PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ THỪA KẾ THẾ VỊ
1. Khái niệm thừa kế thế vị
Theo Từ điển Hán - Việt thì “Thế vị” là sự thay thế vị trí, tức là những người thế vị nhau phải là người có mối quan hệ thừa kế thứ hai trong hàng thừa kế thứ nhất (quan hệ giữa cha, mẹ và con), trong đó người thế vị phải là người đời sau (con thế vị cha, mẹ nhưng cha, mẹ không được thế vị con). Việc thế vị là mối liên hệ hai bên, một bên gọi là người được thế vị, bên còn lại được gọi là người thế vị.
Theo Từ điển giải thích thuật ngữ Luật học - Trường Đại Học Luật Hà Nội thì “Thừa kế thế vị là thừa kế bằng việc thay vị trí để hưởng thừa kế" 28. Theo cách hiểu trên thì thừa kế thế vị có thể được hiểu là việc một người theo quy định pháp luật được thay thế vị trí của một người đã chết để hưởng di sản thừa kế của một người khác chết sau người đã chết đó.
Dưới góc độ là một quan hệ pháp luật thì người thừa kế phải còn sống vào thời điểm mở thừa kế. Tuy nhiên, thực tế có trường hợp người được thừa kế chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người để lại di sản. Pháp luật đã quy định việc dịch chuyển di sản thừa kế trong các trường hợp này gọi là thừa kế thế vị.
Theo pháp luật Việt Nam hiện hành, thừa kế thế vị được quy định tại Điều 652 BLDS 2015: "Trường hợp con của người để lại di sản chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì cháu được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống; nếu cháu cũng chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì chắt được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu còn sống". Theo quy định này, thừa kế thế vị thực chất là việc con thay thế vị trí của bố hoặc mẹ để nhận thừa kế di sản từ ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, hoặc cụ nội, cụ ngoại nếu bố hoặc mẹ chết trước hoặc chết cùng một thời điểm với những người nói trên. Quy định này mới chỉ liệt kê về các trường hợp thừa kế thế vị mà chưa định nghĩa thế nào là thừa kế thế vị.
Ngoài ra, BLDS 2015 còn có quy định về quan hệ thừa kế thế vị giữa con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi tại Điều 653 và quy định về quan hệ thừa kế thế vị giữa con riêng và bố dượng, mẹ kế tại Điều 654. Cụ thể:
Điều 653 BLDS 2015 quy định về quan hệ thừa kế thế vị giữa con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi như sau: “Con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi được thừa kế di sản của nhau và còn được thừa kế di sản theo quy định tại Điều 651 và Điều 652 của Bộ luật này”.
Điều 654 BLDS 2015 quy định về quan hệ thừa kế thế vị giữa con riêng và bố dượng, mẹ kế như sau: “Con riêng và bố dượng, mẹ kế nếu có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con thì được thừa kế di sản của nhau và còn được thừa kế di sản theo quy định tại Điều 652 và Điều 653 của Bộ luật này”.
Theo các quy định này thì con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi được thừa kế di sản của nhau; con riêng và bố dượng, mẹ kế nếu có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con thì được thừa kế di sản của nhau, nếu đáp ứng được các điều kiện quy định tại các Điều 652, Điều 653 BLDS 2015.
Do đó, có thể định nghĩa “Thừa kế thế vị là việc người ở hàng thừa kế sau (người thừa kế thế vị) thay thế vị trí của người ở hàng thừa kế trước (người được thế vị) hưởng phần di sản mà người được thế vị được hưởng trong khối di sản của người để lại thừa kế nếu người này còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết”.
1.2.2. Nguyên tắc hưởng thừa kế thế vị
Thừa kế thế vị là một phần của pháp luật thừa kế. Do vậy, thừa kế thế vị phải phù hợp với các nguyên tắc chung của pháp luật nói chung và pháp luật thừa kế nói riêng.
Theo pháp luật Việt Nam hiện hành, thừa kế thế vị tuân theo 4 nguyên tắc cơ bản sau đây: (1) Thừa kế thế vị không phát sinh trên cơ sở thừa kế theo di chúc. (2) Người thế vị phải là con cháu trực hệ của người chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người để lại di sản; (3) Người thừa kế thế vị phải còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết; (4) Người thừa kế thế vị chỉ được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của họ được hưởng nếu còn sống.
1.2.2.1. Thừa kế thế vị không phát sinh trên cơ sở thừa kế theo di chúc Nguyên tắc này có thể hiểu ngắn gọn là thừa kế thế vị chỉ đặt ra đối với phần di sản chia theo pháp luật mà không phát sinh đối với quan hệ thừa kế theo di chúc. Nói khác đi, con cháu của người chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người để lại di chúc không được thế vị cha, mẹ mình để hưởng di sản thừa kế theo di chúc.
Nguyên tắc này được thể hiện rõ theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 650 BLDS 2015: "Những người thừa kế theo di chúc đều chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc; cơ quan, tổ chức được hưởng thừa kế theo di chúc không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế" thì thuộc trường hợp thừa kế theo pháp luật. Ngoài ra, nguyên tắc này còn được thể hiện tại Điều 619 BLDS 2015 với quy định: "Trong trường hợp những người có quyền thừa kế di sản của nhau đều chết cùng một thời điểm hoặc được coi là chết cùng thời điểm do không thể xác định được người nào chết trước (sau đây gọi là chết cùng thời điểm) thì họ không được thừa kế di sản của nhau và di sản của mỗi người do người thừa kế của người đó hưởng, trừ trường hợp thừa kế thế vị theo quy định tại Điều 652 của Bộ luật này". Như vậy, theo nguyên tắc này thì trong trường hợp người được thừa kế theo di chúc chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người để lại di sản thì người thừa kế đó không được hưởng di sản của người để lại di sản. Di sản của người chết sẽ được chia cho những người thừa kế thuộc hàng thừa kế theo pháp luật của người đó; nếu người để lại di sản có con chết trước hay chết cùng với người để lại di sản thì cháu của người để lại di sản được thế vị cha mẹ hưởng thừa kế di sản của ông bà phần di sản của cha mẹ được hưởng nếu còn sống, nếu cháu cũng đã chết trước hay chết cùng người để lại di sản thì chắt của người để lại di sản được thế vị cha mẹ để hưởng thừa kế di sản của cụ phần của cha mẹ được hưởng nếu còn sống. Điều này hoàn toàn hợp lý, phù hợp với nguyên tắc chung của pháp luật thừa kế là tôn trọng ý chí của người để lại di sản.
1.2.2.2. Người thừa kế thế vị phải là con cháu trực hệ của người chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người để lại di sản
Đây là nguyên tắc quan trọng bởi chỉ khi xác định được chính xác chủ thể thế vị thì mới đảm bảo được việc chia thừa kế thế vị chính xác và đúng bản chất của thừa kế thế vị. Khái niệm “con” ở đây bao gồm cả con đẻ, con nuôi, con riêng, con trong giá thú hay con ngoài giá thú... Điều này được cụ thể hóa tại các Điều 653, Điều 654 BLDS 2015 quy định về quyền thừa kế thế vị của con nuôi đối với cha mẹ nuôi và của con riêng đối với bố dượng, mẹ kế.
Mối quan hệ thừa kế thế vị trong pháp luật dân sự Việt Nam được xác định dựa trên quan hệ huyết thống, quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng. Nói cách khác khái niệm "con" trong Điều 652 BLDS 2015 để chỉ tất cả những người con thuộc hàng thừa kế thứ nhất và con riêng của người chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người để lại di sản nếu giữa họ có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng. Còn cách hiểu đối với khái niệm "cháu" tại Điều 652 BLDS 2015 cũng tương tự cách hiểu này.
1.2.2.3. Người thừa kế thế vị phải là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết
Đây là nguyên tắc quan trọng và cơ bản đối với pháp luật thừa kế nói chung và thừa kế thế vị nói riêng. Sở dĩ như vậy vì thừa kế là sự chuyển dịch tài sản từ người chết sang cho người đang sống. Nếu người thừa kế không còn sống vào thời điểm mở thừa kế thì việc chuyển dịch tài sản sẽ mất đi tính chất và ý nghĩa của việc thừa kế.
Nguyên tắc này được quy định cụ thể tại Điều 613 BLDS 2015: "Người thừa kế là cá nhân phải là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết…".
Theo đó, có hai vấn đề cần được hiểu rõ khi tiếp cận nguyên tắc này. Đó là hiểu như thế nào về điều kiện người thừa kế thế vị "phải còn sống vào thời điểm mở thừa kế" và “một thai nhi sẽ được thừa kế thế vị trong trường hợp nào?”
Quy định điều kiện người thừa kế phải còn sống vào thời điểm mở thừa kế được coi là điều kiện cần, phản ánh năng lực chủ thể của người thừa kế. Tuy nhiên, một người còn sống vào thời điểm mở thừa kế không đồng nghĩa với việc người đó có đủ năng lực chủ thể thừa kế. Nói khác đi, đây chỉ là điều kiện cần chứ không phải là điều kiện đủ của người thừa kế theo pháp luật Việt Nam. Một người đang sống có thể không có năng lực chủ thể thừa kế trong một số trường hợp nhất định theo quy định của pháp luật. Theo quy định tại Điều 16 BLDS 2015 thì mọi cá nhân đều có năng lực pháp luật như nhau và năng lực pháp luật đó có từ khi người đó sinh ra và chấm dứt khi người đó chết. Khái niệm "chết" được nói đến ở đây bao gồm chết theo nghĩa sinh học và chết khi bị tuyên bố chết theo Điều 71 BLDS 2015. Điều đáng lưu ý là nếu cá nhân thuộc diện những người không được quyền hưởng di sản do vi phạm khoản 1 Điều 621 BLDS 2015 thì dù còn sống cũng không được hưởng di sản thừa kế thế vị. Như vậy, sự sống sinh học của một cá nhân không phải là điều kiện cần và đủ cho năng lực thừa kế của chủ thể đó và việc một cá nhân mất năng lực chủ thể thừa kế chỉ xảy ra trong một số trường hợp cụ thể do pháp luật quy định và chỉ có hiệu lực trong mối quan hệ pháp luật thừa kế. Do vậy, khi tiếp cận nguyên tắc này cần xác định chính xác điều đó để tránh tình trạng chia thừa kế thế vị sai do xác định sai diện thừa kế.
Năng lực thừa kế càng khó xác định khi chủ thể đó là một thai nhi chưa được sinh ra. Vậy hiểu như thế nào cho đúng quy định của Điều 613 BLDS 2015?
Theo quy định tại Điều 16 BLDS 2015 thì:
“1. Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân có quyền và nghĩa vụ dân sự.
2. Mọi cá nhân đều có năng lực pháp luật dân sự như nhau.
3. Năng lực pháp luật dân sự của một cá nhân có từ khi người đó sinh ra và chấm dứt khi người đó chết.”
Như vậy, theo quy định này thì thai nhi (người chưa được sinh ra) thì không có năng lực pháp luật dân sự, nên không có năng lực thừa kế nói chung và năng lực thừa kế thế vị nói riêng. Tuy nhiên, nếu thai nhi đó được thành thai trước khi mở thừa kế, được sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế thì vẫn có quyền hưởng di sản. Nhưng xác định như thế nào là "sinh ra và còn sống" sau thời điểm mở thừa kế cũng không phải dễ dàng vì có rất nhiều trường hợp trẻ em sinh ra được một khoảng thời gian nhất định thì bị chết do nhiều lý do khác nhau. Quy định về đăng ký khai sinh cho trẻ em hiện tại được quy định tại BLDS 2015, Luật Hộ tịch năm 2014, Nghị định 123/2015/NĐ-CP ngày 15/11/2015 của Chính Phủ quy định một số điều và biện pháp thi hành Luật Hộ tịch. Theo nội dung các văn bản trên thì trẻ em sinh ra mà sống được từ 24 giờ trở lên thì phải được đăng ký khai sinh; nếu trẻ em sinh ra mà sống dưới 24 giờ thì không phải khai sinh, trừ trường hợp cha mẹ đẻ có yêu cầu. Trong thời hạn 60 ngày kể từ ngày sinh con, cha hoặc mẹ có trách nhiệm đăng ký khai sinh cho con; trường hợp cha, mẹ không thể đăng ký khai sinh cho con thì ông hoặc bà hoặc người thân thích khác hoặc cá nhân, tổ chức đang nuôi dưỡng trẻ em có trách nhiệm đăng ký khai sinh cho trẻ em. Đối với trẻ em bị bỏ rơi, trẻ em chưa xác định được cha mẹ… thì cũng có những quy định cụ thể về trách nhiệm, trình tự đăng ký khai sinh cho các trẻ em thuộc đối tượng này. Việc đăng ký khai sinh là cơ sở pháp lý để xác định sự tồn tại của một trẻ sơ sinh, đồng thời xác định đứa trẻ đó có đủ năng lực thừa kế theo pháp luật. Do đó, theo những quy định trên thì có thể hiểu một người thành thai trước thời điểm mở thừa kế, sinh ra sau thời điểm mở thừa kế và sống được hơn 24 giờ sau khi sinh thì phải được khai sinh (với trẻ em sinh ra sống dưới 24 giờ thì cha mẹ đẻ muốn khai sinh cho con phải có yêu cầu). Sau khi đứa trẻ đã được khai sinh thì sẽ được hưởng thừa kế thế vị, nếu sau đó đứa trẻ này bị chết vì lý do nào đó thì những người thừa kế của đứa trẻ này được hưởng thừa kế phần di sản của đứa trẻ này được hưởng theo quy định pháp luật. Tuy nhiên, hiện vấn đề này chưa có hướng dẫn cụ thể nên vẫn còn nhiều cách hiểu và áp dụng khác nhau. Trường hợp trẻ em sinh ra sau 24 giờ, đã được khai sinh nhưng chết ngay sau đó thì việc xác lập năng lực thừa kế trong trường hợp này có ý nghĩa thực tế hay không hay chỉ tạo ra sự rắc rối cho trong việc phân chia di sản thừa kế?...
1.2.2.4. Người thừa kế thế vị chỉ được hưởng phần di sản mà bố, mẹ họ được hưởng nếu còn sống
Nguyên tắc này là nguyên tắc cơ bản trong việc xác định di sản thừa kế thế vị. Theo đó người thừa kế thế vị là “cháu”, “chắt” không hưởng di sản với tư cách là người ở hàng thừa kế thứ 2 và thứ 3 của người để lại di sản. Người thừa kế trong trường hợp này chỉ được hưởng phần di sản đáng ra cha, mẹ họ được hưởng nếu còn sống, tức là được hưởng thừa kế cùng hàng với những người thừa kế cùng hàng của cha, mẹ họ. Điều này là hợp lý vì thừa kế thế vị là "thế chân", “thay thế vị trí” để hưởng di sản chứ không đồng nghĩa với thừa kế theo hàng.
Tuy nhiên, theo Điều 652 BLDS 2015 thì “cháu”, “chắt” chỉ được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của họ được hưởng nếu còn sống. Nhưng nếu trường hợp cha mẹ của những người này từ khi còn sống đã có hành vi vi phạm khoản 1 Điều 621 BLDS 2015 và là người không được quyền hưởng di sản thì “cháu”, “chắt” có được hưởng thừa kế thế vị hay không? Trường hợp từ khi còn sống mà cha, mẹ của “cháu”, “chắt” đã có văn bản từ chối nhận di sản của người để lại di sản theo Điều 620 BLDS 2015 thì “cháu”, “chắt” có được hưởng thừa kế thế vị hay không? Do pháp luật chưa có quy định cụ thể về các trường hợp này nên hiện vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau về việc “cháu”, “chắt” có được hưởng hay không được hưởng thừa kế thế vị trong các trường hợp này.
1.2.3. Điều kiện hưởng thừa kế thế vị
Thừa kế thế vị phải tuân theo các nguyên tắc chung của pháp luật thừa kế, ngoài ra để được hưởng thừa kế thế vị thì người thừa kế còn phải thỏa mãn các điều kiện riêng theo quy định tại Điều 652 BLDS 2015. Theo quy định này thì thừa kế thế vị chỉ đặt ra trong trường hợp có người thừa kế theo pháp luật chết trước hoặc chết cùng một thời điểm với người để lại di sản, nhưng không phải trong mọi trường hợp có người thừa kế theo pháp luật chết trước hoặc chết cùng một thời điểm với người để lại di sản đều phát sinh thừa kế thế vị. Thừa kế thế vị chỉ thật sự phát sinh khi con, cháu của người để lại di sản chết trước hoặc chết cùng một thời điểm với người để lại di sản. Về nguyên tắc, những người có quyền thừa kế của nhau chết cùng một thời điểm thì không được thừa kế của nhau theo quy định tại Điều 619 BLDS 2015. Tuy nhiên, Điều 652 BLDS 2015 lại là ngoại lệ của Điều 619 BLDS 2015, tức là trong trường hợp con của người để lại di sản chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì cháu của người để lại di sản được hưởng thừa kế thế vị; đối với trường hợp chắt thừa kế thế vị cũng tương tự như vậy. Theo đó, điều kiện tiên quyết trước hết để phát sinh thừa kế thế vị là con của người để lại di sản phải chết trước hoặc chết cùng một thời điểm với người để lại di sản thì cháu mới được hưởng thừa kế thế vị. Tương tự, khi con của người để lại di sản chết trước người để lại di sản, sau đó cháu của người để lại di sản lại chết trước hoặc chết cùng một thời điểm với người để lại di sản thì chắt được hưởng thừa kế thế vị. Nếu không có điều kiện này thì không có thừa kế thế vị. Điều này hoàn toàn hợp lý vì thừa kế thế vị là việc con thế vị bố, mẹ để nhận di sản thừa kế; nếu như người bố hay người mẹ không chết trước hoặc cùng thời điểm với người để lại di sản mà chết sau người để lại di sản thì người bố hay người mẹ này vẫn được nhận di sản thừa kế theo hàng thừa kế thứ nhất của người để lại di sản.
1.2.4. Di sản thừa kế thế vị
Như đã trình bày tại mục 2.1.3 của Chương này, di sản thừa kế được xác định quy định tại các Điều 612 BLDS 2015 và các điều luật khác liên quan. Theo đó, di sản là toàn bộ vật, tiền, giấy tờ có giá thuộc quyền sở hữu hợp pháp của người đã chết và quyền tài sản của người đó, bao gồm bất động sản và động sản hiện có hay được hình thành trong tương lai của người đã chết. Di sản thừa kế bao gồm tài sản riêng của người chết và phần tài sản của người đó trong khối tài sản chung với người khác. Tài sản riêng của người chết là tài sản do người đó tạo ra bằng thu nhập hợp pháp (tiền lương, tiền thưởng, tiền công lao động...); tài sản được tặng cho; tài sản được thừa kế; tư liệu sản xuất; tư liệu sinh hoạt riêng... và phần tài sản trong khối tài sản chung với người khác bao gồm cả tài sản sở hữu chung hợp nhất của vợ chồng, tài sản sỡ hữu chung theo phần với người khác...
Di sản thừa kế thế vị cũng được xác định dựa trên các căn cứ quy định tại Điều 612 BLDS 2015, nhưng di sản thừa kế thế vị có thể là toàn bộ hoặc chỉ là một phần di sản của người chết để lại do còn phụ thuộc vào những người thừa kế cùng hàng với cha, mẹ của cháu hoặc chắt là một người hay nhiều người và đây chỉ là phần di sản mà cha, mẹ của cháu hoặc chắt được hưởng nếu còn sống. Do vậy, khi tìm hiểu về di sản thừa kế thế vị thì vấn đề đặt ra là phần di sản mà cháu hoặc chắt được thế vị có gì khác so với phần di sản mà cháu, chắt được hưởng ở hàng thừa kế thứ 2, hàng thừa kế thứ 3 hay không?
Theo Điều 652 BLDS 2015 thì cháu hoặc chắt chỉ được thừa kế thế vị phần di sản mà cha hoặc mẹ của họ được hưởng nếu còn sống. Phần di sản đó cháu hoặc chắt nhận không phải với tư cách của mình mà với tư cách của cha, mẹ mình. Còn khi cháu, chắt hưởng thừa kế theo hàng thừa kế thứ 2, thứ 3 của ông, bà và các cụ thì hưởng thừa kế di sản với tư cách của chính mình chứ không phải với tư cách "thế chân" của người khác. Cháu, chắt nhận di sản thừa kế thế vị của cha mẹ mình sẽ có tư cách như những đồng thừa kế cùng hàng thừa kế với cha, mẹ mình. Còn nếu cháu, chắt nhận di sản theo hàng thừa kế thì tư cách của họ không ngang bằng với tư cách của những đồng thừa kế khác cùng hàng thừa kế với cha, mẹ mình do thuộc hàng thừa kế sau và họ chỉ được hưởng thừa kế nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết hoặc những người này không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản thừa kế. Như đã trình bày tại mục 1.1.4 thì người thừa kế là người được hưởng di sản mà người chết để lại theo di chúc hoặc theo quy định của pháp luật. Người thừa kế có thể chỉ là người được hưởng di sản theo di chúc hoặc chỉ được hưởng di sản theo pháp luật nhưng có thể là người vừa được hưởng di sản theo di chúc vừa được hưởng di sản theo pháp luật. Tuy nhiên, thừa kế thế vị là trường hợp đặc biệt phát sinh từ thừa kế theo pháp luật, chỉ đặt ra đối với phần di sản chia theo pháp luật mà không phát sinh đối với quan hệ thừa kế theo di chúc.
Theo quy định tại Điều 652 BLDS 2015 thì "Trong trường hợp con của người để lại di sản chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì cháu được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống, nếu cháu cũng đã chết trước hoặc chết cùng một thời điểm với người để lại di sản thì chắt được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu còn sống". Như vậy, theo quy định trên thì người thừa kế thế vị chỉ được xác định là cá nhân. Các cá nhân này là những chủ thể đặc biệt, chỉ bao gồm cháu hoặc chắt của người để lại di sản - những người được hưởng di sản thừa kế thế vị. Tuy nhiên, liên quan đến những người thừa kế thế vị này không đơn giản chỉ dừng lại ở đó mà đặt ra một số vấn đề đáng quan tâm khác khi tìm hiểu và nghiên cứu như: năng lực của các chủ thể đó được xác định như thế nào? Các chủ thể này có đồng nhất với những người thừa kế là "cháu", "chắt" ở hàng thừa kế thứ 2 và thứ 3 của người để lại di sản hay không? Việc quy định về chủ thể hưởng thừa kế thế vị theo pháp luật hiện nay đã thật sự phù hợp hay chưa và cần quy định như thế nào để phù hợp với thực tiễn cuộc sống?
Khi nói đến chủ thể được hưởng thừa kế thế vị thì chủ thể đó phải là cá nhân chứ không thể là cơ quan, tổ chức (người thừa kế không là cá nhân). Điều này có nguyên nhân từ bản chất triết lý của thừa kế thế vị. Thừa kế thế vị là mối quan hệ thừa kế trong đó sự chuyển dịch tài sản từ người chết sang người sống được căn cứ trên các mối quan hệ huyết thống, quan hệ chăm sóc và quan hệ nuôi dưỡng. Các mối quan hệ đó không tồn tại giữa cá nhân người để lại di sản với cơ quan, tổ chức. Do vậy, không thể phát sinh quan hệ pháp luật thừa kế thế vị với cơ quan, tổ chức. Điều này hoàn toàn phù hợp với quan niệm của người phương đông và tư duy pháp lý của các nhà làm luật là nhằm bảo vệ quyền lợi của người thân thích nhất của người chết, tránh trường hợp di sản của người chết được chuyển sang chủ thể khác không có mối quan hệ thân thích với người để lại di sản trong khi người thân thích của họ lại không được hưởng di sản đó. Tuy nhiên, cũng như nội dung đã phân tích về người thừa kế nói chung thì không phải mọi cá nhân đều được hưởng thừa kế theo Điều 652 BLDS 2015 mà chỉ những cá nhân có đủ năng lực chủ thể thừa kế mới được thế vị để thừa kế. Theo đó, một cá nhân sẽ được thừa kế thế vị khi cá nhân đó là cháu, chắt trực hệ của người để lại di sản mà bố hoặc mẹ của họ đã chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người để lại di sản. Cá nhân đó phải còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước thời điểm mở thừa kế. Nói cách khác, một cá nhân sẽ được hưởng thừa kế thế vị khi đảm bảo đầy đủ các nguyên tắc và điều kiện hưởng thừa kế thế vị đã nêu và phân tích ở tiểu mục 2.2.2 và 2.2.3 đã nêu trên. Tuy vậy, việc xác định người thừa kế thế vị trong một số trường hợp vẫn gặp rất nhiều khó khăn do có nhiều quan điểm và cách hiểu khác nhau. Đó là việc xác định thừa kế thế vị trong các trường hợp: thừa kế thế vị của con sinh ra theo phương pháp khoa; thừa kế thế vị của con riêng với bố dượng, mẹ kế; thừa kế thế vị có yếu tố con nuôi…
Hiện nay, việc sinh con theo phương pháp khoa học đã và đang ngày càng trở nên phổ biến. Nó bảo đảm tính khoa học, tính nhân văn sâu sắc khi đáp ứng yêu cầu làm cha, làm mẹ một cách chính đáng của công dân. Con sinh ra theo phương pháp khoa học là con được sinh ra do được thụ tinh nhân tạo. Vấn đề đặt ra là thừa kế thế vị phát sinh trong trường hợp nào: giữa con sinh ra theo phương pháp khoa học với người cho tinh trùng hay giữa người con đó với người cha, người mẹ thực hiện biện pháp hỗ trợ sinh sản? Việc xác định cha, mẹ, con là một vấn đề khá phức tạp trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình. Thông thường vấn đề này được xác định theo kết quả giám định gen. Tuy nhiên, trong trường hợp con sinh ra theo phương pháp khoa học thì việc xác định cha, mẹ, con lại dựa trên mối quan hệ hôn nhân của người mẹ sinh ra đứa trẻ. Sinh con theo phương pháp khoa học là nhu cầu, nguyện vọng chính đáng của các cặp vợ chồng vô sinh hoặc người phụ nữ sống độc thân. Việc sinh con đó nếu là của cặp vợ chồng vô sinh thì được pháp luật mặc nhiên thừa nhận họ là cha mẹ của đứa trẻ được sinh ra vì việc sinh con trong trường hợp này cần phải có sự đồng ý của cả hai vợ chồng thì mới được thực hiện. Điều đó đồng nghĩa với việc con được sinh ra theo phương pháp khoa học có quan hệ với cha mẹ thực hiện kỹ thuật hỗ trợ sinh sản như quan hệ của con đẻ với cha mẹ đẻ. Vì vậy, họ có quyền thừa kế của nhau, cháu sẽ được thừa kế thế vị của ông bà và chắt được hưởng thừa kế thế vị của các cụ nếu phù hợp với điều kiện được quy định tại Điều 652 BLDS 2015.
Đối với mối quan hệ giữa người con sinh ra theo phương pháp khoa học với người cho tinh trùng, cho noãn thì không đặt ra vấn đề thừa kế nói chung và thừa kế thế vị nói riêng. Sở dĩ như thế vì theo quy định của pháp luật, danh tính của người cho tinh trùng, noãn được bảo mật và không đặt ra vấn đề xác định cha con, mẹ con giữa người được sinh ra theo phương pháp khoa học với người cho tinh trùng, cho noãn. Điều này là phù hợp với quan niệm đạo đức và tập quán của người Việt Nam, phù hợp với thực tế cuộc sống. Việc bảo mật danh tính của người cho tinh trùng, cho noãn là cần thiết để bảo đảm hạnh phúc gia đình của người này.
Vấn đề xác định người thừa kế thế vị càng khó khăn hơn khi liên quan đến con riêng của vợ hoặc chồng. Mặc dù vấn đề này đã được quy định tại Điều 654 BLDS 2015 nhưng hiện nay quy định này vẫn còn nhiều cách hiểu khác nhau, chưa có cách hiểu thống nhất. Theo Điều 654 BLDS 2015 thì: "Con riêng và bố dượng, mẹ kế nếu có quan hệ chăm sóc nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con thì được thừa kế di sản của nhau và còn được thừa kế di sản theo quy định tại Điều 652 và Điều 653 của Bộ luật này". Theo quy định này thì con riêng có quyền được hưởng thừa kế theo pháp luật và được hưởng thừa kế thế vị của bố dượng, mẹ kế nếu có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con. Tuy nhiên, theo quy định tại khoản 1 Điều 651 BLDS 2015 thì con riêng không thuộc hàng thừa kế nào trong ba hàng thừa kế theo pháp luật do hàng thừa kế thứ nhất chỉ quy định đối tượng “con” bao gồm “con đẻ” và “con nuôi” của người chết chứ không có quy định về “con riêng” và con riêng cũng không thuộc các hàng thừa kế còn lại. Ngoài ra, việc hiểu như thế nào là “có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con” giữa con riêng và bố dượng, mẹ kế thì hiện tại cũng chưa có hướng dẫn như thế nào thì được coi là có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con. Hiện tại, Luật Hôn nhân và gia đình 2014 có quy định về nghĩa vụ, quyền chăm sóc nuôi dưỡng giữa cha mẹ và con; nhưng thời gian chăm sóc, nuôi dưỡng bao lâu, mức độ cung cấp tài chính để nuôi dưỡng như thế nào thì được coi là có quan hệ nuôi dưỡng, chăm sóc nhau trên thực tế? Do những vấn đề này chưa có hướng dẫn nên hiện tại các Tòa án vẫn còn nhiều cách hiểu khác nhau và cách áp dụng khác nhau trong quá trình giải quyết các vụ việc liên quan đến vấn đề này.
Nói đến người thừa kế thế vị thì không thể không đề cập đến trường hợp thừa kế thế vị có yếu tố con nuôi. Con nuôi là một chế định khá phức tạp trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình. Đối với thừa kế thế vị có yếu tố con nuôi càng trở nên phức tạp hơn bởi khi xác định người thừa kế trong trường hợp này là rất khó. Cái khó thứ nhất là ở chỗ xác định trong mối quan hệ với cha mẹ đẻ hay với cha mẹ nuôi thì người con nuôi được thừa kế thế vị? Cái khó thứ hai là khi người con nuôi chết trước hoặc chết cùng thời điểm với cha mẹ nuôi thì con của người con nuôi đó (bao gồm cả con đẻ hoặc con nuôi) có được hưởng thừa kế thế vị hay không? Vấn đề này hiện nay trên thực tế vẫn còn nhiều ý kiến trái chiều, nhưng hiện tại cũng chưa có hướng dẫn cụ thể của cơ quan có thẩm quyền về vấn đề này nên thực tế vẫn còn cách hiểu và áp dụng khác nhau của các Tòa án trong quá trình giải quyết các vụ việc liên quan đến thừa kế thế vị do chưa có đường lối xét xử thống nhất.
Ngoài ra, liên quan đến người thừa kế thế vị thì còn đặt ra vấn đề "cháu", "chắt" có đồng nhất với các đối tượng thừa kế này theo hàng hay không? Nói cách khác là cần phân biệt "cháu", "chắt" được hưởng thừa kế thế vị khi nào và khi nào thì các đối tượng này được hưởng thừa kế theo hàng thứ hai, hàng thứ ba của ông, bà và các cụ. Điều 649 BLDS 2015 quy định: "Thừa kế theo pháp luật là thừa kế theo hàng thừa kế, điều kiện và trình tự hàng thừa kế do pháp luật quy định". Theo nguyên tắc phân chia di sản theo trình tự hàng, người thừa kế ở hàng thừa kế thứ nhất có quyền hưởng di sản trước, khi hàng thừa kế thứ nhất không còn ai mới đến hàng thừa kế sau. Thừa kế theo hàng là thừa kế theo trật tự hàng thừa kế, hàng thừa kế gần hơn loại hàng thừa kế xa hơn và thừa kế theo hàng mang tính chất tuyệt đối. Theo Điều 651 BLDS 2015 thì cháu thuộc hàng thừa kế thứ hai và chắt thuộc hàng thừa kế thứ ba của người để lại di sản. Khoản 3 Điều 651 BLDS 2015 quy định: "Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản". Như vậy, cháu chỉ được hưởng di sản thừa kế theo hàng thừa kế của ông, bà nếu không còn ai ở hàng thừa kế thứ nhất và chắt chỉ được hưởng thừa kế theo hàng thứ ba nếu không còn ai ở hàng thừa kế thứ nhất và hàng thừa kế thứ hai vì các lý do quy định tại khoản 3 Điều 651 BLDS 2015. Tuy nhiên, quy định về thừa kế thế vị là quy định khác biệt nên cháu, chắt hưởng thừa kế của ông, bà, các cụ với tư cách thừa kế thế vị không phụ thuộc vào việc hàng thừa kế trước còn hay không còn người thừa kế. Cháu, chắt được hưởng thừa kế thế vị nếu như cha, mẹ của cháu, chắt đã chết trước hoặc chết cùng một thời điểm với người để lại di sản nếu đủ điều kiện hưởng thừa kế thế vị. Như vậy, trong quan hệ thừa kế thế vị, cháu hoặc chắt hưởng di sản với tư cách “thế chân” của cha, mẹ mình - một trong những người thừa kế ở hàng thừa kế trước mình và cháu, chắt sẽ có tư cách hưởng di sản như những người đồng thừa kế cùng hàng thừa kế với cha, mẹ của mình. Nói cách khác, thừa kế thế vị không phải là thừa kế theo hàng, nhưng căn cứ trên mối liên hệ giữa các hàng thừa kế để xác định mối quan hệ thừa kế thế vị. Việc phân biệt tư cách thừa kế của cháu, chắt trong hai trường hợp nói trên là cần thiết để đảm bảo quyền thừa kế của công dân, tránh gây nhầm lẫn, rắc rối khi phân chia di sản liên quan đến thừa kế theo hàng và thừa kế thế vị.
Việc quy định con, cháu có thể thế vị cha, mẹ hoặc ông, bà để nhận di sản từ ông, bà, hoặc các cụ là hợp đạo lý của người Việt Nam khi bảo đảm di sản của người chết được truyền lại cho những người thân thích nhất của mình. BLDS 2015 chỉ quy định thừa kế thế vị đối với cháu, chắt mà không đặt ra vấn đề thừa kế thế vị đối với những đối tượng khác như: chút, chít... trong khi thực tiễn có thể xảy ra trường hợp mà chút, chít có thể được hưởng thừa kế thế vị (hiện tại những đối tượng này cũng chưa được quy định là những người thừa kế theo hàng). Do vậy, liên quan đến người thừa kế thế vị cần có cái nhìn thực tiễn, khách quan và mở rộng hơn, tránh máy móc, gò bó để xác định chính xác và đầy đủ diện thừa kế thế vị, đảm bảo được lợi ích của công dân.
Theo tác giả: Nguyễn Viết Giang
Link tài liệu kèm theo: