0888889366
Tra cứu thông tin hợp đồng
timeline_post_file648598b8c8e2e--NHỮNG-VẤN-ĐỀ-PHÁP-LÝ-VỀ-HỢP-ĐỒNG-NHẬP-KHẨU-HÀNG-HOÁ-.jpeg.webp

NHỮNG VẤN ĐỀ PHÁP LÝ VỀ HỢP ĐỒNG NHẬP KHẨU HÀNG HOÁ

1. Những vấn đề pháp lý về hợp đồng nhập khẩu hàng hoá 

Việc ký kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế nói chung và hợp đồng nhập  khẩu hàng hoá nói riêng đòi hỏi nhiều kinh nghiệm và sự hiểu biết sâu rộng về  chuyên môn cũng như luật pháp. Thực tế cho thấy rằng các doanh nghiệp thường  gặp khó khăn và không ít doanh nghiệp tỏ ra lúng túng khi tham gia vào một quan  hệ hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, một phần cũng vì hệ thống pháp luật của  các nước khác nhau nên việc tìm hiểu các quy định cụ thể trong các hệ thống pháp  luật này là không hề dễ dàng và tương đối mất thời gian, chưa kể việc phải tìm hiểu  cả những Điều ước quốc tế liên quan có thể điều chỉnh hợp đồng. Sau đây là một số  vấn đề pháp lý thường gặp liên quan đến hợp đồng nhập khẩu hàng hoá: 

1.2.1. Đối tượng của hợp đồng nhập khẩu hàng hoá 

Pháp luật của từng nước có những quy định khác nhau về hàng hóa được phép  giao dịch, mua bán. Có những hàng hóa mà pháp luật của bên này cho phép mua  bán nhưng pháp luật của bên kia lại không cho phép. Do vậy, khi tham gia vào một  hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, cần đảm bảo rằng hàng hóa đó được pháp luật  của cả hai bên cho phép trao đổi, mua bán. Đối với hợp đồng xuất nhập khẩu, pháp  luật Việt Nam đã quy định danh mục hàng hóa bị cấm xuất nhập khẩu tại Nghị định  số 69/2018/NĐ-CP ngày 15 tháng 05 năm 2018 của Chính phủ về việc quy định chi  tiết một số điều của Luật quản lý ngoại thương. Theo đó, một số hàng hóa bị cấm  xuất nhập khẩu bao gồm vũ khí, đạn dược, vật liệu nổ, một số loại hoá chất,… 

1.2.2. Điều kiện hiệu lực của hợp đồng nhập khẩu hàng hóa 

CISG không có quy định về điều kiện hiệu lực của hợp đồng mua bán hàng  hóa quốc tế (hay hợp đồng nhập khẩu hàng hóa) nói chung. Theo pháp luật Việt  Nam, điều kiện hiệu lực của hợp đồng được xác định theo Bộ luật Dân sự 2015 

(Điều 117), theo đó để một hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế (hay hợp đồng nhập  khẩu hàng hóa) có hiệu lực thì nó phải đáp ứng các điều kiện sau đây:  

Điều kiện về chủ thể 

Các chủ thể tham gia hợp đồng phải có năng lực pháp luật dân sự và năng lực  hành vi dân sự phù hợp với giao dịch mua bán hàng hóa quốc tế (Điểm a Điều 117  BLDS 2015).  

Theo Điều 19 Bộ luật Dân sự 2015, năng lực pháp luật dân sự của cá nhân là  khả năng cá nhân có quyền và nghĩa vụ dân sự. Năng lực pháp luật dân sự của cá  nhân có từ khi cá nhân được sinh ra và chấm dứt khi cá nhân đó mất. Để bảo đảm  mọi cá nhân có quyền tự do giao kết hợp đồng, Bộ luật Dân sự 2015 đã quy định:  “Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân được xác định theo pháp luật của nước mà người đó có quốc tịch; Người nước ngoài tại Việt Nam có năng lực pháp luật dân sự 

như công dân Việt Nam, trừ trường hợp pháp luật Việt Nam có quy định khác”  (Điều 673 BLDS 2015). Đối với pháp nhân, theo Điều 86 Bộ luật Dân sự 2015,  năng lực pháp luật dân sự là khả năng pháp nhân có các quyền, nghĩa vụ dân sự.  Năng lực pháp luật dân sự được hình thành kể từ khi pháp nhân đó được thành lập  (thường là thời điểm đăng ký kinh doanh) và chấm dứt khi pháp nhân đó chấm dứt  hoạt động. 

Năng lực hành vi dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân bằng hành vi của  mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự (theo Điều 19, BLDS 2015). Thông  thường, một cá nhân có năng lực hành vi dân sự đầy đủ khi đủ mười tám tuổi trở  lên, trừ trường hợp có vấn đề về nhận thức, làm chủ hành vi (Điều 20, Bộ luật Dân  sự 2015). Bộ luật Dân sự 2015 không quy định về năng lực hành vi dân sự của pháp  nhân, tuy nhiên, có thể hiểu rằng năng lực hành vi dân sự của pháp nhân được thể  hiện thông qua hành vi của người đại diện và nó sẽ phát sinh, chấm dứt cùng với  thời điểm phát sinh, chấm dứt năng lực pháp luật của pháp nhân. Vì vậy, khi giao  kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế cần đặc biệt lưu ý xem người ký kết hợp  đồng có phải là người đại diện hợp pháp của pháp nhân hay không. Theo Điều 85  Bộ luật Dân sự thì đại diện của pháp nhân có thể là đại diện theo pháp luật hoặc đại 

diện theo ủy quyền. Đại diện theo pháp luật là người chịu trách nhiệm về mọi hoạt  động của doanh nghiệp trước pháp luật, là người đại diện cho pháp nhân để ký kết  hợp đồng. Đại diện theo uỷ quyền là người được người có thẩm quyền uỷ quyền để  thực hiện giao dịch ký kết hợp đồng. Tuy nhiên, người được uỷ quyền chỉ được thực  hiện các công việc trong phạm vi được uỷ quyền và người uỷ quyền vẫn phải chịu trách nhiệm cho công việc mà người được uỷ quyền thực hiện. 

Pháp luật của mỗi quốc gia có những quy định khác nhau về tư cách chủ thể.  Điều này dựa trên nguyên tắc chủ quyền quốc gia, chủ thể tham gia hợp đồng trước  hết phải tuân thủ pháp luật của nước mình về tư cách chủ thể. Vì vậy, muốn xác  định một chủ thể có đầy đủ năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự để  tham gia vào giao dịch mua bán hàng hóa quốc tế hay không thì cần phải tìm hiểu  xem pháp luật của quốc gia mà chủ thể đó mang quốc tịch quy định như thế nào về  vấn đề này nhằm đảm bảo hợp đồng không bị vô hiệu. Đối với hợp đồng nhập khẩu  hàng hoá, nhiều người cho rằng tư cách chủ thể của Bên Bán được xác định theo  pháp luật của nước xuất khẩu hàng hoá. Tuy nhiên, đây là cách xác định không  chính xác, chẳng hạn nước xuất khẩu hàng hoá là Indonesia nhưng Bên Bán lại có  trụ sở tại Singapore thì khi đó pháp luật của Singapore mới là căn cứ để xác định tư  cách chủ thể của Bên Bán, không phải pháp luật của Indonesia. 

Tuy nhiên, việc tìm hiểu hệ thống pháp luật của nước ngoài là không hề dễ  dàng nên có không ít các doanh nghiệp Việt Nam đã bỏ qua vấn đề này, dẫn đến rủi  ro hợp đồng bị vô hiệu. 

Điều kiện về sự tự nguyện khi giao kết hợp đồng 

Điều kiện tiếp theo để hợp đồng nhập khẩu hàng hóa có hiệu lực là các bên  phải tham gia hợp đồng trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện (Điểm b Điều 117 BLDS  2015). Đây là một trong những nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự Việt Nam  (theo Khoản 2 Điều 3 BLDS 2015). Hợp đồng sẽ vô hiệu nếu được ký kết trên cơ sở  bị lừa dối, đe doạ, cưỡng ép hoặc bị nhầm lẫn (theo quy định tại các Điều 126, 127  BLDS 2015) vì trong những trường hợp này các bên không đạt được mục đích và  mong muốn giao kết hợp đồng ban đầu.

Điều kiện về mục đích, nội dung của hợp đồng 

Điểm c Điều 117 Bộ luật Dân sự 2015 quy định: “Mục đích và nội dung của  giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội”. 

Do đó, các nội dung trong hợp đồng hoàn toàn phụ thuộc vào thoả thuận của  hai bên, miễn là nó không vi phạm điều cấm của luật và không trái đạo đức xã hội.  Nếu vi phạm thì hợp đồng đó sẽ bị vô hiệu theo Điều 123 Bộ luật Dân sự 2015.  Trường hợp một phần nội dung của hợp đồng bị vô hiệu thì hợp đồng đó sẽ bị vô  hiệu từng phần (Điều 130 BLDS 2015). 

Điều kiện về hình thức hợp đồng 

Theo Khoản 2 Điều 117 BLDS 2015: “Hình thức của giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự trong trường hợp luật có quy định”. Như đã  phân tích tại phần đặc điểm của hợp đồng nhập khẩu hàng hóa, Khoản 2 Điều 27  Luật Thương mại 2005 quy định hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế ở Việt Nam  phải được thể hiện dưới hình thức văn bản hoặc hình thức khác có giá trị pháp lý  tương đương. Việt Nam cũng đã bảo lưu nội dung này trong CISG nên quy định về  hình thức theo Khoản 2 Điều 27 Luật Thương mại phải được đảm bảo. 

1.2.3. Thẩm quyền ký kết hợp đồng  

Không giống như cá nhân có thể tự mình tham gia giao kết hợp đồng mua bán  hàng hóa quốc tế, pháp nhân lại không thể tự mình thực hiện việc này mà phải thông  qua người đại diện theo pháp luật của pháp nhân đó. Do vậy, một vấn đề quan trọng  cần phải xác định là liệu người ký hợp đồng có thẩm quyền để ký kết hợp đồng đó  hay không. Theo pháp luật Việt Nam, người có thẩm quyền ký kết hợp đồng là  người đại diện theo pháp luật (người có tên trên giấy đăng ký kinh doanh ở Việt  Nam) hoặc người được người đại diện theo pháp luật ủy quyền để ký kết hợp đồng  thông qua giấy ủy quyền, hoặc cũng có thể người có thẩm quyền được quy định  trong Điều lệ của pháp nhân. Tuy nhiên, pháp luật của mỗi quốc gia có thể quy định  khác nhau về uỷ quyền. Do vậy, khi giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế  nói chung và hợp đồng nhập khẩu hàng hoá nói riêng, các doanh nghiệp Việt Nam  cần phải tìm hiểu kỹ luật pháp của nước đối tác quy định như thế nào về thẩm quyền  và ủy quyền, hoặc yêu cầu đối tác cung cấp tài liệu để chứng minh mình có thẩm quyền ký kết hợp đồng. Một số doanh nghiệp nước ngoài còn quy định chữ ký của  một người phải đi kèm với chữ ký của một hoặc một số người khác nữa thì mới đủ  hiệu lực, vì vậy cần đặc biệt lưu ý trường hợp này để yêu cầu đối tác cung cấp đầy  đủ các tài liệu pháp lý liên quan như điều lệ, giấy uỷ quyền, quy định phân cấp,… 

của công ty để xác định đúng thẩm quyền của người ký kết hợp đồng. 

1.2.4. Điều kiện giao hàng 

Giao hàng là nghĩa vụ cơ bản của bên bán trong hợp đồng mua bán hàng hóa nói chung và hợp đồng nhập khẩu hàng hoá nói riêng. Theo quy định của Luật  Thương mại Việt Nam 2005 tại Điều 34, 35, bên bán có nghĩa vụ phải giao hàng,  giao chứng từ theo thỏa thuận hợp đồng về số lượng, chất lượng, cách thức đóng  gói, bảo quản và các quy định khác trong hợp đồng. Bên bán phải đảm bảo: i) Giao  hàng đúng địa điểm đã thoả thuận, ii) Giao hàng đúng thời hạn, iii) Hàng hóa được  giao phù hợp với hợp đồng, iv) Giao đủ chứng từ liên quan đến hàng hóa. Trường  hợp các bên không có thoả thuận cụ thể thì bên bán có nghĩa vụ giao hàng và chứng  từ liên quan theo quy định của pháp luật. 

i) Giao hàng đúng địa điểm: 

Khi giao hàng, bên bán phải đảm bảo giao hàng đúng địa điểm đã thoả thuận  trong hợp đồng. Một câu hỏi đặt ra là trong trường hợp hợp đồng nhập khẩu hàng  hoá không quy định địa điểm giao hàng thì việc giao hàng sẽ diễn ra ở đâu? Thông  thường, các hợp đồng nhập khẩu hàng hoá tại Việt Nam thường áp dụng các điều  kiện giao hàng theo Incoterms, chủ yếu là điều kiện CIF và FOB. Khi đó, nếu không  có địa điểm giao hàng cụ thể trong hợp đồng thì theo quy định của CISG (Điều 31)  và Luật Thương mại 2005 (Điều 35), người bán sẽ được xem là hoàn thành nghĩa vụ giao hàng nếu đã hoàn thành giao hàng cho người chuyên chở đầu tiên.  

Vì vậy, khi soạn thảo hợp đồng nhập khẩu hàng hoá, cần đặc biệt lưu ý phải  quy định rõ địa điểm giao hàng đi kèm với các điều kiện giao hàng (ví dụ CIF [Cảng  Hải Phòng]) để tránh những thiệt hại phát sinh không đáng có để lấy được hàng về. 

ii) Giao hàng đúng thời hạn: 

Thời hạn giao hàng được quy định cụ thể tại Điều 37 Luật Thương mại 2005,  tương tự với quy định tại Điều 33 CISG. Theo đó, bên bán phải giao hàng vào đúng  thời điểm đã được thoả thuận trong hợp đồng, nếu hợp đồng không quy định thời  điểm giao hàng cụ thể mà chỉ quy định thời hạn giao hàng thì bên bán có thể giao  hàng vào bất kỳ thời điểm nào trong thời hạn đó. Nếu không có quy định về thời hạn  giao hàng thì bên bán phải giao hàng trong một thời hạn hợp lý sau khi ký kết hợp  đồng. Tuy nhiên, thế nào được coi là một thời hạn hợp lý là một vấn đề đang còn  nhiều tranh cãi. “Hợp lý” ở đây có thể hiểu là khoảng thời gian cần thiết để bố trí  việc vận chuyển hoặc thời gian để người bán chuẩn bị nguyên vật liệu hoặc sản xuất ra hàng hóa... Do đó, sẽ hết sức rủi ro cho bên nhập khẩu hàng hóa nếu như hợp  đồng không quy định cụ thể về thời gian giao hàng, vì khi đó việc giao hàng sẽ gần  như phụ thuộc hoàn toàn vào bên xuất khẩu.  

iii) Hàng hóa được giao phù hợp với hợp đồng: 

Bên bán có nghĩa vụ phải giao hàng hóa phù hợp với hợp đồng, nếu hàng hóa được giao không phù hợp với hợp đồng thì bên bán bị vi phạm nghĩa vụ. Vậy thế  nào là hàng hóa không phù hợp với hợp đồng và trách nhiệm của bên bán đối với  hàng hóa không phù hợp như thế nào? 

Trước tiên cần làm rõ thế nào là hàng hóa phù hợp với hợp đồng. Không có  quy định cụ thể về việc thế nào là hàng hóa phù hợp với hợp đồng, tuy nhiên, căn cứ  Khoản 1 Điều 35 CISG và Khoản 1 Điều 34 Luật Thương mại 2005 thì có thể hiểu  rằng hàng hóa phù hợp với hợp đồng là hàng hóa được giao đúng số lượng, chất  lượng, mô tả và đúng bao bì hay đóng gói như quy định trong hợp đồng. Ngược lại,  các trường hợp hàng hóa không phù hợp với hợp đồng lại được quy định rõ trong  CISG (Điều 35.2) và Luật Thương mại 2005 (khoản 1, Điều 39). 

Khi bên bán giao hàng hoá không phù hợp với hợp đồng thì bên mua có quyền  từ chối nhận hàng theo khoản 2 Điều 39 Luật Thương mại 2005. Tuy nhiên, trên  thực tế việc từ chối nhận hàng không xảy ra thường xuyên mà thay vào đó bên mua sẽ yêu cầu giảm giá hàng hóa vì bên mua thường ở trong tình thế cần than nên đôi  khi họ vẫn chấp nhận than kém chất lượng nhưng được giảm giá.  

iv) Giao đủ chứng từ liên quan đến hàng hóa:

Nghĩa vụ giao chứng từ liên quan đến hàng hóa được quy định tại Điều 42  Luật Thương mại 2005 và Điều 34 CISG, theo đó, bên bán có nghĩa vụ phải giao  các chứng từ liên quan đến hàng hóa theo đúng thời hạn, địa điểm và phương thức  đã thoả thuận trong hợp đồng. Các loại chứng từ cụ thể phải giao liên quan đến hàng  hóa sẽ được các bên quy định cụ thể trong hợp đồng tại các điều khoản như thanh  toán, giao hàng,… Các hợp đồng nhập khẩu hàng hoá tại Việt Nam thường áp dụng  các điều kiện giao hàng theo Incoterms nên việc xác định các loại chứng từ cơ bản  mà người bán phải giao cho người mua là tương đối đơn giản. Một số chứng từ phổ  biến có thể kể đến như vận đơn, hoá đơn thương mại, chứng từ bảo hiểm, giấy  chứng nhận chất lượng, nguồn gốc xuất xứ,…  

1.2.5. Điều khoản chất lượng 

Điều khoản chất lượng cũng là một điều khoản phức tạp, dễ dẫn đến phát sinh  tranh chấp trong hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế nói chung và hợp đồng nhập  khẩu hàng hoá nói riêng. Nếu hợp đồng không quy định rõ ràng các tiêu chuẩn chất  lượng và phương pháp đánh giá chất lượng của hàng hóa thì việc xác định chất  lượng của hàng hóa có phù hợp với hợp đồng hay không là không hề đơn giản. Vì  vậy, trong hợp đồng nhập khẩu hàng hoá cần đặc biệt lưu ý quy định một cách cụ  thể, chi tiết nhất có thể về chất lượng hàng hoá nhập khẩu. Có nhiều cách để xác  định phẩm chất của hàng hóa như đưa ra các tiêu chuẩn, thông số kỹ thuật (ví dụ  mua sắm máy móc thiết bị), hoặc quy định hàm lượng chất chủ yếu trong hàng hóa (chẳng hạn như mua các sản phẩm nông sản, các loại quặng), hoặc cũng có thể dựa  vào hàng mẫu (ví dụ: mua sắm đồng phục cơ quan theo mẫu),…Trong nhiều trường hợp, để đảm bảo chất lượng hàng hoá, các bên thường yêu cầu cấp giấy chứng nhận  chất lượng do các đơn vị giám định độc lập/ các tổ chức giám định chất lượng uy tín  ban hành. 

Một câu hỏi đặt ra là khi hàng hoá được giao không đáp ứng yêu cầu về chất  lượng như quy định trong hợp đồng thì sẽ xử lý như thế nào? Trường hợp bên bán  giao hàng không phù hợp với hợp đồng thì bên mua có quyền từ chối nhận hàng.  Ngoài ra, bên mua vẫn có thể nhận hàng nhưng sẽ yêu cầu giảm giá hàng hóa theo  quy định tại Điều 50 CISG. Tuy nhiên, người mua phải tuân thủ quy định của Điều 

39 hoặc Điều 43 CISG liên quan đến việc thông báo về sự không phù hợp của hàng  hóa. Mặc dù biện pháp giảm giá không được quy định tại Luật Thương mại Việt Nam  2005 nhưng biện pháp này lại được Bộ Luật Dân sự Việt Nam 2015 công nhận tại Điều  445 (Khoản 1). Tuy nhiên, Bộ luật Dân sự 2015 không có quy định cụ thể về quyền và các điều kiện đi kèm với quyền áp dụng biện pháp giảm giá của bên mua. 

 1.2.6. Điều khoản thanh toán 

i) Giá cả, đồng tiền thanh toán 

Điều khoản về giá là điều khoản đặc biệt quan trọng trong hợp đồng. Thông  thường, đối với hợp đồng nhập khẩu hàng hoá, giá hợp đồng được xác định dựa trên  điều kiện giao hàng. Ví dụ, hợp đồng nhập khẩu theo điều kiện CIF thì giá hợp đồng  sẽ bao gồm toàn bộ chi phí tiền hàng, cước vận chuyển và phí bảo hiểm để đưa hàng  đến cảng đến quy định trong hợp đồng. Điều khoản về giá cần quy định chi tiết cấu  thành giá như đơn giá hàng hóa, đơn giá vận chuyển, bảo hiểm,… và phải nêu rõ khối  lượng để xác định tổng giá. Trường hợp các bên không có thoả thuận về giá thì giá của  hàng hóa sẽ được xác định theo Điều 52 Luật thương mại 2005 và Điều 55 CISG. 

Đặc biệt, trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, cần lưu ý đồng tiền thanh  toán và tỷ giá vì đây là những yếu tố có tác động rất lớn đến lợi nhuận kinh doanh. Điển hình cho các vấn đề rủi ro về tỷ giá là trường hợp của Tập đoàn Công nghiệp – Viễn thông quân đội Viettel. Năm 2016, dự án đầu tư tại Mozambique và Haiti của  Tập đoàn có lợi nhuận nhưng do biến động tỷ giá nên Tập đoàn này phải trích lập  dự phòng chênh lệch tỷ giá chưa thực hiện, gây ra lỗ kế toán. Như vậy, việc xác  định giá bằng đồng tiền “mạnh” hay đồng tiền “yếu” có ý nghĩa hết sức quan trọng.  Đối với các doanh nghiệp nhập khẩu hàng hóa thì việc quy định đồng tiền có xu  hướng mất giá sẽ có lợi hơn. 

Tuy nhiên, tại Việt Nam, việc quy định đồng tiền tính giá, đồng tiền thanh toán  cần phải tuân thủ quy định của Pháp lệnh Ngoại hối 2013 và Thông tư 32/2013/TT NHNH. Các trường hợp được phép sử dụng ngoại hối theo quy định của Ngân hàng  Nhà nước được quy định cụ thể tại Điều 4 Thông tư 32/2013/TT-NHNH. Do đó, các  doanh nghiệp cần tham chiếu đến Thông tư này để xác định mình có thuộc trường  hợp được sử dụng ngoại hối trên lãnh thổ Việt Nam hay không. 

ii) Thời hạn thanh toán: 

Thời hạn thanh toán được quy định tại Điều 55 Luật thương mại 2005. Theo  đó, người mua phải thanh toán cho người bán ngay khi người bán giao hàng hoặc  giao chứng từ, người mua được kiểm tra hàng hóa trước khi thanh toán theo quy  định tại Điều 44 Luật Thương mại 2005. Quy định này cũng tương tự như quy định  của CISG (Điều 58). 

Tuy nhiên, trong giao dịch thương mại quốc tế, các bên thường thoả thuận thời  hạn thanh toán tiền hàng theo một trong các cách: trả trước, trả ngay, trả sau hoặc  kết hợp các cách trên. Việc áp dụng thời hạn thanh toán theo cách nào phụ thuộc  vào vị thế của các bên trong hợp đồng, chẳng hạn, khi hàng hóa có giá trị lớn hoặc  có tính chất đặc biệt quan trọng đối với người mua thì người bán thường yêu cầu  người mua trả trước tiền hàng. Để tránh bị chiếm dụng vốn trong thời gian mà bên  bán chưa giao hàng thì bên mua nên đàm phán tỷ lệ trả trước càng thấp càng tốt. 

iii) Phương thức thanh toán: 

Có một số phương thức thanh toán trong các hợp đồng ngoại thương như thanh  toán bằng điện chuyển tiền (T/T), thanh toán nhờ thu, thanh toán bằng thư tín dụng  (L/C)… Trong đó, phương thức thanh toán phổ biến nhất trong các hợp đồng nhập  khẩu hàng hoá là thanh toán bằng thư tín dụng (L/C).  

iv) Áp dụng chỉ số giá thanh toán: 

Một số hợp đồng nhập khẩu hàng hoá có áp dụng chỉ số giá thanh toán quốc tế,  đặc biệt là các hợp đồng nhập khẩu nhiên liệu. Việc áp dụng chỉ số giá thanh toán  tại thời điểm nào có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, nó quyết định đến hiệu quả tài  chính của giao dịch mua bán. Thông thường, trong các hợp đồng nhập khẩu nhiên  liệu, giá hợp đồng không phải giá cố định mà là giá biến đổi, cụ thể, các bên thường  áp dụng chỉ số giá nhiên liệu trong công thức tính toán giá thanh toán để phản ánh  giá thị trường. Các chỉ số này liên tục biến động theo thị trường nên các doanh  nghiệp nhập khẩu cần phải hết sức cẩn trọng và nhạy bén khi quyết định thời điểm áp dụng chỉ số giá tại thời điểm để đảm bảo mua hàng với chi phí thấp nhất.

1.2.7. Nghĩa vụ nhận hàng 

Nghĩa vụ nhận hàng là nghĩa vụ của người mua, được quy định cụ thể tại Điều  56 Luật Thương mại 2005 và Điều 53, Điều 60 CISG. Tuy nhiên, không phải trong  mọi trường hợp người mua đều có nghĩa vụ phải nhận hàng. Như đã phân tích ở  trên, một số trường hợp người mua không phải nhận hàng như người bán giao hàng  trước thời hạn quy định tại Điều 52.1 CISG và Điều 38 Luật Thương mại 2005.  Ngoài ra, trường hợp người bán giao hàng không phù hợp với hợp đồng, người mua  cũng có quyền từ chối nhận hàng theo khoản 2 Điều 39 Luật Thương mại 2005.  Người mua cũng có quyền từ chối nhận số hàng giao thừa khi người bán giao nhiều  hơn số lượng quy định trong hợp đồng theo Điều 52.2 CISG. 

Tuy nhiên, một điểm đáng lưu ý là người mua không đơn giản chỉ có nghĩa vụ  nhận hàng mà còn phải “thực hiện những hành vi hợp lý” để người bán có thể giao  hàng theo quy định tại Điều 56 Luật Thương mại 2005 và Điều 60 CISG. Điều này  dựa trên nguyên tắc thiện chí trong mọi giao dịch dân sự và thương mại nói chung.  Nghĩa là người mua phải hỗ trợ hết sức trong phạm vi khả năng có thể để người bán  giao hàng thuận lợi. Nguyên tắc thiện chí tưởng chừng đơn giản nhưng trên thực tế  đã có nhiều doanh nghiệp gặp phải tranh chấp liên quan đến nghĩa vụ thiện chí và bị  thua kiện do vi phạm nguyên tắc này, vì khái niệm thế nào được coi là thiện chí là  khá khó xác định và được hiểu theo những cách khác nhau tuỳ thuộc vào từng  trường hợp cụ thể. Do đó, với vai trò là nhà nhập khẩu, các doanh nghiệp nhập khẩu  cần đặc biệt lưu ý nguyên tắc này trong quá trình thực hiện hợp đồng nhập khẩu  hàng hoá để tránh vi phạm. 

1.2.8. Kiểm tra hàng hóa 

Việc kiểm tra hàng hoá trước khi giao hàng là yêu cầu cần thiết đối với giao  dịch mua bán hàng hóa nhập khẩu, giúp ngăn ngừa những khiếm khuyết của hàng  hóa. Theo Khoản 1 Điều 44 Luật Thương mại thì trường hợp các bên thoả thuận để  bên mua tiến hành kiểm tra hàng hóa trước khi giao hàng thì bên bán phải bảo đảm  cho bên mua có điều kiện tiến hành việc kiểm tra. Tuy nhiên, CISG lại quy định  việc kiểm tra hàng hóa là nghĩa vụ của bên mua (Điều 38.1) và việc kiểm tra này  phải được thực hiện trong thời gian ngắn nhất có thể. Nguyên tắc này cũng giống với quy định tại Khoản 2 Điều 44 Luật Thương mại 2005. Tuy nhiên, cả hai nguồn  luật đều không đưa ra tiêu chí để xác định thế nào là thời hạn ngắn nhất, do đó, sẽ  dẫn đến nhiều tranh chấp khi các bên có quan điểm khác nhau. Trong nhiều trường  hợp, các bên thường thuê các tổ chức giám định chuyên nghiệp, độc lập để tiến hành  kiểm tra hàng hoá nhằm đảm bảo có thể phát hiện những khiếm khuyết mà không  thể nhận thấy bằng mắt thường. Thời gian để các đơn vị giám định hoàn thành việc  kiểm tra và phát hành chứng thư giám định chất lượng và khối lượng thường là 2-3  ngày. Tuy nhiên, đôi khi thời gian phát hành chứng thư của các đơn vị giám định có  thể kéo dài cả tuần vì một số lý do, dẫn đến tranh chấp như đã nêu ở trên và làm ảnh  hưởng đến hàng loạt các bước tiếp theo trong quá trình nhập khẩu hàng hoá. 

Sau khi kiểm tra hàng hóa, nếu phát hiện thấy sự bất thường, bên mua phải  thông báo ngay cho bên bán trong một thời hạn hợp lý theo Khoản 4 Điều 44 Luật  Thương mại 2005 và Điều 39 CISG. Việc không thông báo cho bên bán về sự không  phù hợp của hàng hóa ngay sau khi kiểm tra sẽ dẫn đến khả năng bên mua bị mất  quyền khiếu nại về khiếm khuyết của hàng hóa đó. Mặc dù cả hai nguồn luật đều  không quy định về hình thức, nội dung của thông báo hàng hóa không phù hợp  nhưng để đảm bảo bằng chứng và tính chắc chắn thì các bên nên lập thông báo bằng  văn bản (giống như hình thức hợp đồng) và nêu chi tiết nội dung khiếm khuyết của  hàng hóa để tránh phát sinh tranh chấp.  

1.2.9. Chuyển giao rủi ro  

Thông thường, trong hợp đồng nhập khẩu hàng hoá, các bên thường áp dụng  các điều kiện giao hàng theo Incoterms, theo đó, các quy định về chuyển giao rủi ro  đã được quy định rõ cho từng điều kiện giao hàng. Tuy nhiên, một vấn đề đặt ra là  liệu các quy định về chuyển rủi ro trong Incoterms có xung đột với các quy định về  chuyển rủi ro của CISG hay không. Khi đó, theo Điều 9.1 và 9.2 CISG thì các bên  sẽ bị điều chỉnh bởi các tập quán mà họ đã thỏa thuận và các tập quán thương mại  quốc tế phổ biến, nghĩa là các quy định về chuyển rủi ro trong Incoterms sẽ được ưu  tiên áp dụng.  

Một vấn đề nữa đặt ra là khi rủi ro đã được chuyển từ người bán sang cho  người mua, nếu hàng hóa bị hư hỏng hoặc mất mát thì người mua có phải thực hiện nghĩa vụ thanh toán tiền hàng không? Điều này đã được quy định rõ tại Điều 66  CISG rằng việc hàng hóa đã bị mất mát hay tổn thất sau khi rủi ro được chuyển sang  cho người mua không miễn trừ cho người mua nghĩa vụ phải trả tiền, tuy nhiên,  trong trường hợp sự hư hỏng hay mất mát đó là do hành động hay thiếu sót của  người bán gây nên thì người mua sẽ được miễn trừ nghĩa vụ thanh toán tiền hàng. 

1.2.10. Luật áp dụng 

Theo nguyên tắc chung của tư pháp quốc tế, các bên khi tham gia hợp đồng  mua bán hàng hóa quốc tế có quyền tự do lựa chọn luật áp dụng cho hợp đồng của  mình. Trong trường hợp các bên không chọn luật áp dụng cho hợp đồng thì các quy  tắc của tư pháp quốc tế sẽ được áp dụng để xác định luật điều chỉnh hợp đồng.  

Hợp đồng nhập khẩu hàng hoá có thể được điều chỉnh bằng rất nhiều nguồn  luật, bao gồm điều ước quốc tế, luật quốc gia, tập quán thương mại quốc tế và án lệ.  Việc áp dụng nguồn luật nào trước hết sẽ phụ thuộc vào thoả thuận của các bên  trong hợp đồng. Tuy nhiên, việc lựa chọn luật áp dụng cho hợp đồng nhập khẩu  hàng hoá cần phải lưu ý một số điểm quan trọng như phân tích dưới đây để tránh rủi  ro trong quá trình thực hiện hợp đồng: 

Điều ước quốc tế 

Hợp đồng nhập khẩu hàng hoá trước tiên sẽ bị điều chỉnh bởi các Điều ước  quốc tế mà các bên tham gia hợp đồng có trụ sở kinh doanh tại các quốc gia là thành  viên của Điều ước quốc tế đó.  

Các doanh nghiệp Việt Nam khi tham gia vào hoạt động nhập khẩu hàng hoá phần lớn sẽ bị điều chỉnh bởi CISG do Việt Nam đã trở thành thành viên của Công  ước này kể từ năm 2015 và Công ước này chính thức ràng buộc Việt Nam từ  1/1/2017. Các trường hợp áp dụng CISG trong hợp đồng nhập khẩu hàng hoá giữa  bên nhập khẩu có địa điểm kinh doanh tại Việt Nam và bên xuất khẩu có trụ sở tại  nước ngoài có thể kể đến như sau: 

Trường hợp 1, nếu bên xuất khẩu có địa điểm kinh doanh tại quốc gia cũng là  thành viên của CISG thì hợp đồng nhập khẩu hàng hoá giữa hai bên sẽ mặc nhiên  được điều chỉnh bởi CISG (trừ khi các bên tham gia hợp đồng thoả thuận loại trừ việc áp dụng CISG). Đây là trường hợp phổ biến nhất vì hiện nay đã có hơn 95 quốc  gia và vùng lãnh thổ tham gia vào Công ước này.  

Trường hợp 2, CISG cũng có thể được áp dụng trong trường hợp bên xuất  khẩu có trụ sở tại một quốc gia chưa phải là thành viên (chẳng hạn như Indonesia)  nhưng hai bên có thoả thuận áp dụng Luật Việt Nam làm luật điều chỉnh hợp đồng  thì khi đó CISG cũng sẽ được áp dụng do Việt Nam là thành viên của CISG5.  

Trường hợp 3, các bên tham gia hợp đồng nhập khẩu hàng hoá không lựa chọn  luật điều chỉnh hợp đồng và khi xảy ra tranh chấp, cơ quan giải quyết tranh chấp đã  quyết định áp dụng CISG như là nguồn luật điều chỉnh hợp đồng; hoặc các bên đã  lựa chọn áp dụng luật của một quốc gia nhưng luật này không quy định về một vấn đề cụ thể nào đó trong hợp đồng nên cơ quan giải quyết tranh chấp đã lựa chọn  CISG làm nguồn luật bổ sung cho luật quốc gia mà các bên đã lựa chọn.  

Một điểm cần đặc biệt lưu ý là nếu các bên muốn loại trừ việc áp dụng CISG  trong hợp đồng nhập khẩu hàng hoá thì các bên phải quy định rõ trong hợp đồng  rằng CISG sẽ không được áp dụng để điều chỉnh hợp đồng.  

Theo tác giả: Ngô Thị Thu Hồng

Link tài liệu kèm theo: https://docs.google.com/document/d/17s66deukCAUO73T4YTz_wh17NFYrXl7m/edit?rtpof=true

 

 

 

 

avatar
Đặng Quỳnh
584 ngày trước
NHỮNG VẤN ĐỀ PHÁP LÝ VỀ HỢP ĐỒNG NHẬP KHẨU HÀNG HOÁ
1. Những vấn đề pháp lý về hợp đồng nhập khẩu hàng hoá Việc ký kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế nói chung và hợp đồng nhập  khẩu hàng hoá nói riêng đòi hỏi nhiều kinh nghiệm và sự hiểu biết sâu rộng về  chuyên môn cũng như luật pháp. Thực tế cho thấy rằng các doanh nghiệp thường  gặp khó khăn và không ít doanh nghiệp tỏ ra lúng túng khi tham gia vào một quan  hệ hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, một phần cũng vì hệ thống pháp luật của  các nước khác nhau nên việc tìm hiểu các quy định cụ thể trong các hệ thống pháp  luật này là không hề dễ dàng và tương đối mất thời gian, chưa kể việc phải tìm hiểu  cả những Điều ước quốc tế liên quan có thể điều chỉnh hợp đồng. Sau đây là một số  vấn đề pháp lý thường gặp liên quan đến hợp đồng nhập khẩu hàng hoá: 1.2.1. Đối tượng của hợp đồng nhập khẩu hàng hoá Pháp luật của từng nước có những quy định khác nhau về hàng hóa được phép  giao dịch, mua bán. Có những hàng hóa mà pháp luật của bên này cho phép mua  bán nhưng pháp luật của bên kia lại không cho phép. Do vậy, khi tham gia vào một  hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, cần đảm bảo rằng hàng hóa đó được pháp luật  của cả hai bên cho phép trao đổi, mua bán. Đối với hợp đồng xuất nhập khẩu, pháp  luật Việt Nam đã quy định danh mục hàng hóa bị cấm xuất nhập khẩu tại Nghị định  số 69/2018/NĐ-CP ngày 15 tháng 05 năm 2018 của Chính phủ về việc quy định chi  tiết một số điều của Luật quản lý ngoại thương. Theo đó, một số hàng hóa bị cấm  xuất nhập khẩu bao gồm vũ khí, đạn dược, vật liệu nổ, một số loại hoá chất,… 1.2.2. Điều kiện hiệu lực của hợp đồng nhập khẩu hàng hóa CISG không có quy định về điều kiện hiệu lực của hợp đồng mua bán hàng  hóa quốc tế (hay hợp đồng nhập khẩu hàng hóa) nói chung. Theo pháp luật Việt  Nam, điều kiện hiệu lực của hợp đồng được xác định theo Bộ luật Dân sự 2015 (Điều 117), theo đó để một hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế (hay hợp đồng nhập  khẩu hàng hóa) có hiệu lực thì nó phải đáp ứng các điều kiện sau đây:  Điều kiện về chủ thể Các chủ thể tham gia hợp đồng phải có năng lực pháp luật dân sự và năng lực  hành vi dân sự phù hợp với giao dịch mua bán hàng hóa quốc tế (Điểm a Điều 117  BLDS 2015).  Theo Điều 19 Bộ luật Dân sự 2015, năng lực pháp luật dân sự của cá nhân là  khả năng cá nhân có quyền và nghĩa vụ dân sự. Năng lực pháp luật dân sự của cá  nhân có từ khi cá nhân được sinh ra và chấm dứt khi cá nhân đó mất. Để bảo đảm  mọi cá nhân có quyền tự do giao kết hợp đồng, Bộ luật Dân sự 2015 đã quy định:  “Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân được xác định theo pháp luật của nước mà người đó có quốc tịch; Người nước ngoài tại Việt Nam có năng lực pháp luật dân sự như công dân Việt Nam, trừ trường hợp pháp luật Việt Nam có quy định khác”  (Điều 673 BLDS 2015). Đối với pháp nhân, theo Điều 86 Bộ luật Dân sự 2015,  năng lực pháp luật dân sự là khả năng pháp nhân có các quyền, nghĩa vụ dân sự.  Năng lực pháp luật dân sự được hình thành kể từ khi pháp nhân đó được thành lập  (thường là thời điểm đăng ký kinh doanh) và chấm dứt khi pháp nhân đó chấm dứt  hoạt động. Năng lực hành vi dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân bằng hành vi của  mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự (theo Điều 19, BLDS 2015). Thông  thường, một cá nhân có năng lực hành vi dân sự đầy đủ khi đủ mười tám tuổi trở  lên, trừ trường hợp có vấn đề về nhận thức, làm chủ hành vi (Điều 20, Bộ luật Dân  sự 2015). Bộ luật Dân sự 2015 không quy định về năng lực hành vi dân sự của pháp  nhân, tuy nhiên, có thể hiểu rằng năng lực hành vi dân sự của pháp nhân được thể  hiện thông qua hành vi của người đại diện và nó sẽ phát sinh, chấm dứt cùng với  thời điểm phát sinh, chấm dứt năng lực pháp luật của pháp nhân. Vì vậy, khi giao  kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế cần đặc biệt lưu ý xem người ký kết hợp  đồng có phải là người đại diện hợp pháp của pháp nhân hay không. Theo Điều 85  Bộ luật Dân sự thì đại diện của pháp nhân có thể là đại diện theo pháp luật hoặc đại diện theo ủy quyền. Đại diện theo pháp luật là người chịu trách nhiệm về mọi hoạt  động của doanh nghiệp trước pháp luật, là người đại diện cho pháp nhân để ký kết  hợp đồng. Đại diện theo uỷ quyền là người được người có thẩm quyền uỷ quyền để  thực hiện giao dịch ký kết hợp đồng. Tuy nhiên, người được uỷ quyền chỉ được thực  hiện các công việc trong phạm vi được uỷ quyền và người uỷ quyền vẫn phải chịu trách nhiệm cho công việc mà người được uỷ quyền thực hiện. Pháp luật của mỗi quốc gia có những quy định khác nhau về tư cách chủ thể.  Điều này dựa trên nguyên tắc chủ quyền quốc gia, chủ thể tham gia hợp đồng trước  hết phải tuân thủ pháp luật của nước mình về tư cách chủ thể. Vì vậy, muốn xác  định một chủ thể có đầy đủ năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự để  tham gia vào giao dịch mua bán hàng hóa quốc tế hay không thì cần phải tìm hiểu  xem pháp luật của quốc gia mà chủ thể đó mang quốc tịch quy định như thế nào về  vấn đề này nhằm đảm bảo hợp đồng không bị vô hiệu. Đối với hợp đồng nhập khẩu  hàng hoá, nhiều người cho rằng tư cách chủ thể của Bên Bán được xác định theo  pháp luật của nước xuất khẩu hàng hoá. Tuy nhiên, đây là cách xác định không  chính xác, chẳng hạn nước xuất khẩu hàng hoá là Indonesia nhưng Bên Bán lại có  trụ sở tại Singapore thì khi đó pháp luật của Singapore mới là căn cứ để xác định tư  cách chủ thể của Bên Bán, không phải pháp luật của Indonesia. Tuy nhiên, việc tìm hiểu hệ thống pháp luật của nước ngoài là không hề dễ  dàng nên có không ít các doanh nghiệp Việt Nam đã bỏ qua vấn đề này, dẫn đến rủi  ro hợp đồng bị vô hiệu. Điều kiện về sự tự nguyện khi giao kết hợp đồng Điều kiện tiếp theo để hợp đồng nhập khẩu hàng hóa có hiệu lực là các bên  phải tham gia hợp đồng trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện (Điểm b Điều 117 BLDS  2015). Đây là một trong những nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự Việt Nam  (theo Khoản 2 Điều 3 BLDS 2015). Hợp đồng sẽ vô hiệu nếu được ký kết trên cơ sở  bị lừa dối, đe doạ, cưỡng ép hoặc bị nhầm lẫn (theo quy định tại các Điều 126, 127  BLDS 2015) vì trong những trường hợp này các bên không đạt được mục đích và  mong muốn giao kết hợp đồng ban đầu.Điều kiện về mục đích, nội dung của hợp đồng Điểm c Điều 117 Bộ luật Dân sự 2015 quy định: “Mục đích và nội dung của  giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội”. Do đó, các nội dung trong hợp đồng hoàn toàn phụ thuộc vào thoả thuận của  hai bên, miễn là nó không vi phạm điều cấm của luật và không trái đạo đức xã hội.  Nếu vi phạm thì hợp đồng đó sẽ bị vô hiệu theo Điều 123 Bộ luật Dân sự 2015.  Trường hợp một phần nội dung của hợp đồng bị vô hiệu thì hợp đồng đó sẽ bị vô  hiệu từng phần (Điều 130 BLDS 2015). Điều kiện về hình thức hợp đồng Theo Khoản 2 Điều 117 BLDS 2015: “Hình thức của giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự trong trường hợp luật có quy định”. Như đã  phân tích tại phần đặc điểm của hợp đồng nhập khẩu hàng hóa, Khoản 2 Điều 27  Luật Thương mại 2005 quy định hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế ở Việt Nam  phải được thể hiện dưới hình thức văn bản hoặc hình thức khác có giá trị pháp lý  tương đương. Việt Nam cũng đã bảo lưu nội dung này trong CISG nên quy định về  hình thức theo Khoản 2 Điều 27 Luật Thương mại phải được đảm bảo. 1.2.3. Thẩm quyền ký kết hợp đồng  Không giống như cá nhân có thể tự mình tham gia giao kết hợp đồng mua bán  hàng hóa quốc tế, pháp nhân lại không thể tự mình thực hiện việc này mà phải thông  qua người đại diện theo pháp luật của pháp nhân đó. Do vậy, một vấn đề quan trọng  cần phải xác định là liệu người ký hợp đồng có thẩm quyền để ký kết hợp đồng đó  hay không. Theo pháp luật Việt Nam, người có thẩm quyền ký kết hợp đồng là  người đại diện theo pháp luật (người có tên trên giấy đăng ký kinh doanh ở Việt  Nam) hoặc người được người đại diện theo pháp luật ủy quyền để ký kết hợp đồng  thông qua giấy ủy quyền, hoặc cũng có thể người có thẩm quyền được quy định  trong Điều lệ của pháp nhân. Tuy nhiên, pháp luật của mỗi quốc gia có thể quy định  khác nhau về uỷ quyền. Do vậy, khi giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế  nói chung và hợp đồng nhập khẩu hàng hoá nói riêng, các doanh nghiệp Việt Nam  cần phải tìm hiểu kỹ luật pháp của nước đối tác quy định như thế nào về thẩm quyền  và ủy quyền, hoặc yêu cầu đối tác cung cấp tài liệu để chứng minh mình có thẩm quyền ký kết hợp đồng. Một số doanh nghiệp nước ngoài còn quy định chữ ký của  một người phải đi kèm với chữ ký của một hoặc một số người khác nữa thì mới đủ  hiệu lực, vì vậy cần đặc biệt lưu ý trường hợp này để yêu cầu đối tác cung cấp đầy  đủ các tài liệu pháp lý liên quan như điều lệ, giấy uỷ quyền, quy định phân cấp,… của công ty để xác định đúng thẩm quyền của người ký kết hợp đồng. 1.2.4. Điều kiện giao hàng Giao hàng là nghĩa vụ cơ bản của bên bán trong hợp đồng mua bán hàng hóa nói chung và hợp đồng nhập khẩu hàng hoá nói riêng. Theo quy định của Luật  Thương mại Việt Nam 2005 tại Điều 34, 35, bên bán có nghĩa vụ phải giao hàng,  giao chứng từ theo thỏa thuận hợp đồng về số lượng, chất lượng, cách thức đóng  gói, bảo quản và các quy định khác trong hợp đồng. Bên bán phải đảm bảo: i) Giao  hàng đúng địa điểm đã thoả thuận, ii) Giao hàng đúng thời hạn, iii) Hàng hóa được  giao phù hợp với hợp đồng, iv) Giao đủ chứng từ liên quan đến hàng hóa. Trường  hợp các bên không có thoả thuận cụ thể thì bên bán có nghĩa vụ giao hàng và chứng  từ liên quan theo quy định của pháp luật. i) Giao hàng đúng địa điểm: Khi giao hàng, bên bán phải đảm bảo giao hàng đúng địa điểm đã thoả thuận  trong hợp đồng. Một câu hỏi đặt ra là trong trường hợp hợp đồng nhập khẩu hàng  hoá không quy định địa điểm giao hàng thì việc giao hàng sẽ diễn ra ở đâu? Thông  thường, các hợp đồng nhập khẩu hàng hoá tại Việt Nam thường áp dụng các điều  kiện giao hàng theo Incoterms, chủ yếu là điều kiện CIF và FOB. Khi đó, nếu không  có địa điểm giao hàng cụ thể trong hợp đồng thì theo quy định của CISG (Điều 31)  và Luật Thương mại 2005 (Điều 35), người bán sẽ được xem là hoàn thành nghĩa vụ giao hàng nếu đã hoàn thành giao hàng cho người chuyên chở đầu tiên.  Vì vậy, khi soạn thảo hợp đồng nhập khẩu hàng hoá, cần đặc biệt lưu ý phải  quy định rõ địa điểm giao hàng đi kèm với các điều kiện giao hàng (ví dụ CIF [Cảng  Hải Phòng]) để tránh những thiệt hại phát sinh không đáng có để lấy được hàng về. ii) Giao hàng đúng thời hạn: Thời hạn giao hàng được quy định cụ thể tại Điều 37 Luật Thương mại 2005,  tương tự với quy định tại Điều 33 CISG. Theo đó, bên bán phải giao hàng vào đúng  thời điểm đã được thoả thuận trong hợp đồng, nếu hợp đồng không quy định thời  điểm giao hàng cụ thể mà chỉ quy định thời hạn giao hàng thì bên bán có thể giao  hàng vào bất kỳ thời điểm nào trong thời hạn đó. Nếu không có quy định về thời hạn  giao hàng thì bên bán phải giao hàng trong một thời hạn hợp lý sau khi ký kết hợp  đồng. Tuy nhiên, thế nào được coi là một thời hạn hợp lý là một vấn đề đang còn  nhiều tranh cãi. “Hợp lý” ở đây có thể hiểu là khoảng thời gian cần thiết để bố trí  việc vận chuyển hoặc thời gian để người bán chuẩn bị nguyên vật liệu hoặc sản xuất ra hàng hóa... Do đó, sẽ hết sức rủi ro cho bên nhập khẩu hàng hóa nếu như hợp  đồng không quy định cụ thể về thời gian giao hàng, vì khi đó việc giao hàng sẽ gần  như phụ thuộc hoàn toàn vào bên xuất khẩu.  iii) Hàng hóa được giao phù hợp với hợp đồng: Bên bán có nghĩa vụ phải giao hàng hóa phù hợp với hợp đồng, nếu hàng hóa được giao không phù hợp với hợp đồng thì bên bán bị vi phạm nghĩa vụ. Vậy thế  nào là hàng hóa không phù hợp với hợp đồng và trách nhiệm của bên bán đối với  hàng hóa không phù hợp như thế nào? Trước tiên cần làm rõ thế nào là hàng hóa phù hợp với hợp đồng. Không có  quy định cụ thể về việc thế nào là hàng hóa phù hợp với hợp đồng, tuy nhiên, căn cứ  Khoản 1 Điều 35 CISG và Khoản 1 Điều 34 Luật Thương mại 2005 thì có thể hiểu  rằng hàng hóa phù hợp với hợp đồng là hàng hóa được giao đúng số lượng, chất  lượng, mô tả và đúng bao bì hay đóng gói như quy định trong hợp đồng. Ngược lại,  các trường hợp hàng hóa không phù hợp với hợp đồng lại được quy định rõ trong  CISG (Điều 35.2) và Luật Thương mại 2005 (khoản 1, Điều 39). Khi bên bán giao hàng hoá không phù hợp với hợp đồng thì bên mua có quyền  từ chối nhận hàng theo khoản 2 Điều 39 Luật Thương mại 2005. Tuy nhiên, trên  thực tế việc từ chối nhận hàng không xảy ra thường xuyên mà thay vào đó bên mua sẽ yêu cầu giảm giá hàng hóa vì bên mua thường ở trong tình thế cần than nên đôi  khi họ vẫn chấp nhận than kém chất lượng nhưng được giảm giá.  iv) Giao đủ chứng từ liên quan đến hàng hóa:Nghĩa vụ giao chứng từ liên quan đến hàng hóa được quy định tại Điều 42  Luật Thương mại 2005 và Điều 34 CISG, theo đó, bên bán có nghĩa vụ phải giao  các chứng từ liên quan đến hàng hóa theo đúng thời hạn, địa điểm và phương thức  đã thoả thuận trong hợp đồng. Các loại chứng từ cụ thể phải giao liên quan đến hàng  hóa sẽ được các bên quy định cụ thể trong hợp đồng tại các điều khoản như thanh  toán, giao hàng,… Các hợp đồng nhập khẩu hàng hoá tại Việt Nam thường áp dụng  các điều kiện giao hàng theo Incoterms nên việc xác định các loại chứng từ cơ bản  mà người bán phải giao cho người mua là tương đối đơn giản. Một số chứng từ phổ  biến có thể kể đến như vận đơn, hoá đơn thương mại, chứng từ bảo hiểm, giấy  chứng nhận chất lượng, nguồn gốc xuất xứ,…  1.2.5. Điều khoản chất lượng Điều khoản chất lượng cũng là một điều khoản phức tạp, dễ dẫn đến phát sinh  tranh chấp trong hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế nói chung và hợp đồng nhập  khẩu hàng hoá nói riêng. Nếu hợp đồng không quy định rõ ràng các tiêu chuẩn chất  lượng và phương pháp đánh giá chất lượng của hàng hóa thì việc xác định chất  lượng của hàng hóa có phù hợp với hợp đồng hay không là không hề đơn giản. Vì  vậy, trong hợp đồng nhập khẩu hàng hoá cần đặc biệt lưu ý quy định một cách cụ  thể, chi tiết nhất có thể về chất lượng hàng hoá nhập khẩu. Có nhiều cách để xác  định phẩm chất của hàng hóa như đưa ra các tiêu chuẩn, thông số kỹ thuật (ví dụ  mua sắm máy móc thiết bị), hoặc quy định hàm lượng chất chủ yếu trong hàng hóa (chẳng hạn như mua các sản phẩm nông sản, các loại quặng), hoặc cũng có thể dựa  vào hàng mẫu (ví dụ: mua sắm đồng phục cơ quan theo mẫu),…Trong nhiều trường hợp, để đảm bảo chất lượng hàng hoá, các bên thường yêu cầu cấp giấy chứng nhận  chất lượng do các đơn vị giám định độc lập/ các tổ chức giám định chất lượng uy tín  ban hành. Một câu hỏi đặt ra là khi hàng hoá được giao không đáp ứng yêu cầu về chất  lượng như quy định trong hợp đồng thì sẽ xử lý như thế nào? Trường hợp bên bán  giao hàng không phù hợp với hợp đồng thì bên mua có quyền từ chối nhận hàng.  Ngoài ra, bên mua vẫn có thể nhận hàng nhưng sẽ yêu cầu giảm giá hàng hóa theo  quy định tại Điều 50 CISG. Tuy nhiên, người mua phải tuân thủ quy định của Điều 39 hoặc Điều 43 CISG liên quan đến việc thông báo về sự không phù hợp của hàng  hóa. Mặc dù biện pháp giảm giá không được quy định tại Luật Thương mại Việt Nam  2005 nhưng biện pháp này lại được Bộ Luật Dân sự Việt Nam 2015 công nhận tại Điều  445 (Khoản 1). Tuy nhiên, Bộ luật Dân sự 2015 không có quy định cụ thể về quyền và các điều kiện đi kèm với quyền áp dụng biện pháp giảm giá của bên mua.  1.2.6. Điều khoản thanh toán i) Giá cả, đồng tiền thanh toán Điều khoản về giá là điều khoản đặc biệt quan trọng trong hợp đồng. Thông  thường, đối với hợp đồng nhập khẩu hàng hoá, giá hợp đồng được xác định dựa trên  điều kiện giao hàng. Ví dụ, hợp đồng nhập khẩu theo điều kiện CIF thì giá hợp đồng  sẽ bao gồm toàn bộ chi phí tiền hàng, cước vận chuyển và phí bảo hiểm để đưa hàng  đến cảng đến quy định trong hợp đồng. Điều khoản về giá cần quy định chi tiết cấu  thành giá như đơn giá hàng hóa, đơn giá vận chuyển, bảo hiểm,… và phải nêu rõ khối  lượng để xác định tổng giá. Trường hợp các bên không có thoả thuận về giá thì giá của  hàng hóa sẽ được xác định theo Điều 52 Luật thương mại 2005 và Điều 55 CISG. Đặc biệt, trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, cần lưu ý đồng tiền thanh  toán và tỷ giá vì đây là những yếu tố có tác động rất lớn đến lợi nhuận kinh doanh. Điển hình cho các vấn đề rủi ro về tỷ giá là trường hợp của Tập đoàn Công nghiệp – Viễn thông quân đội Viettel. Năm 2016, dự án đầu tư tại Mozambique và Haiti của  Tập đoàn có lợi nhuận nhưng do biến động tỷ giá nên Tập đoàn này phải trích lập  dự phòng chênh lệch tỷ giá chưa thực hiện, gây ra lỗ kế toán. Như vậy, việc xác  định giá bằng đồng tiền “mạnh” hay đồng tiền “yếu” có ý nghĩa hết sức quan trọng.  Đối với các doanh nghiệp nhập khẩu hàng hóa thì việc quy định đồng tiền có xu  hướng mất giá sẽ có lợi hơn. Tuy nhiên, tại Việt Nam, việc quy định đồng tiền tính giá, đồng tiền thanh toán  cần phải tuân thủ quy định của Pháp lệnh Ngoại hối 2013 và Thông tư 32/2013/TT NHNH. Các trường hợp được phép sử dụng ngoại hối theo quy định của Ngân hàng  Nhà nước được quy định cụ thể tại Điều 4 Thông tư 32/2013/TT-NHNH. Do đó, các  doanh nghiệp cần tham chiếu đến Thông tư này để xác định mình có thuộc trường  hợp được sử dụng ngoại hối trên lãnh thổ Việt Nam hay không. ii) Thời hạn thanh toán: Thời hạn thanh toán được quy định tại Điều 55 Luật thương mại 2005. Theo  đó, người mua phải thanh toán cho người bán ngay khi người bán giao hàng hoặc  giao chứng từ, người mua được kiểm tra hàng hóa trước khi thanh toán theo quy  định tại Điều 44 Luật Thương mại 2005. Quy định này cũng tương tự như quy định  của CISG (Điều 58). Tuy nhiên, trong giao dịch thương mại quốc tế, các bên thường thoả thuận thời  hạn thanh toán tiền hàng theo một trong các cách: trả trước, trả ngay, trả sau hoặc  kết hợp các cách trên. Việc áp dụng thời hạn thanh toán theo cách nào phụ thuộc  vào vị thế của các bên trong hợp đồng, chẳng hạn, khi hàng hóa có giá trị lớn hoặc  có tính chất đặc biệt quan trọng đối với người mua thì người bán thường yêu cầu  người mua trả trước tiền hàng. Để tránh bị chiếm dụng vốn trong thời gian mà bên  bán chưa giao hàng thì bên mua nên đàm phán tỷ lệ trả trước càng thấp càng tốt. iii) Phương thức thanh toán: Có một số phương thức thanh toán trong các hợp đồng ngoại thương như thanh  toán bằng điện chuyển tiền (T/T), thanh toán nhờ thu, thanh toán bằng thư tín dụng  (L/C)… Trong đó, phương thức thanh toán phổ biến nhất trong các hợp đồng nhập  khẩu hàng hoá là thanh toán bằng thư tín dụng (L/C).  iv) Áp dụng chỉ số giá thanh toán: Một số hợp đồng nhập khẩu hàng hoá có áp dụng chỉ số giá thanh toán quốc tế,  đặc biệt là các hợp đồng nhập khẩu nhiên liệu. Việc áp dụng chỉ số giá thanh toán  tại thời điểm nào có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, nó quyết định đến hiệu quả tài  chính của giao dịch mua bán. Thông thường, trong các hợp đồng nhập khẩu nhiên  liệu, giá hợp đồng không phải giá cố định mà là giá biến đổi, cụ thể, các bên thường  áp dụng chỉ số giá nhiên liệu trong công thức tính toán giá thanh toán để phản ánh  giá thị trường. Các chỉ số này liên tục biến động theo thị trường nên các doanh  nghiệp nhập khẩu cần phải hết sức cẩn trọng và nhạy bén khi quyết định thời điểm áp dụng chỉ số giá tại thời điểm để đảm bảo mua hàng với chi phí thấp nhất.1.2.7. Nghĩa vụ nhận hàng Nghĩa vụ nhận hàng là nghĩa vụ của người mua, được quy định cụ thể tại Điều  56 Luật Thương mại 2005 và Điều 53, Điều 60 CISG. Tuy nhiên, không phải trong  mọi trường hợp người mua đều có nghĩa vụ phải nhận hàng. Như đã phân tích ở  trên, một số trường hợp người mua không phải nhận hàng như người bán giao hàng  trước thời hạn quy định tại Điều 52.1 CISG và Điều 38 Luật Thương mại 2005.  Ngoài ra, trường hợp người bán giao hàng không phù hợp với hợp đồng, người mua  cũng có quyền từ chối nhận hàng theo khoản 2 Điều 39 Luật Thương mại 2005.  Người mua cũng có quyền từ chối nhận số hàng giao thừa khi người bán giao nhiều  hơn số lượng quy định trong hợp đồng theo Điều 52.2 CISG. Tuy nhiên, một điểm đáng lưu ý là người mua không đơn giản chỉ có nghĩa vụ  nhận hàng mà còn phải “thực hiện những hành vi hợp lý” để người bán có thể giao  hàng theo quy định tại Điều 56 Luật Thương mại 2005 và Điều 60 CISG. Điều này  dựa trên nguyên tắc thiện chí trong mọi giao dịch dân sự và thương mại nói chung.  Nghĩa là người mua phải hỗ trợ hết sức trong phạm vi khả năng có thể để người bán  giao hàng thuận lợi. Nguyên tắc thiện chí tưởng chừng đơn giản nhưng trên thực tế  đã có nhiều doanh nghiệp gặp phải tranh chấp liên quan đến nghĩa vụ thiện chí và bị  thua kiện do vi phạm nguyên tắc này, vì khái niệm thế nào được coi là thiện chí là  khá khó xác định và được hiểu theo những cách khác nhau tuỳ thuộc vào từng  trường hợp cụ thể. Do đó, với vai trò là nhà nhập khẩu, các doanh nghiệp nhập khẩu  cần đặc biệt lưu ý nguyên tắc này trong quá trình thực hiện hợp đồng nhập khẩu  hàng hoá để tránh vi phạm. 1.2.8. Kiểm tra hàng hóa Việc kiểm tra hàng hoá trước khi giao hàng là yêu cầu cần thiết đối với giao  dịch mua bán hàng hóa nhập khẩu, giúp ngăn ngừa những khiếm khuyết của hàng  hóa. Theo Khoản 1 Điều 44 Luật Thương mại thì trường hợp các bên thoả thuận để  bên mua tiến hành kiểm tra hàng hóa trước khi giao hàng thì bên bán phải bảo đảm  cho bên mua có điều kiện tiến hành việc kiểm tra. Tuy nhiên, CISG lại quy định  việc kiểm tra hàng hóa là nghĩa vụ của bên mua (Điều 38.1) và việc kiểm tra này  phải được thực hiện trong thời gian ngắn nhất có thể. Nguyên tắc này cũng giống với quy định tại Khoản 2 Điều 44 Luật Thương mại 2005. Tuy nhiên, cả hai nguồn  luật đều không đưa ra tiêu chí để xác định thế nào là thời hạn ngắn nhất, do đó, sẽ  dẫn đến nhiều tranh chấp khi các bên có quan điểm khác nhau. Trong nhiều trường  hợp, các bên thường thuê các tổ chức giám định chuyên nghiệp, độc lập để tiến hành  kiểm tra hàng hoá nhằm đảm bảo có thể phát hiện những khiếm khuyết mà không  thể nhận thấy bằng mắt thường. Thời gian để các đơn vị giám định hoàn thành việc  kiểm tra và phát hành chứng thư giám định chất lượng và khối lượng thường là 2-3  ngày. Tuy nhiên, đôi khi thời gian phát hành chứng thư của các đơn vị giám định có  thể kéo dài cả tuần vì một số lý do, dẫn đến tranh chấp như đã nêu ở trên và làm ảnh  hưởng đến hàng loạt các bước tiếp theo trong quá trình nhập khẩu hàng hoá. Sau khi kiểm tra hàng hóa, nếu phát hiện thấy sự bất thường, bên mua phải  thông báo ngay cho bên bán trong một thời hạn hợp lý theo Khoản 4 Điều 44 Luật  Thương mại 2005 và Điều 39 CISG. Việc không thông báo cho bên bán về sự không  phù hợp của hàng hóa ngay sau khi kiểm tra sẽ dẫn đến khả năng bên mua bị mất  quyền khiếu nại về khiếm khuyết của hàng hóa đó. Mặc dù cả hai nguồn luật đều  không quy định về hình thức, nội dung của thông báo hàng hóa không phù hợp  nhưng để đảm bảo bằng chứng và tính chắc chắn thì các bên nên lập thông báo bằng  văn bản (giống như hình thức hợp đồng) và nêu chi tiết nội dung khiếm khuyết của  hàng hóa để tránh phát sinh tranh chấp.  1.2.9. Chuyển giao rủi ro  Thông thường, trong hợp đồng nhập khẩu hàng hoá, các bên thường áp dụng  các điều kiện giao hàng theo Incoterms, theo đó, các quy định về chuyển giao rủi ro  đã được quy định rõ cho từng điều kiện giao hàng. Tuy nhiên, một vấn đề đặt ra là  liệu các quy định về chuyển rủi ro trong Incoterms có xung đột với các quy định về  chuyển rủi ro của CISG hay không. Khi đó, theo Điều 9.1 và 9.2 CISG thì các bên  sẽ bị điều chỉnh bởi các tập quán mà họ đã thỏa thuận và các tập quán thương mại  quốc tế phổ biến, nghĩa là các quy định về chuyển rủi ro trong Incoterms sẽ được ưu  tiên áp dụng.  Một vấn đề nữa đặt ra là khi rủi ro đã được chuyển từ người bán sang cho  người mua, nếu hàng hóa bị hư hỏng hoặc mất mát thì người mua có phải thực hiện nghĩa vụ thanh toán tiền hàng không? Điều này đã được quy định rõ tại Điều 66  CISG rằng việc hàng hóa đã bị mất mát hay tổn thất sau khi rủi ro được chuyển sang  cho người mua không miễn trừ cho người mua nghĩa vụ phải trả tiền, tuy nhiên,  trong trường hợp sự hư hỏng hay mất mát đó là do hành động hay thiếu sót của  người bán gây nên thì người mua sẽ được miễn trừ nghĩa vụ thanh toán tiền hàng. 1.2.10. Luật áp dụng Theo nguyên tắc chung của tư pháp quốc tế, các bên khi tham gia hợp đồng  mua bán hàng hóa quốc tế có quyền tự do lựa chọn luật áp dụng cho hợp đồng của  mình. Trong trường hợp các bên không chọn luật áp dụng cho hợp đồng thì các quy  tắc của tư pháp quốc tế sẽ được áp dụng để xác định luật điều chỉnh hợp đồng.  Hợp đồng nhập khẩu hàng hoá có thể được điều chỉnh bằng rất nhiều nguồn  luật, bao gồm điều ước quốc tế, luật quốc gia, tập quán thương mại quốc tế và án lệ.  Việc áp dụng nguồn luật nào trước hết sẽ phụ thuộc vào thoả thuận của các bên  trong hợp đồng. Tuy nhiên, việc lựa chọn luật áp dụng cho hợp đồng nhập khẩu  hàng hoá cần phải lưu ý một số điểm quan trọng như phân tích dưới đây để tránh rủi  ro trong quá trình thực hiện hợp đồng: Điều ước quốc tế Hợp đồng nhập khẩu hàng hoá trước tiên sẽ bị điều chỉnh bởi các Điều ước  quốc tế mà các bên tham gia hợp đồng có trụ sở kinh doanh tại các quốc gia là thành  viên của Điều ước quốc tế đó.  Các doanh nghiệp Việt Nam khi tham gia vào hoạt động nhập khẩu hàng hoá phần lớn sẽ bị điều chỉnh bởi CISG do Việt Nam đã trở thành thành viên của Công  ước này kể từ năm 2015 và Công ước này chính thức ràng buộc Việt Nam từ  1/1/2017. Các trường hợp áp dụng CISG trong hợp đồng nhập khẩu hàng hoá giữa  bên nhập khẩu có địa điểm kinh doanh tại Việt Nam và bên xuất khẩu có trụ sở tại  nước ngoài có thể kể đến như sau: Trường hợp 1, nếu bên xuất khẩu có địa điểm kinh doanh tại quốc gia cũng là  thành viên của CISG thì hợp đồng nhập khẩu hàng hoá giữa hai bên sẽ mặc nhiên  được điều chỉnh bởi CISG (trừ khi các bên tham gia hợp đồng thoả thuận loại trừ việc áp dụng CISG). Đây là trường hợp phổ biến nhất vì hiện nay đã có hơn 95 quốc  gia và vùng lãnh thổ tham gia vào Công ước này.  Trường hợp 2, CISG cũng có thể được áp dụng trong trường hợp bên xuất  khẩu có trụ sở tại một quốc gia chưa phải là thành viên (chẳng hạn như Indonesia)  nhưng hai bên có thoả thuận áp dụng Luật Việt Nam làm luật điều chỉnh hợp đồng  thì khi đó CISG cũng sẽ được áp dụng do Việt Nam là thành viên của CISG5.  Trường hợp 3, các bên tham gia hợp đồng nhập khẩu hàng hoá không lựa chọn  luật điều chỉnh hợp đồng và khi xảy ra tranh chấp, cơ quan giải quyết tranh chấp đã  quyết định áp dụng CISG như là nguồn luật điều chỉnh hợp đồng; hoặc các bên đã  lựa chọn áp dụng luật của một quốc gia nhưng luật này không quy định về một vấn đề cụ thể nào đó trong hợp đồng nên cơ quan giải quyết tranh chấp đã lựa chọn  CISG làm nguồn luật bổ sung cho luật quốc gia mà các bên đã lựa chọn.  Một điểm cần đặc biệt lưu ý là nếu các bên muốn loại trừ việc áp dụng CISG  trong hợp đồng nhập khẩu hàng hoá thì các bên phải quy định rõ trong hợp đồng  rằng CISG sẽ không được áp dụng để điều chỉnh hợp đồng.  Theo tác giả: Ngô Thị Thu HồngLink tài liệu kèm theo: https://docs.google.com/document/d/17s66deukCAUO73T4YTz_wh17NFYrXl7m/edit?rtpof=true