0888889366
Tra cứu thông tin hợp đồng
timeline_post_file648599be13803-GIẢI-QUYẾT-TRANH-CHẤP-TRONG-HỢP-ĐỒNG-NHẬP-KHẨU-HÀNG-HOÁ.jpeg.webp

GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TRONG HỢP ĐỒNG NHẬP KHẨU HÀNG HOÁ

1.2.11. Giải quyết tranh chấp 

Thực tế khi soạn thảo hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế nói chung và hợp  đồng nhập khẩu hàng hoá nói riêng, các bên thường chú trọng đến các điều khoản  quan trọng liên quan trực tiếp đến quyền và nghĩa vụ của các bên như điều kiện giao  hàng, chất lượng hàng hóa, giá cả, thanh toán,… mà không quan tâm nhiều đến điều  khoản về giải quyết tranh chấp, một phần là do suy nghĩ chủ quan rằng tranh chấp sẽ  ít khi xảy ra. Tuy nhiên, chính tâm lý này sẽ gây ra những rủi ro nghiêm trọng cho  các bên vì hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế là hoạt động tương đối phức tạp nên  việc xảy ra tranh chấp là không thể tránh khỏi. 

Khi phát sinh tranh chấp trong quá trình thực hiện hợp đồng, các bên có thể lựa  chọn giải quyết tranh chấp thông qua thương lượng, hoà giải, trọng tài hoặc toà án.  Một phương thức phổ biến hiện nay mà các bên tham gia vào hợp đồng mua bán  hàng hóa quốc tế thường lựa chọn đó là sự kết hợp một số phương thức giải quyết  theo trình tự sau: đầu tiên là các bên sẽ tự thương lượng trên tinh thần thiện chí, nếu  thương lượng không thành thì các bên sẽ giải quyết tranh chấp bằng con đường hoà  giải, nếu tranh chấp vẫn không thể giải quyết bằng con đường hoà giải thì các bên sẽ  đưa tranh chấp ra cơ quan trọng tài hoặc toà án để xét xử. 

Một điểm cần đặc biệt lưu ý khi soạn thảo điều khoản giải quyết tranh chấp là  phải ghi đúng tên cơ quan giải quyết tranh chấp và địa điểm giải quyết tranh chấp,  chọn đúng quy tắc tố tụng hoặc luật tố tụng áp dụng để tránh rủi ro không xác định  được cơ quan giải quyết tranh chấp, đồng thời, phải quy định rõ ngôn ngữ sử dụng  trong giải quyết tranh chấp. Thực tế cho thấy rằng các doanh nghiệp nên lựa chọn cơ  quan giải quyết tranh chấp tại quốc gia mà doanh nghiệp đó đăng ký kinh doanh để  có nhiều ưu thế hơn trong quá trình giải quyết tranh chấp. 

1.2.12. Vi phạm hợp đồng 

Vi phạm hợp đồng, theo định nghĩa tại Khoản 12 Điều 3 Luật Thương mại 2005 “là việc một bên không thực hiện, thực hiện không đầy đủ hoặc thực hiện  không đúng nghĩa vụ theo thoả thuận giữa các bên hoặc theo quy định của Luật này”.  

Khi có hành vi vi phạm hợp đồng, cần xác định xem đó là vi phạm cơ bản hay  vi phạm không cơ bản vì đây là cơ sở để xác định trách nhiệm của bên vi phạm.  Theo Khoản 12 Điều 3 Luật Thương mại 2005 thì “vi phạm cơ bản là sự vi phạm  hợp đồng của một bên gây thiệt hại cho bên kia đến mức làm cho bên kia không đạt  được mục đích của việc giao kết hợp đồng”. Trường hợp sự vi phạm hợp đồng là vi  phạm cơ bản thì bên bị vi phạm có quyền tạm ngừng, đình chỉ thực hiện hợp đồng  hoặc huỷ bỏ hợp đồng theo các Điều 308, 310 và 312 Luật Thương mại 2005.

Vi phạm cơ bản hợp đồng theo định nghĩa tại Điều 25 CISG là “sự vi phạm  làm cho bên kia bị thiệt hại mà người bị thiệt hại, trong một chừng mực đáng kể bị  mất cái mà họ có quyền chờ đợi trên cơ sở hợp đồng, trừ khi bên vi phạm không tiên  liệu được hậu quả đó và một người có lý trí minh mẫn cũng sẽ không tiên liệu được  nếu họ cũng ở vào hoàn cảnh tương tự”. Nếu một bên vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp  đồng thì bên bị vi phạm có quyền huỷ bỏ hợp đồng. 

1.2.13. Các chế tài áp dụng khi vi phạm hợp đồng 

Điều 292 Luật Thương mại 2005 quy định các chế tài đối với bên vi phạm hợp  đồng bao gồm:  

(i) Chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng: được quy định trong cả CISG  (Điều 46-48, 62, 63) và Luật Thương mại (Điều 297) và được nêu lên đầu tiên trong  số các chế tài có thể áp dụng, cho thấy các hệ thống pháp luật luôn hướng đến việc  duy trì quan hệ hợp đồng giữa các bên trong mọi chừng mực có thể.  

(ii) Chế tài phạt vi phạm: được quy định tại Điều 418 Bộ luật dân sự 2015 và  Điều 300, Điều 301 Luật thương mại 2005. Mức phạt vi phạm theo Luật dân sự là  không giới hạn nhưng theo Luật thương mại thì không được quá 8% phần nghĩa vụ bị  vi phạm. Một điểm đáng lưu ý là việc phạt vi phạm phải được quy định trong hợp đồng,  trường hợp các bên không có thoả thuận phạt vi phạm thì bên bị vi phạm chỉ có quyền  đòi bồi thường thiệt hại. CISG không có quy định về phạt vi phạm nhưng công nhận  các thoả thuận về phạt vi phạm dựa trên nguyên tắc tự do thoả thuận giữa các bên.  

(iii)Chế tài bồi thường thiệt hại: Khi một bên vi phạm hợp đồng gây tổn thất  cho bên bị vi phạm thì bên bị vi phạm có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại. Bồi  thường thiệt hại được quy định trong cả CISG (Điều 74-77) và pháp luật Việt Nam  (Luật Dân sự (Điều 584, 585) và Luật Thương mại (Điều 302, 303, 304)). Để yêu  cầu bồi thường thiệt hại thì bên bị vi phạm phải có nghĩa vụ chứng minh thiệt hại  xuất phát từ hành vi vi phạm hợp đồng của bên vi phạm. Giá trị bồi thường thiệt hại  theo pháp luật Việt Nam bao gồm “giá trị tổn thất thực tế, trực tiếp mà bên bị vi phạm phải chịu do bên vi phạm gây ra và khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm  đáng lẽ được hưởng nếu không có hành vi vi phạm” (Khoản 2 Điều 302 Luật  Thương mại 2005). Tuy nhiên, CISG không quy định rõ về tính chất trực tiếp của  thiệt hại được bồi thường mà nhấn mạnh đến tính dự đoán trước được của thiệt hại  “các thiệt hại được bồi thường không thể cao hơn những tổn thất và khoản lợi bỏ lỡ mà bên bị vi phạm có khả năng đã dự liệu được vào lúc giao kết hợp đồng như một  hậu quả có thể xảy ra do vi phạm hợp đồng, có tính đến các tình tiết mà họ đã biết  hoặc đáng lẽ phải biết” (Điều 74 CISG). Điều này sẽ giúp tránh được việc các thiệt  hại yêu cầu bồi thường bị “thổi phồng” một cách vô lý.  

Ngoài ra, để tránh thiệt hại phát sinh không đáng có và tránh phụ thuộc vào ý  chí chủ quan của bên bị vi phạm, cả CISG và pháp luật Việt Nam đều quy định bên  bị vi phạm phải “áp dụng các biện pháp hợp lý để hạn chế tổn thất, kể cả tổn thất  đối với khoản lợi trực tiếp đáng lẽ được hưởng do hành vi vi phạm hợp đồng gây  ra” (Điều 305 Luật Thương mại 2005 và Điều 77 CISG); nếu không thì bên vi phạm  hợp đồng có quyền yêu cầu giảm bớt giá trị bồi thường thiệt hại bằng mức tổn thất  đáng lẽ có thể hạn chế được. 

Một điểm cần lưu ý nữa đối với bồi thường thiệt hại theo Luật Thương mại 2005 là trách nhiệm bồi thường thiệt hại chỉ phát sinh khi đáp ứng đầy đủ các điều  kiện sau: i) Có hành vi vi phạm hợp đồng; ii) Có thiệt hại thực tế; iii) Hành vi vi  phạm hợp đồng là nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại (Điều 303 Luật Thương  mại 2005). 

(iv) Chế tài tạm ngừng thực hiện hợp đồng: “là việc một bên tạm thời không  thực hiện nghĩa vụ trong hợp đồng khi xảy ra hành vi vi phạm mà các bên đã thoả  thuận là điều kiện để tạm ngừng thực hiện hợp đồng hoặc khi một bên vi phạm cơ bản  nghĩa vụ hợp đồng” (Điều 308 Luật Thương mại 2005). Đây là chế tài không được quy  định trong CISG. Tạm ngừng thực hiện hợp đồng không làm mất đi hiệu lực của hợp  đồng và bên bị vi phạm có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại theo quy định. 

(v) Chế tài đình chỉ thực hiện hợp đồng cũng là chế tài mà CISG không quy  định. Đình chỉ thực hiện hợp đồng theo Điều 310 Luật Thương mại 2005 “là việc  một bên chấm dứt thực hiện nghĩa vụ hợp đồng khi xảy ra hành vi vi phạm mà các  bên đã thoả thuận là điều kiện để đình chỉ hợp đồng hoặc khi một bên vi phạm cơ  bản nghĩa vụ hợp đồng”. Hậu quả pháp lý của việc đình chỉ thực hiện hợp đồng  được quy định tại Điều 311 Luật Thương mại 2005, theo đó “khi đình chỉ thực hiện hợp đồng thì hợp đồng sẽ chấm dứt từ thời điểm nhận được thông báo đình chỉ và  các bên không phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ hợp đồng, bên đã thực hiện nghĩa vụ  có quyền yêu cầu bên kia thanh toán hoặc thực hiện nghĩa vụ đối ứng”. Ngoài ra,  “bên bị vi phạm có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại theo quy định”. 

(vi) Chế tài huỷ bỏ hợp đồng là chế tài nghiêm trọng nhất đối với hành vi vi  phạm nghĩa vụ hợp đồng. Theo Luật Thương mại 2005 (Điều 312), huỷ bỏ hợp đồng  được áp dụng trong trường hợp “một bên vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng” hoặc  khi “xảy ra hành vi vi phạm mà các bên đã thoả thuận là điều kiện để huỷ bỏ hợp  đồng”. Đối với CISG, điều kiện để huỷ bỏ hợp đồng là khi một bên vi phạm cơ bản  nghĩa vụ hợp đồng hoặc một bên không thực hiện nghĩa vụ của mình trong thời hạn  bổ sung mà bên kia cho phép (Điều 49, 64 CISG). Ngoài ra, theo Điều 72.1 CISG  thì hợp đồng cũng có thể bị huỷ trong trường hợp trước ngày quy định thực hiện hợp  đồng mà “hiển nhiên thấy rằng một bên sẽ gây ra một vi phạm chủ yếu đến hợp  đồng”. Đây là điểm khác biệt cơ bản giữa CISG và pháp luật Việt Nam, cho phép  một bên được tuyên bố huỷ hợp đồng ngay cả khi bên kia chưa đến hạn thực hiện  hợp đồng nhưng đã có dấu hiệu rõ ràng cho thấy họ sẽ vi phạm cơ bản hợp đồng. 

Hậu quả pháp lý của việc huỷ bỏ hợp đồng là hợp đồng sẽ bị chấm dứt hiệu  lực, hai bên được giải phóng khỏi những nghĩa vụ của nhau, trừ nghĩa vụ bồi thường  thiệt hại có thể có (Điều 81 CISG và Điều 314 Luật Thương mại 2005). Sau khi huỷ  bỏ hợp đồng, các bên sẽ hoàn trả cho nhau những gì đã nhận và nghĩa vụ hoàn trả  phải được thực hiện đồng thời.  

1.2.14. Căn cứ miễn trách khi vi phạm hợp đồng 

Trong quá trình thực hiện hợp đồng, có một số trường hợp các bên sẽ được  miễn trách nhiệm khi vi phạm hợp đồng. Theo Điều 294 Luật Thương mại 2005, các  trường hợp này bao gồm: “i) Xảy ra trường hợp miễn trách nhiệm mà các bên đã  thoả thuận; ii) Xảy ra sự kiện bất khả kháng; iii) Hành vi vi phạm của một bên hoàn  toàn do lỗi của bên kia; iv) Hành vi vi phạm của một bên do thực hiện quyết định  của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền mà các bên không thể biết được vào  thời điểm giao kết hợp đồng”.

CISG quy định về miễn trách tại Điều 79 và 80. Theo đó, CISG không liệt kê  các trường hợp được miễn trách mà quy định bằng cách mô tả, cụ thể: “một bên  không chịu trách nhiệm về việc không thực hiện bất kỳ một nghĩa vụ nào đó của họ  nếu chứng minh được rằng việc không thực hiện ấy là do một trở ngại nằm ngoài sự  kiểm soát của họ và người ta không thể chờ đợi một cách hợp lý rằng họ phải tính  tới trở ngại đó vào lúc ký kết hợp đồng hoặc là tránh được hay khắc phục các hậu  quả của nó” (Điều 79.1 CISG). Có thể thấy khái niệm “trở ngại” trong CISG có  cách hiểu tương tự với khái niệm “bất khả kháng” trong pháp luật Việt Nam (Khoản  1 Điều 156 BLDS 2015). Ngoài ra, Điều 80 CISG cũng quy định một bên sẽ được  miễn trách khi chứng minh được rằng việc không thực hiện nghĩa vụ là do hành vi  hoặc thiếu sót của bên còn lại. 

Một điểm khác biệt về quy định miễn trách trong CISG so với pháp luật Việt  Nam đó là CISG quy định cả trường hợp miễn trách do lỗi của bên thứ ba tham gia  thực hiện một phần hay toàn bộ hợp đồng. Cụ thể, theo Điều 79.2 CISG, bên vi  phạm sẽ được miễn trách nếu: (i) bên vi phạm thuộc trường hợp được miễn trách  theo Điều 79.1 ở trên (việc không thực hiện hợp đồng của bên thứ ba gây ra một  trường hợp bất khả kháng đối với bên vi phạm); và (ii) bên thứ ba cũng được miễn  trách theo quy định tại Điều 79.1 (bên thứ ba không thực hiện hợp đồng là do gặp  bất khả kháng). Cả hai điều kiện nói trên phải đồng thời được đáp ứng. Tuy nhiên,  trên thực tế để đáp ứng được hai điều kiện này không phải là một vấn đề đơn giản,  chẳng hạn trường hợp bên thứ ba là nhà cung cấp của bên bán vi phạm hợp đồng do  giao hàng trễ thì về nguyên tắc hợp đồng bên bán phải chịu trách nhiệm với bên mua  do đã lựa chọn nhà cung cấp không đạt yêu cầu, trong trường hợp này bên bán hoàn  toàn có thể lựa chọn nhà cung cấp khác thay thế để đảm bảo tiến độ giao hàng, do  đó bên bán không được coi là thuộc trường hợp được miễn trách theo điều 79.1 ở  trên. Bên bán chỉ thoả mãn điều kiện này nếu như nhà cung cấp đó là nhà cung cấp  độc quyền trên thị trường và không có nhà cung cấp nào khác để thay thế, tức là bên  bán rơi vào tình huống bất khả kháng, khi đó, nếu chính nhà cung cấp độc quyền đó  cũng gặp tình huống bất khả kháng dẫn đến giao trễ hàng thì cả hai điều kiện trên  mới được đáp ứng và bên bán mới được miễn trách nhiệm. Do đó, đối với hợp đồng nhập khẩu hàng hóa, bên mua cần đặc biệt lưu ý vấn đề này để tránh bên bán lợi  dụng quy định này trì hoãn nghĩa vụ giao hàng.

Theo tác giả: Ngô Thi Thu Hồng

Link tài liệu đính kèm: https://docs.google.com/document/d/17s66deukCAUO73T4YTz_wh17NFYrXl7m/edit?rtpof=true

 

 

 

 

avatar
Đặng Quỳnh
587 ngày trước
GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TRONG HỢP ĐỒNG NHẬP KHẨU HÀNG HOÁ
1.2.11. Giải quyết tranh chấp Thực tế khi soạn thảo hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế nói chung và hợp  đồng nhập khẩu hàng hoá nói riêng, các bên thường chú trọng đến các điều khoản  quan trọng liên quan trực tiếp đến quyền và nghĩa vụ của các bên như điều kiện giao  hàng, chất lượng hàng hóa, giá cả, thanh toán,… mà không quan tâm nhiều đến điều  khoản về giải quyết tranh chấp, một phần là do suy nghĩ chủ quan rằng tranh chấp sẽ  ít khi xảy ra. Tuy nhiên, chính tâm lý này sẽ gây ra những rủi ro nghiêm trọng cho  các bên vì hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế là hoạt động tương đối phức tạp nên  việc xảy ra tranh chấp là không thể tránh khỏi. Khi phát sinh tranh chấp trong quá trình thực hiện hợp đồng, các bên có thể lựa  chọn giải quyết tranh chấp thông qua thương lượng, hoà giải, trọng tài hoặc toà án.  Một phương thức phổ biến hiện nay mà các bên tham gia vào hợp đồng mua bán  hàng hóa quốc tế thường lựa chọn đó là sự kết hợp một số phương thức giải quyết  theo trình tự sau: đầu tiên là các bên sẽ tự thương lượng trên tinh thần thiện chí, nếu  thương lượng không thành thì các bên sẽ giải quyết tranh chấp bằng con đường hoà  giải, nếu tranh chấp vẫn không thể giải quyết bằng con đường hoà giải thì các bên sẽ  đưa tranh chấp ra cơ quan trọng tài hoặc toà án để xét xử. Một điểm cần đặc biệt lưu ý khi soạn thảo điều khoản giải quyết tranh chấp là  phải ghi đúng tên cơ quan giải quyết tranh chấp và địa điểm giải quyết tranh chấp,  chọn đúng quy tắc tố tụng hoặc luật tố tụng áp dụng để tránh rủi ro không xác định  được cơ quan giải quyết tranh chấp, đồng thời, phải quy định rõ ngôn ngữ sử dụng  trong giải quyết tranh chấp. Thực tế cho thấy rằng các doanh nghiệp nên lựa chọn cơ  quan giải quyết tranh chấp tại quốc gia mà doanh nghiệp đó đăng ký kinh doanh để  có nhiều ưu thế hơn trong quá trình giải quyết tranh chấp. 1.2.12. Vi phạm hợp đồng Vi phạm hợp đồng, theo định nghĩa tại Khoản 12 Điều 3 Luật Thương mại 2005 “là việc một bên không thực hiện, thực hiện không đầy đủ hoặc thực hiện  không đúng nghĩa vụ theo thoả thuận giữa các bên hoặc theo quy định của Luật này”.  Khi có hành vi vi phạm hợp đồng, cần xác định xem đó là vi phạm cơ bản hay  vi phạm không cơ bản vì đây là cơ sở để xác định trách nhiệm của bên vi phạm.  Theo Khoản 12 Điều 3 Luật Thương mại 2005 thì “vi phạm cơ bản là sự vi phạm  hợp đồng của một bên gây thiệt hại cho bên kia đến mức làm cho bên kia không đạt  được mục đích của việc giao kết hợp đồng”. Trường hợp sự vi phạm hợp đồng là vi  phạm cơ bản thì bên bị vi phạm có quyền tạm ngừng, đình chỉ thực hiện hợp đồng  hoặc huỷ bỏ hợp đồng theo các Điều 308, 310 và 312 Luật Thương mại 2005.Vi phạm cơ bản hợp đồng theo định nghĩa tại Điều 25 CISG là “sự vi phạm  làm cho bên kia bị thiệt hại mà người bị thiệt hại, trong một chừng mực đáng kể bị  mất cái mà họ có quyền chờ đợi trên cơ sở hợp đồng, trừ khi bên vi phạm không tiên  liệu được hậu quả đó và một người có lý trí minh mẫn cũng sẽ không tiên liệu được  nếu họ cũng ở vào hoàn cảnh tương tự”. Nếu một bên vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp  đồng thì bên bị vi phạm có quyền huỷ bỏ hợp đồng. 1.2.13. Các chế tài áp dụng khi vi phạm hợp đồng Điều 292 Luật Thương mại 2005 quy định các chế tài đối với bên vi phạm hợp  đồng bao gồm:  (i) Chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng: được quy định trong cả CISG  (Điều 46-48, 62, 63) và Luật Thương mại (Điều 297) và được nêu lên đầu tiên trong  số các chế tài có thể áp dụng, cho thấy các hệ thống pháp luật luôn hướng đến việc  duy trì quan hệ hợp đồng giữa các bên trong mọi chừng mực có thể.  (ii) Chế tài phạt vi phạm: được quy định tại Điều 418 Bộ luật dân sự 2015 và  Điều 300, Điều 301 Luật thương mại 2005. Mức phạt vi phạm theo Luật dân sự là  không giới hạn nhưng theo Luật thương mại thì không được quá 8% phần nghĩa vụ bị  vi phạm. Một điểm đáng lưu ý là việc phạt vi phạm phải được quy định trong hợp đồng,  trường hợp các bên không có thoả thuận phạt vi phạm thì bên bị vi phạm chỉ có quyền  đòi bồi thường thiệt hại. CISG không có quy định về phạt vi phạm nhưng công nhận  các thoả thuận về phạt vi phạm dựa trên nguyên tắc tự do thoả thuận giữa các bên.  (iii)Chế tài bồi thường thiệt hại: Khi một bên vi phạm hợp đồng gây tổn thất  cho bên bị vi phạm thì bên bị vi phạm có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại. Bồi  thường thiệt hại được quy định trong cả CISG (Điều 74-77) và pháp luật Việt Nam  (Luật Dân sự (Điều 584, 585) và Luật Thương mại (Điều 302, 303, 304)). Để yêu  cầu bồi thường thiệt hại thì bên bị vi phạm phải có nghĩa vụ chứng minh thiệt hại  xuất phát từ hành vi vi phạm hợp đồng của bên vi phạm. Giá trị bồi thường thiệt hại  theo pháp luật Việt Nam bao gồm “giá trị tổn thất thực tế, trực tiếp mà bên bị vi phạm phải chịu do bên vi phạm gây ra và khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm  đáng lẽ được hưởng nếu không có hành vi vi phạm” (Khoản 2 Điều 302 Luật  Thương mại 2005). Tuy nhiên, CISG không quy định rõ về tính chất trực tiếp của  thiệt hại được bồi thường mà nhấn mạnh đến tính dự đoán trước được của thiệt hại  “các thiệt hại được bồi thường không thể cao hơn những tổn thất và khoản lợi bỏ lỡ mà bên bị vi phạm có khả năng đã dự liệu được vào lúc giao kết hợp đồng như một  hậu quả có thể xảy ra do vi phạm hợp đồng, có tính đến các tình tiết mà họ đã biết  hoặc đáng lẽ phải biết” (Điều 74 CISG). Điều này sẽ giúp tránh được việc các thiệt  hại yêu cầu bồi thường bị “thổi phồng” một cách vô lý.  Ngoài ra, để tránh thiệt hại phát sinh không đáng có và tránh phụ thuộc vào ý  chí chủ quan của bên bị vi phạm, cả CISG và pháp luật Việt Nam đều quy định bên  bị vi phạm phải “áp dụng các biện pháp hợp lý để hạn chế tổn thất, kể cả tổn thất  đối với khoản lợi trực tiếp đáng lẽ được hưởng do hành vi vi phạm hợp đồng gây  ra” (Điều 305 Luật Thương mại 2005 và Điều 77 CISG); nếu không thì bên vi phạm  hợp đồng có quyền yêu cầu giảm bớt giá trị bồi thường thiệt hại bằng mức tổn thất  đáng lẽ có thể hạn chế được. Một điểm cần lưu ý nữa đối với bồi thường thiệt hại theo Luật Thương mại 2005 là trách nhiệm bồi thường thiệt hại chỉ phát sinh khi đáp ứng đầy đủ các điều  kiện sau: i) Có hành vi vi phạm hợp đồng; ii) Có thiệt hại thực tế; iii) Hành vi vi  phạm hợp đồng là nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại (Điều 303 Luật Thương  mại 2005). (iv) Chế tài tạm ngừng thực hiện hợp đồng: “là việc một bên tạm thời không  thực hiện nghĩa vụ trong hợp đồng khi xảy ra hành vi vi phạm mà các bên đã thoả  thuận là điều kiện để tạm ngừng thực hiện hợp đồng hoặc khi một bên vi phạm cơ bản  nghĩa vụ hợp đồng” (Điều 308 Luật Thương mại 2005). Đây là chế tài không được quy  định trong CISG. Tạm ngừng thực hiện hợp đồng không làm mất đi hiệu lực của hợp  đồng và bên bị vi phạm có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại theo quy định. (v) Chế tài đình chỉ thực hiện hợp đồng cũng là chế tài mà CISG không quy  định. Đình chỉ thực hiện hợp đồng theo Điều 310 Luật Thương mại 2005 “là việc  một bên chấm dứt thực hiện nghĩa vụ hợp đồng khi xảy ra hành vi vi phạm mà các  bên đã thoả thuận là điều kiện để đình chỉ hợp đồng hoặc khi một bên vi phạm cơ  bản nghĩa vụ hợp đồng”. Hậu quả pháp lý của việc đình chỉ thực hiện hợp đồng  được quy định tại Điều 311 Luật Thương mại 2005, theo đó “khi đình chỉ thực hiện hợp đồng thì hợp đồng sẽ chấm dứt từ thời điểm nhận được thông báo đình chỉ và  các bên không phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ hợp đồng, bên đã thực hiện nghĩa vụ  có quyền yêu cầu bên kia thanh toán hoặc thực hiện nghĩa vụ đối ứng”. Ngoài ra,  “bên bị vi phạm có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại theo quy định”. (vi) Chế tài huỷ bỏ hợp đồng là chế tài nghiêm trọng nhất đối với hành vi vi  phạm nghĩa vụ hợp đồng. Theo Luật Thương mại 2005 (Điều 312), huỷ bỏ hợp đồng  được áp dụng trong trường hợp “một bên vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng” hoặc  khi “xảy ra hành vi vi phạm mà các bên đã thoả thuận là điều kiện để huỷ bỏ hợp  đồng”. Đối với CISG, điều kiện để huỷ bỏ hợp đồng là khi một bên vi phạm cơ bản  nghĩa vụ hợp đồng hoặc một bên không thực hiện nghĩa vụ của mình trong thời hạn  bổ sung mà bên kia cho phép (Điều 49, 64 CISG). Ngoài ra, theo Điều 72.1 CISG  thì hợp đồng cũng có thể bị huỷ trong trường hợp trước ngày quy định thực hiện hợp  đồng mà “hiển nhiên thấy rằng một bên sẽ gây ra một vi phạm chủ yếu đến hợp  đồng”. Đây là điểm khác biệt cơ bản giữa CISG và pháp luật Việt Nam, cho phép  một bên được tuyên bố huỷ hợp đồng ngay cả khi bên kia chưa đến hạn thực hiện  hợp đồng nhưng đã có dấu hiệu rõ ràng cho thấy họ sẽ vi phạm cơ bản hợp đồng. Hậu quả pháp lý của việc huỷ bỏ hợp đồng là hợp đồng sẽ bị chấm dứt hiệu  lực, hai bên được giải phóng khỏi những nghĩa vụ của nhau, trừ nghĩa vụ bồi thường  thiệt hại có thể có (Điều 81 CISG và Điều 314 Luật Thương mại 2005). Sau khi huỷ  bỏ hợp đồng, các bên sẽ hoàn trả cho nhau những gì đã nhận và nghĩa vụ hoàn trả  phải được thực hiện đồng thời.  1.2.14. Căn cứ miễn trách khi vi phạm hợp đồng Trong quá trình thực hiện hợp đồng, có một số trường hợp các bên sẽ được  miễn trách nhiệm khi vi phạm hợp đồng. Theo Điều 294 Luật Thương mại 2005, các  trường hợp này bao gồm: “i) Xảy ra trường hợp miễn trách nhiệm mà các bên đã  thoả thuận; ii) Xảy ra sự kiện bất khả kháng; iii) Hành vi vi phạm của một bên hoàn  toàn do lỗi của bên kia; iv) Hành vi vi phạm của một bên do thực hiện quyết định  của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền mà các bên không thể biết được vào  thời điểm giao kết hợp đồng”.CISG quy định về miễn trách tại Điều 79 và 80. Theo đó, CISG không liệt kê  các trường hợp được miễn trách mà quy định bằng cách mô tả, cụ thể: “một bên  không chịu trách nhiệm về việc không thực hiện bất kỳ một nghĩa vụ nào đó của họ  nếu chứng minh được rằng việc không thực hiện ấy là do một trở ngại nằm ngoài sự  kiểm soát của họ và người ta không thể chờ đợi một cách hợp lý rằng họ phải tính  tới trở ngại đó vào lúc ký kết hợp đồng hoặc là tránh được hay khắc phục các hậu  quả của nó” (Điều 79.1 CISG). Có thể thấy khái niệm “trở ngại” trong CISG có  cách hiểu tương tự với khái niệm “bất khả kháng” trong pháp luật Việt Nam (Khoản  1 Điều 156 BLDS 2015). Ngoài ra, Điều 80 CISG cũng quy định một bên sẽ được  miễn trách khi chứng minh được rằng việc không thực hiện nghĩa vụ là do hành vi  hoặc thiếu sót của bên còn lại. Một điểm khác biệt về quy định miễn trách trong CISG so với pháp luật Việt  Nam đó là CISG quy định cả trường hợp miễn trách do lỗi của bên thứ ba tham gia  thực hiện một phần hay toàn bộ hợp đồng. Cụ thể, theo Điều 79.2 CISG, bên vi  phạm sẽ được miễn trách nếu: (i) bên vi phạm thuộc trường hợp được miễn trách  theo Điều 79.1 ở trên (việc không thực hiện hợp đồng của bên thứ ba gây ra một  trường hợp bất khả kháng đối với bên vi phạm); và (ii) bên thứ ba cũng được miễn  trách theo quy định tại Điều 79.1 (bên thứ ba không thực hiện hợp đồng là do gặp  bất khả kháng). Cả hai điều kiện nói trên phải đồng thời được đáp ứng. Tuy nhiên,  trên thực tế để đáp ứng được hai điều kiện này không phải là một vấn đề đơn giản,  chẳng hạn trường hợp bên thứ ba là nhà cung cấp của bên bán vi phạm hợp đồng do  giao hàng trễ thì về nguyên tắc hợp đồng bên bán phải chịu trách nhiệm với bên mua  do đã lựa chọn nhà cung cấp không đạt yêu cầu, trong trường hợp này bên bán hoàn  toàn có thể lựa chọn nhà cung cấp khác thay thế để đảm bảo tiến độ giao hàng, do  đó bên bán không được coi là thuộc trường hợp được miễn trách theo điều 79.1 ở  trên. Bên bán chỉ thoả mãn điều kiện này nếu như nhà cung cấp đó là nhà cung cấp  độc quyền trên thị trường và không có nhà cung cấp nào khác để thay thế, tức là bên  bán rơi vào tình huống bất khả kháng, khi đó, nếu chính nhà cung cấp độc quyền đó  cũng gặp tình huống bất khả kháng dẫn đến giao trễ hàng thì cả hai điều kiện trên  mới được đáp ứng và bên bán mới được miễn trách nhiệm. Do đó, đối với hợp đồng nhập khẩu hàng hóa, bên mua cần đặc biệt lưu ý vấn đề này để tránh bên bán lợi  dụng quy định này trì hoãn nghĩa vụ giao hàng.Theo tác giả: Ngô Thi Thu HồngLink tài liệu đính kèm: https://docs.google.com/document/d/17s66deukCAUO73T4YTz_wh17NFYrXl7m/edit?rtpof=true