạt động tố tụng, Tòa án thực hiện thủ tục  đối thoại giữa các đương sự. Trong quá trình đối thoại, các đương sự có quyền  cung cấp, chia sẻ các thông tin, tài liệu, chứng cứ liên quan để bảo vệ những nhận  định, quyền lợi, các quyết định mà mình đã ban hành. Đồng thời các đương sự cũng có quyền trao đổi, đối thoại, tranh luận với nhau để làm giảm các mâu thuẫn,  xung đột; đi đến đồng nhất quan điểm, nhận thức; thống nhất cách giải quyết có  thể rút một phần hoặc toàn bộ nội dung đơn kiện, sửa đổi hoặc hủy bỏ quyết định  hành chính, hành vi hành chính… Tòa án thực hiện ủy thác thu thập tài liệu, chứng cứ: Để phục vụ cho hoạt  động tố tụng, Tòa án có quyền tự mình hoặc ủy thác tiến hành xác minh, thu thập  tài liệu, chứng cứ để làm rõ các tình tiết của vụ án Việc ủy thác của Tòa án được  coi là hoạt động hỗ trợ, là biện pháp nhằm thu thập tài liệu, chứng cứ phục vụ cho  tố tụng hành chính. Tuy nhiên nếu không thực hiện tốt hoạt động ủy thác có thể dẫn đến kéo dài thời gian giải quyết vụ án, ảnh hưởng đến quyền của đương sự cũng như khó khăn cho các tòa án, cơ quan được ủy thác. Thứ ba, về phạm vi thông tin được tiếp cận trong tố tụng hành chính Hoạt động tố tụng hành chính bao gồm khởi kiện, thụ lý, xét xử (sơ thẩm,  phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm) và thi hành án hành chính. Do đó, thông tin  trong tố tụng hành chính cũng bao gồm: Một là, thông tin về chứng cứ trong vụ án hành chính. Chứng cứ trong vụ án  hành chính là những gì có thật được đương sự, cá nhân, tổ chức khác giao nộp, xuất  trình cho Tòa án trong quá trình tố tụng hoặc do Tòa án thu thập được theo trình tự,  thủ tục do pháp luật quy định mà Tòa án dùng làm căn cứ để xác định các tình tiết  khách quan của vụ án cũng như xác định yêu cầu hay sự phản đối của đương sự là  có căn cứ và hợp pháp [2, Điều 80]. Theo đó, chứng cứ được thu thập từ các nguồn  chứng cứ theo quy định của pháp luật. Đương sự có quyền được biết các chứng cứ này để phục vụ cho việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, cũng như giải  quyết một cách đúng đắn các vụ án hành chính. Hai là, thông tin về quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong quá trình tham  gia tố tụng hành chính. Đây là những thông tin về quyền, nghĩa vụ được pháp luật  quy định mà các chủ thể tiến hành tố tụng, tham gia tố tụng bắt buộc cần phải biết  nhằm tạo thuận lợi cho quá trình giải quyết vụ án hành chính, đương sự có thể bảo  vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chính mình và đồng thời cũng làm cho hoạt động  tố tụng hành chính được thực hiện theo đúng quy trình, thủ tục. Ba là, thông tin về xét xử. Theo đó, đương sự trong tố tụng hành chính có  quyền được biết các quy trình, thủ tục tố tụng (sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc  thẩm, tái thẩm), tức là toàn bộ quá trình xem xét, đánh giá bản chất pháp lý của  vụ việc nhằm đưa ra một phán xét về tính chất, mức độ pháp lý của vụ việc theo  cấp độ, nội dung xét xử; các bản án, quyết định của Tòa án. Bốn là, thông tin về thi hành án hành chính. Đây là những thông tin mà  đương sự có quyền được biết nhằm biết được chủ thể thực hiện thi hành án hành chính, nội dung thực hiện cũng như kết quả thực hiện, từ đó tạo sự tin tưởng của  đương sự vào Tòa án nhân dân. Thứ tư, quyền tiếp cận thông tin là quyền có thể bị hạn chế theo luật định Thông thường, các chủ thể có nghĩa vụ theo luật định phải cung cấp thông  tin một cách đầy đủ, chính xác, không được cung cấp thiếu nhằm bảo vệ quyền,  lợi ích hợp pháp của đương sự khi tham gia hoạt động tố tụng hành chính. Tuy  nhiên, trong một số trường hợp các chủ thể có quyền không cung cấp những thông  tin có liên quan đến bí mật nhà nước, thuần phong, mỹ tục của dân tộc, bí mật  nghề nghiệp, bí mật kinh doanh, bí mật cá nhân(Khoản 2,Điều 69, Khoản 2 Điều  182 Luật Tố tụng hành chính; Điều 6 Luật Tiếp cận thông tin).Bởi nếu những  thông tin này bị lộ ra bên ngoài sẽ gây ra những hậu quả nghiêm trọng, những ảnh  hưởng xấu đến quốc phòng-an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, hiệu quả hoạt động sản xuất-kinh doanh của các doanh nghiệp, quyền và lợi  ích hợp pháp của các các tổ chức, cá nhân. Do đó, pháp luật tố tụng hành chính ở một số nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam quy định những loại thông tin  mà đương sự có quyền được tiếp cận và những loại thông tin không được tiếp cận.  Các chủ thể cung cấp thông tin không có nghĩa vụ cung cấp hết thông tin cho  trong một số trường hợp cụ thể theo luật định. 1.1.3. Vai trò của quyền tiếp cận thông tin trong tố tụng hành chính Tiếp cận thông tin được coi là một trong 5 bước của quy trình tố tụng hành  chính ở nhiều quốc gia trên thế giới [6].Bảo đảm quyền tiếp cận thông tin trong tố tụng hành chính là việc Nhà nước thiết lập các điều kiện cần thiết nhằm ghi nhận,  tôn trọng và thực hiện các quyền công dân trong quá trình giải quyết các khiếu kiện  hành chính bằng con đường tố tụng, thông qua hoạt động xét xử của Tòa án nhân  dân, theo một cơ chế riêng được điều chỉnh bởi luật tố tụng hành chính. Bảo đảm  quyền tiếp cận thông tin trong tố tụng hành chính là bảo đảm dân chủ, bảo đảm  hiệu lực, hiệu quả trong quản lý nhà nước, cũng là bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp  của công dân trong tố tụng hành chính. Trong quá trình giải quyết các khiếu kiện  hành chính bằng con đường tố tụng hành chính, Nhà nước tạo các điều kiện cần thiết để các cá nhân công dân thực hiện các quyền công dân của mình, thể hiện ở việc ghi nhận các quyền công dân tại Hiến pháp, Luật tố tụng hành chính; đồng thời  Nhà nước thiết lập cơ chế bảo đảm quyền công dân, đó là các quy định tạo điều  kiện cho tự thực hiện quyền công dân của mình và các quy định về thẩm quyền và  trách nhiệm của Tòa Hành chính, sự kiểm tra, giám sát của Viện kiểm sát nhân dân  trong tố tụng hành chính… Thứ nhất, tiếp cận thông tin trong tố tụng hành chính góp phần bảo đảm  quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân trong xây dựng nhà  nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Hiến pháp năm 2013 đã bổ sung, làm rõ bản chất của Nhà nước pháp quyền  xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đó là Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân  dân [1, Điều 2]. Theo đó, Nhà nước pháp quyền thượng tôn Hiến pháp và pháp  luật, các quy định tại Hiến pháp là nền tảng cho toàn bộ hệ thống luật pháp bởi  những điều luật này sẽ được cụ thể hóa thành các bộ luật, luật để điều chỉnh các  quan hệ xã hội. Mọi chủ thể trong xã hội đều phải tuân thủ Hiến pháp và pháp  luật. Đồng thời, ở nhà nước pháp quyền có sự bình đẳng giữa mọi người (nhà  nước, tập thể và cá nhân đều bình đẳng trước pháp luật), không phân biệt đối xử trong việc công nhận, thụ hưởng và phát triển các quyền con người, quyền công  dân. Điều đó cho thấy, nhà nước pháp quyền phải xác lập được cơ chế bảo vệ, bảo  đảm thực hiện các quyền công dân cho người dân khi tham gia vào các quan hệ xã hội và khi có tranh chấp; đặc biệt khi phát sinh tranh chấp hành chính giữa  công dân với các cơ quan nhà nước hoặc với người có thẩm quyền thì chỉ có Tòa  án mới có thẩm quyền phán xét việc tuân thủ pháp luật của các bên và hệ thống  Tòa án độc lập sẽ là bảo đảm cuối cùng cho công dân có đủ khả năng và điều kiện  bảo đảm quyền công dân của mình khi bị xâm phạm. Do vậy, việc Nhà nước tạo  các điều kiện pháp lý nhằm bảo đảm quyền công dân trong tố tụng hành chính sẽ góp phần bảo đảm quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân trong  xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN.Thứ hai, tiếp cận thông tin trong tố tụng hành chính góp phần thực hiện  trách nhiệm của Nhà nước bảo đảm quyền của cá nhân, của công dân khởi kiện Nhà nước là chủ thể có nghĩa vụ bảo vệ công lý, bảo vệ, bảo đảm quyền con  người, bảo đảm các quyền và nghĩa vụ công dân được ghi nhận theo Hiến pháp và  pháp luật. Nhà nước chủ động, tích cực xây dựng hệ thống pháp luật, các chương  trình, kế hoạch và triển khai đồng bộ xuyên suốt các nội dung bảo đảm quyền công  dân trong các chương trình xây dựng pháp luật của Quốc hội. Hiến pháp và pháp luật  là cơ sở, căn cứ pháp lý để công dân thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình trong  các quan hệ xã hội, trong đó có quan hệ hành chính. Hiến pháp được coi là công cụ quan trọng hàng đầu được Nhà nước sử dụng để bảo đảm quyền công dân, là “điều  kiện tiên quyết cho việc đảm bảo các quyền cơ bản của công dân” [13, tr.39]. Vì vậy, các cơ quan nhà nước trong đó có các cơ quan bảo vệ pháp luật,  cán bộ, công chức,phải tôn trọng và bảo đảm quyền của cá nhân, công dân tham  gia trong tố tụng hành chính. Thứ ba, quyền tiếp cận thông tin trong tố tụng hành chính góp phần  phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong hoạt động của bộ máy nhà nước, của  cán bộ, công chức Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, với  phương hướng xây dựng bộ máy nhà nước tinh gọn, trong sạch, vững mạnh, đấu  tranh phòng chống quan liêu, tham nhũng, tiêu cực trong hoạt động của bộ máy nhà  nước, của cán bộ, công chức. Tham nhũng, quan liêu, tiêu cực là hành vi của người  lạm dụng chức vụ, quyền hạn hoặc cố ý làm trái quy định của pháp luật để phục vụ lợi ích cá nhân nên đó là căn bệnh xã hội nguy hiểm cản trở sự phát triển của đất  nước và làm giảm niềm tin của người dân đối với Đảng, Nhà nước. Để giải quyết  vấn đề này, các cơ quan nhà nước, Chính phủ đã tăng cường chỉ đạo xây dựng,  hoàn thiện và tổ chức thực hiện các thể chế, cơ chế, chính sách (như xây dựng quy  tắc ứng xử, trách nhiệm người đứng đầu, cải cách thủ tục hành chính…) nhằm nâng  cao hiệu lực hiệu quả quản lý nhà nước trên mọi lĩnh vực.Trong quan hệ hành chính phát sinh hàng ngày giữa Nhà nước (đại diện là  cơ quan nhà nước và người có thẩm quyền) với công dân, mọi quyết định hành  chính hoặc hành vi hành chính của người có thẩm quyền đều ảnh hưởng trực tiếp  đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Do đó, trong quan hệ này dễ xảy ra  tranh chấp, khiếu kiện hành chính. Với vai trò là cơ quan giải quyết tranh chấp hành  chính, trên cơ sở quy định của pháp luật, Tòa Hành chính ra phán quyết về tính hợp  pháp của các quyết định, hành vi hành chính bị khiếu kiện, qua đó bảo đảm quyền  công dân của người dân trên thực tế. Đồng thời, việc buộc cơ quan nhà nước, người  có thẩm quyền phải thực hiện bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật đã góp phần  tích cực nâng cao ý thức, tính chịu trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, người  có thẩm quyền trước người dân, góp phần đấu tranh, phòng chống quan liêu, tham  nhũng, tiêu cực của các cán bộ, công chức trong hoạt động quản lý nhà nước. Thứ tư, quyền tiếp cận thông tin trong tố tụng hành chính góp phần nâng  cao hiệu quả hoạt động quản lý hành chính nhà nước Hoạt động giải quyết các vụ án hành chính được thực hiện theo đúng quy  định của pháp luật, đặc biệt tại phiên tòa xét xử vụ án hành chính nếu được tiến  hành tốt, khoa học, khách quan sẽ tạo ra một cơ chế tư pháp độc lập giám sát hoạt  động hành pháp. Thông qua hoạt động xem xét tính hợp pháp của quyết định hành  chính, hành vi hành chính, Tòa Hành chính đã tác động trực tiếp đến hoạt động  quản lý hành chính nhà nước, đến người có thẩm quyền, nhằm hạn chế, khắc phục  những hậu quả pháp lý phát sinh từ hoạt động của các chủ thể quản lý hành chính.  Từ đó, góp phần nâng cao ý thức, trách nhiệm trong hoạt động công vụ của các  cơ quan hành chính nhà nước, người có thẩm quyền, ngăn ngừa những hành vi vi  phạm quyền công dân từ phía cơ quan hành chính nhà nước, người có thẩm quyền. Bên cạnh đó, trong quá trình giải quyết vụ án hành chính, nếu Tòa án phát  hiện được những văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến việc giải quyết vụ án  hành chính có dấu hiệu trái với Hiến pháp, pháp luật, Tòa án có quyền kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc đề nghị người có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung hoặc bãi bỏ văn bản quy phạm pháp luật đó. Với nhiệm vụ này, Tòa Hành  chính đã giữ vai trò quan trọng trong việc hoàn thiện hệ thống pháp luật hành  chính, nâng cao ý thức trách nhiệm của cán bộ công chức, cơ quan nhà nước, đồng  thời góp phần nâng cao hiệu quả quản lý hành chính nhà nước. Theo tác giả: Nguyễn Trung ThànhLink tài liệu đính kèm : https://drive.google.com/file/d/1EA-g0M5jgSwQDLNwrOS5AymwCdb61mYL/view