0888889366
Tra cứu thông tin hợp đồng
timeline_post_file64892124713f0-PHÁP-LUẬT-VỀ-GIAO-KẾT-VÀ-THỰC-HIỆN-HỢP-ĐỒNG-BẢO-HIỂM-NHÂN-THỌ.jpg.webp

PHÁP LUẬT VỀ GIAO KẾT VÀ THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM NHÂN THỌ

 

I.   CÁC QUY ĐỊNH ĐẶC THÙ VỀ HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM NHÂN THỌ

1.   Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ

1.1. Các quy định của pháp luật

Bộ luật Dân sự năm 2005 có Chương XVIII về các hợp đồng dân sự thông dụng, Mục 11 về hợp đồng bảo hiểm bao gồm 19 điều. Tuy nhiên, Bộ luật Dân sự năm 2015 đã thay thế Bộ luật Dân sự năm 2005 kể từ 01/01/2017 và không còn chương quy định riêng về hợp đồng bảo hiểm.

Luật Kinh doanh Bảo hiểm có Chương 2 quy định về hợp đồng bảo hiểm, bao gồm 19 điều quy định chung (từ Điều 12 đến Điều 30) và 9 điều quy định riêng cho hợp đồng bảo hiểm con người, trong đó có bảo hiểm nhân thọ (từ Điều 31 đến Điều 39). Nghị Định 73/2016/NĐ-CP hướng dẫn thực hiện một số điều của Luật Kinh doanh Bảo hiểm.

Quyết định 35/2015/QĐ-TTg ban hành danh mục bổ sung hàng hóa, dịch vụ thiết yếu phải đăng ký hợp đồng mẫu.

1.2. Hợp đồng bảo hiểm - hợp đồng theo mẫu

Theo quy định của Luật Kinh doanh Bảo hiểm và các văn bản hướng dẫn: Hợp đồng bảo hiểm phải được lập thành văn bản. Bằng chứng giao kết hợp đồng bảo hiểm là giấy chứng nhận bảo hiểm, đơn bảo hiểm, điện báo, telex, fax và các hình thức khác do pháp luật quy định (Điều 14 Luật Kinh doanh Bảo hiểm). Các sản phẩm bảo hiểm nhân thọ và các sản phẩm bảo hiểm tai nạn, sức khỏe phải được Bộ Tài chính phê chuẩn quy tắc điều khoản sản phẩm và biểu phí trước khi triển khai (Điều 39 Nghị định 73/2016/NĐ-CP).

Một hợp đồng bảo hiểm nhân thọ có thể có các sản phẩm bảo hiểm bảo hiểm chính và các sản phẩm bảo hiểm bổ trợ tai nạn, sức khỏe đính kèm.

Theo Quyết định 35/2015/QĐ-TTg, hợp đồng bảo hiểm nhân thọ cần được đăng ký mẫu với Bộ Công thương trước khi triển khai.

Trên cơ sở các quy định về hợp đồng bảo hiểm và thực tiễn triển khai các sản phẩm bảo hiểm của các doanh nghiệp bảo hiểm trên thị trường, Bộ Tài chính và Bộ Công thương đã cùng nhau ký kết ban hành Quy chế số 4330/QCPH/BTC-BCT ngày 31/3/2017 về việc phối hợp giữa Bộ Tài chính và Bộ Công thương trong việc phê chuẩn sản phẩm, đăng ký hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch chung đối với bảo hiểm nhân thọ (“Quy chế 4330”). Quy chế 4330 ngoài việc ban hành quy trình phối hợp giữa hai Bộ trong việc phê chuẩn quy tắc, điều khoản sản phẩm bảo hiểm nhân thọ còn ban hành kèm theo bộ quy tắc điều khoản mẫu của sản phẩm bảo hiểm nhân thọ truyền thống để các doanh nghiệp bảo hiểm có thể sử dụng trong việc phát triển quy tắc, điều khoản sản phẩm của mình.

Căn cứ vào các quy định hiện hành, một bộ hợp đồng bảo hiểm nhân thọ sẽ bao gồm:

(i) Hồ sơ yêu cầu bảo hiểm;

(ii) Chứng nhận bảo hiểm;

(iii) Quy tắc và điều khoản sản phẩm bảo hiểm chính và (các) sản phẩm bảo hiểm bổ trợ đi kèm đã được Bộ Tài chính phê chuẩn;

(iv) Các thỏa thuận khác, nếu có, được giao kết hợp lệ giữa doanh nghiệp bảo hiểm và bên mua bảo hiểm trong quá trình giao kết và thực hiện Hợp đồng bảo hiểm.

1.3. Thời gian cân nhắc

Thời gian cân nhắc là khoảng thời gian xác định, thường là 21 ngày kể từ ngày khách hàng nhận được hợp đồng bảo hiểm có hiệu lực, mà trong thời gian đó bên mua bảo hiểm được toàn quyền đọc, kiểm tra lại bộ hợp đồng bảo hiểm, yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm chỉnh sửa thông tin chưa chính xác, cập nhật thêm thông tin và quyết định có tiếp tục thực hiện bảo hiểm không sau khi hợp đồng bảo hiểm đã có hiệu lực. Nếu bên mua bảo hiểm quyết định không tiếp tục thực hiện hợp đồng bảo hiểm, bên mua bảo hiểm được quyền hủy hợp đồng bảo hiểm và nhận lại khoản phí bảo hiểm đầu tiên đã đóng; doanh nghiệp bảo hiểm sẽ khấu trừ lại phần chi phí khám sức khỏe cho khách hàng khi thẩm định hồ sơ yêu cầu bảo hiểm (nếu có).

Thời gian cân nhắc là một thông lệ của ngành bảo hiểm nhân thọ vì tính chất hợp đồng bảo hiểm nhân thọ là hợp đồng theo mẫu, thời gian cân nhắc giúp bên mua bảo hiểm có thời gian đọc và kiểm tra lại toàn bộ nội dung của hợp đồng bảo hiểm. Thời gian cân nhắc hiện nay cũng được ghi nhận trong quy tắc điều khoản mẫu của sản phẩm bảo hiểm nhân thọ được ban hành kèm theo Quy chế 4330.

1.4. Giao kết hợp đồng bảo hiểm

Các bước cơ bản của một giao dịch giao kết hợp đồng bảo hiểm

Tư vấn tài chính tư vấn về HDBH (nếu có) -> Bên mua bảo hiểm kê khai theo hồ sơ yêu cầu bảo hiểm và đóng phí -> Công ty bảo hiểm thẩm định hồ sơ yêu cầu bảo hiểm -> Công ty bảo hiểm chấp nhận bảo hiểm – phát hành hợp đồng bảo hiểm.

2. Quyền lợi có thể được bảo hiểm giữa bên mua bảo hiểm và người được bảo hiểm

Để tham gia bảo hiểm, bên mua bảo hiểm phải có quyền lợi có thể được bảo hiểm với người được bảo hiểm. Doanh nghiệp bảo hiểm cần đánh giá việc tồn tại quyền lợi có thể được bảo hiểm giữa bên mua bảo hiểm và người được bảo hiểm để ngăn ngừa rủi ro trục lợi bảo hiểm.

Theo Điều 3, điểm 9 của Luật Kinh doanh Bảo hiểm, “quyền lợi có thể được bảo hiểm là quyền sở hữu, quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền tài sản; quyền, nghĩa vụ nuôi dưỡng, cấp dưỡng đối với đối tượng được bảo hiểm.”

Nói cách khác bên mua bảo hiểm sẽ có “quyền lợi có thể được bảo hiểm” đối với người được bảo hiểm nếu tử vong hay tổn thất xảy ra đối với người đó sẽ gây ra tổn thất về vật chất hay tinh thần đối với bên mua bảo hiểm. Trên cơ sở khái niệm quyền lợi có thể được bảo hiểm, Điều 31 Luật Kinh doanh Bảo hiểm xác định bên mua bảo hiểm chỉ có thể mua bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm tai nạn, sức khỏe cho những người sau đây:

•   Bản thân bên mua bảo hiểm;

•   Vợ, chồng, con, cha, mẹ của bên mua bảo hiểm;

•  Anh, chị, em ruột; người có quan hệ nuôi dưỡng và cấp dưỡng;

•   Người khác, nếu bên mua bảo hiểm có quyền lợi có thể được bảo hiểm.

Trên thực tế, ngoài các trường hợp trên, các doanh nghiệp bảo hiểm còn xác định bên mua bảo hiểm có quyền lợi có thể được bảo hiểm với người được bảo hiểm trong một số trường hợp khác như: quan hệ lao động, quan hệ tín dụng.

Một hợp đồng bảo hiểm sẽ bị vô hiệu nếu quyền lợi có thể được bảo hiểm không tồn tại tại thời điểm bên mua bảo hiểm tham gia bảo hiểm (Điều 22 của Luật Kinh doanh Bảo hiểm) hoặc bị chấm dứt nếu trong thời gian hợp đồng bảo hiểm có hiệu lực, bên mua bảo hiểm không còn quyền lợi có thể được bảo hiểm với người được bảo hiểm (Điều 23 của Luật Kinh doanh Bảo hiểm).

3.   Nghĩa vụ của bên mua bảo hiểm

Theo Điều 18.2 của Luật Kinh doanh Bảo hiểm, Bên mua bảo hiểm có nghĩa vụ:

“a) Đóng phí bảo hiểm đầy đủ, theo thời hạn và phương thức đã thỏa thuận trong hợp đồng bảo hiểm;

a) Kê khai đầy đủ, trung thực mọi chi tiết có liên quan đến hợp đồng bảo hiểm theo yêu cầu của doanh nghiệp bảo hiểm;

b)  Thông báo những trường hợp có thể làm tăng rủi ro hoặc làm phát sinh thêm trách nhiệm của doanh nghiệp bảo hiểm trong quá trình thực hiện hợp đồng bảo hiểm theo yêu cầu của doanh nghiệp bảo hiểm;

c) Thông báo cho doanh nghiệp bảo hiểm về việc xảy ra sự kiện bảo hiểm theo thoả thuận trong hợp đồng bảo hiểm;

đ) Áp dụng các biện pháp đề phòng, hạn chế tổn thất theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan;

d)   Các nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật.”

Trong các nghĩa vụ trên, nghĩa vụ đóng phí bảo hiểm và nghĩa vụ kê khai đầy đủ, trung thực mọi chi tiết có liên quan đến hợp đồng bảo hiểm theo yêu cầu của doanh nghiệp bảo hiểm là hai nghĩa vụ quan trọng nhất của bên mua bảo hiểm.

3.1. Nghĩa vụ kê khai trung thực và việc doanh nghiệp bảo hiểm thực hiện kiểm tra y tế với người được bảo hiểm không thay thế nghĩa vụ kê khai của bên mua bảo hiểm

Nguyên tắc “trung thực tuyệt đối” là nguyên tắc quan trọng nhất cho việc chấp nhận rủi ro và giao kết hợp đồng bảo hiểm giữa doanh nghiệp bảo hiểm và khách hàng. Khách hàng tham gia bảo hiểm nhân thọ là hoàn toàn tự nguyện, Luật Kinh doanh bảo hiểm cấm mọi hành vi ép buộc khách hàng tham gia hay giao kết hợp đồng bảo hiểm. Khách hàng sẽ là người tự quyết định có tham gia (mua) bảo hiểm bằng việc hoàn tất hồ sơ yêu cầu bảo hiểm để nộp về công ty bảo hiểm. Công ty bảo hiểm sẽ xem xét yêu cầu tham gia bảo hiểm của khách hàng trên cơ sở các thông tin được khách hàng kê khai trong hồ sơ yêu cầu bảo hiểm để ra quyết định chấp nhận hoặc từ chối bảo hiểm. Bảo hiểm về bản chất là sự chia sẻ rủi ro giữa những người tham gia bảo hiểm thông qua công ty bảo hiểm. Doanh nghiệp bảo hiểm sẽ đưa ra quyết định đồng ý chấp nhận hoặc từ chối yêu cầu tham gia bảo hiểm của khách hàng dựa vào thông tin mà khách hàng kê khai hoặc cung cấp trong hồ sơ yêu cầu bảo hiểm. Điểm b, khoản 2 điều 18 Luật Kinh doanh Bảo hiểm quy định rất rõ ràng: “Bên mua bảo hiểm có nghĩa vụ kê khai đầy đủ, trung thực mọi chi tiết có liên quan đến hợp đồng bảo hiểm theo yêu cầu của doanh nghiệp bảo hiểm”. Điều 19 Luật Kinh doanh Bảo hiểm cũng nhấn mạnh thêm: “Bên mua bảo hiểm có trách nhiệm cung cấp đầy đủ thông tin liên quan đến đối tượng bảo hiểm cho doanh nghiệp bảo hiểm. Các bên chịu trách nhiệm về tính chính xác, trung thực của thông tin đó”.

Khi quyết định tham gia hợp đồng bảo hiểm nhân thọ, bên mua bảo hiểm sẽ hoàn tất hồ sơ yêu cầu bảo hiểm bao gồm kê khai các thông tin về bên mua bảo hiểm, người được bảo hiểm, xác định số tiền bảo hiểm và loại sản phẩm bảo hiểm, khai báo đầy đủ chi tiết về tình trạng sức khỏe, tài chính của bản thân cũng như của người được bảo hiểm theo nội dung các câu hỏi trong hồ sơ yêu cầu bảo hiểm. Doanh nghiệp bảo hiểm cũng có thể yêu cầu Bên mua bảo hiểm kê khai các thông tin bổ sung trên cơ sở thông tin đã được kê khai trong Hồ sơ yêu cầu bảo hiểm. Các thông tin được kê khai bổ sung cũng được coi như thông tin kê khai trong Hồ sơ yêu cầu bảo hiểm. Bên mua bảo hiểm và người được bảo hiểm sẽ được công ty bảo hiểm yêu cầu xác nhận hoặc ký vào hồ sơ yêu cầu bảo hiểm để đảm bảo tính trung thực, đầy đủ và chính xác của thông tin được kê khai trong hồ sơ yêu cầu bảo hiểm. Doanh nghiệp bảo hiểm không có nghĩa vụ đánh giá tính chính xác hay đầy đủ các thông tin được bên mua bảo hiểm kê khai hay cung cấp trong hồ sơ yêu cầu bảo hiểm. Bên mua bảo hiểm cần kiểm tra lại thông tin đã được kê khai trong bộ hợp đồng bảo hiểm đã phát hành trong thời gian cân nhắc(như đã trình bày tại Mục 1.3 ở trên) để đảm bảo không có rủi ro hợp đồng bảo hiểm bị đơn phương chấm dứt/đơn phương đình chỉ từ phía doanh nghiệp bảo hiểm. Tuy nhiên, để đảm bảo việc quản trị rủi ro và chia sẻ rủi ro được công bằng, ngoài việc đánh giá rủi ro theo thông tin được kê khai hoặc cung cấp trong hồ sơ yêu cầu bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm có thể đánh giá theo xác suất bằng việc thực hiện kiểm tra sức khỏe đối với một tỉ lệ người được bảo hiểm nhất định. Đối với một số rủi ro lớn, ví dụ như số tiền bảo hiểm lớn hoặc các thông tin kê khai chưa đủ đánh giá rủi ro, doanh nghiệp bảo hiểm có thể thực hiện kiểm tra y tế đối với người được bảo hiểm để đánh giá mức độ rủi ro và qua đó xác định khoản phí bảo hiểm mà bên mua cần phải đóng. Việc khám sức khỏe chỉ là nghiệp vụ thẩm định của công ty bảo hiểm và được dùng để đánh giá, quyết định khả năng chấp nhận bảo hiểm chứ không thay thế thông tin mà bên mua bảo hiểm đã kê khai hay chứng minh tính trung thực của bên mua bảo hiểm khi kê khai hồ sơ yêu cầu bảo hiểm.

Khi có sự kiện bảo hiểm phát sinh, doanh nghiệp bảo hiểm sẽ “giám định/ xác minh”, nếu phát hiện khách hàng kê khai không trung thực thì Công ty bảo hiểm sẽ thực hiện quyền “đình chỉ thực hiện hợp đồng bảo hiểm” và từ chối chi trả quyền lợi bảo hiểm.

3.2. Đình chỉ thực hiện hợp đồng bảo hiểm

Điều 19.2 Luật kinh doanh bảo hiểm quy định: “Doanh nghiệp bảo hiểm có quyền đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng bảo hiểm và thu phí bảo hiểm đến thời điểm đình chỉ thực hiện hợp đồng bảo hiểm” khi Bên mua bảo hiểm có một trong những hành vi sau đây: a) Cố ý cung cấp thông tin sai sự thật nhằm giao kết hợp đồng bảo hiểm để được trả tiền bảo hiểm hoặc được bồi thường;

b) Không thực hiện các nghĩa vụ trong việc cung cấp thông tin cho doanh nghiệp bảo hiểm theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 18 của Luật. Tương tự, quy tắc điều khoản mẫu của hợp đồng bảo hiểm nhân thọ (Ban hành kèm theo Quy chế số 4330) cũng quy định rõ ràng về hậu quả pháp lý của việc vi phạm nghĩa vụ cung cấp thông tin của Bên mua bảo hiểm. Theo đó, doanh nghiệp bảo hiểm sẽ có quyền: “không chấp nhận bảo hiểm, doanh nghiệp không có trách nhiệm chi trả nếu xảy ra sự kiện bảo hiểm; “đơn phương đình chỉ hợp đồng này ngay sau khi phát hiện ra hành vi vi phạm của Bên mua bảo hiểm/Người được bảo hiểm”.

4.   Các trường hợp loại trừ trách nhiệm bảo hiểm

4.1. Điều khoản loại trừ trách nhiệm bảo hiểm

Điều khoản loại trừ (trách nhiệm bảo hiểm) là một điều khoản đặc biệt của hợp đồng bảo hiểm. Như ta đã biết, bản chất của bảo hiểm là chia sẻ rủi ro và bảo vệ bên mua bảo hiểm trước các rủi ro thuộc phạm vi bảo hiểm và không nhìn thấy trước của bên mua bảo hiểm, nên trong một số trường hợp như rủi ro chắc chắn sẽ xảy ra, hoặc sự kiện bảo hiểm xảy ra do lỗi cố ý của bên mua bảo hiểm, hoặc sự kiện bảo hiểm xảy ra mang tính hàng loạt (như do chiến tranh, bạo loạn),… thì sẽ bị loại trừ khỏi phạm vi bảo hiểm.

Ví dụ: nếu người được bảo hiểm bị nhiễm virus HIV hoặc chẩn đoán bị AIDS, có nghĩa người được bảo hiểm sẽ không có cơ hội chữa khỏi và chắc chắn tử vong trong một thời gian nhất định, doanh nghiệp bảo hiểm sẽ từ chối bảo hiểm cho trường hợp người được bảo hiểm nhiễm HIV/AIDS. Tuy nhiên, khi HIV/AIDS trở thành bệnh có thể kiểm soát hoặc chữa khỏi, các doanh nghiệp bảo hiểm có thể cân nhắc bỏ điều khoản loại trừ này.

Luật Kinh doanh Bảo hiểm quy định nguyên tắc áp dụng điều khoản loại trừ tại Điều

16:

“1. Điều khoản loại trừ trách nhiệm bảo hiểm quy định trường hợp doanh nghiệp

bảo hiểm không phải bồi thường hoặc không phải trả tiền bảo hiểm khi xẩy ra sự kiện bảo hiểm.

2. Điều khoản loại trừ trách nhiệm bảo hiểm phải được quy định rõ trong hợp đồng bảo hiểm. Doanh nghiệp bảo hiểm phải giải thích rõ cho bên mua bảo hiểm khi giao kết hợp đồng.

3. Không áp dụng điều khoản loại trừ trách nhiệm bảo hiểm trong các trường hợp sau đây: a) Bên mua bảo hiểm vi phạm pháp luật do vô ý;

b) Bên mua bảo hiểm có lý do chính đáng trong việc chậm thông báo cho doanh nghiệp bảo hiểm về việc xảy ra sự kiện bảo hiểm.”

Trên thực tế, tùy thuộc vào loại sản phẩm bảo hiểm, loại rủi ro được bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm xác định các trường hợp loại trừ bảo hiểm tương ứng và quy định cụ thể trong điều kiện, điều khoản bảo hiểm. Khi sự kiện bảo hiểm xảy ra, các bên sẽ phải căn cứ vào quy tắc điều khoản của sản phẩm bảo hiểm tương ứng với quyền lợi bảo hiểm đang được yêu cầu chi trả để xem xét áp dụng điều khoản loại trừ.

4.2. Thời gian chờ / Thời gian loại trừ

Khái niệm “Thời gian chờ” hay “Thời gian loại trừ” không được đề cập đến trong Luật Kinh doanh Bảo hiểm, nhưng đây là khái niệm đặc thù được áp dụng đối với một số sản phẩm bảo hiểm theo đó, thời gian chờ là một khoảng thời gian được ấn định mà nếu sự kiện bảo hiểm xảy ra hoặc không xảy ra trong thời gian chờ đó, doanh nghiệp bảo hiểm sẽ từ chối chi trả quyền lợi bảo hiểm, hay nói cách khác, đây là một dạng của loại trừ bảo hiểm. Việc đưa điều khoản thời gian chờ vào hợp đồng bảo hiểm nhằm ngăn ngừa khả năng lạm dụng, trục lợi bảo hiểm và giúp doanh nghiệp bảo hiểm giữ phí bảo hiểm ở mức hợp lý.

Trong thực tiễn, thời gian chờ thường được quy định trong khoảng từ 30 ngày đến 90 ngày kể từ ngày hợp đồng bảo hiểm có hiệu lực hoặc ngày khôi phục hiệu lực hợp đồng bảo hiểm.

Dưới đây là một số điều khoản về thời gian chờ:

- “Thời gian chờ là thời gian 90 ngày kể từ Ngày phát hành Hợp đồng hoặc Ngày khôi phục hiệu lực Hợp đồng gần nhất, tùy ngày nào xảy ra sau. Công ty sẽ không chi trả Quyền lợi Bệnh hiểm nghèo cho các sự kiện bảo hiểm xảy ra trong Thời gian chờ.”; hoặc

- “DNBH sẽ không chi trả quyền lợi bảo hiểm bệnh hiểm nghèo của người được bảo hiểm nếu người được bảo hiểm có các triệu chứng liên quan đến bệnh mắc phải hoặc được chẩn đoán mắc bệnh trong thời gian 90 ngày kể từ ngày HĐBH bắt đầu có hiệu lực hoặc ngày HĐBH được khôi phục hiệu lực gần nhất”; hoặc –

“DNBH sẽ không chi trả quyền lợi bảo hiểm bệnh hiểm nghèo của người được bảo hiểm nếu người được bảo hiểm tử vong trong thời gian 30 ngày kể từ ngày người được bảo hiểm lần đầu tiên được chẩn đoán mắc phải bệnh hiểm nghèo”.

- “Tai nạn (trong trường hợp có quyền lợi do tai nạn): là một sự kiện hoặc một chuỗi sự kiện liên tục, khách quan, xảy ra do tác động của một lực, một vật bất ngờ từ bên ngoài, không chủ động và ngoài ý muốn lên cơ thể của Người được bảo hiểm. Sự kiện hoặc chuỗi sự kiện nêu trên phải là nguyên nhân trực tiếp, duy nhất và không liên quan đến bất kỳ nguyên nhân nào khác gây ra thương tật hoặc tử vong cho Người được bảo hiểm trong vòng … ngày (doanh nghiệp chủ động quy định phù hợp với từng sản phẩm, tối đa là 180 ngày) kể từ ngày xảy ra sự kiện hoặc chuỗi sự kiện đó.” Ví dụ minh họa: Trong hợp đồng bảo hiểm có quyền lợi bảo hiểm tử vong do tai nạn (thường sẽ cao hơn quyền lợi tử vong không do tai nạn) của doanh nghiệp bảo hiểm A có quy định thời gian chờ là: “Sự kiện hoặc chuỗi sự kiện nêu trên phải là nguyên nhân trực tiếp, duy nhất và không liên quan đến bất kỳ nguyên nhân nào khác gây ra thương tật hoặc tử vong cho Người được bảo hiểm trong vòng 90 ngày kể từ ngày xảy ra sự kiện hoặc chuỗi sự kiện đó.”

Trong trường hợp này, nếu người được bảo hiểm gặp tai nạn, được đưa vào bệnh viện điều trị và không rơi vào trường hợp loại trừ bảo hiểm, việc chi trả quyền lợi bảo hiểm sẽ có 2 tình huống xảy ra:

- Nếu người được bảo hiểm tử vong trong vòng 90 ngày kể từ ngày xảy ra tai nạn, doanh nghiệp bảo hiểm sẽ chi trả quyền lợi bảo hiểm tử vong do tai nạn;

- Nếu người được bảo hiểm từ vong sau 90 ngày kể từ ngày xảy ra tai nạn thì doanh nghiệp bảo hiểm sẽ không chi trả quyền lợi bảo hiểm tử vong do tai nạn.

4.3. Bảo hiểm tạm thời

Theo thông lệ, bên mua bảo hiểm nhân thọ sẽ được hưởng quyền lợi “bảo hiểm tạm thời” trong thời gian hợp đồng bảo hiểm chưa được phát hành. Cụ thể, sau khi bên mua bảo hiểm hoàn thành việc kê khai hồ sơ yêu cầu bảo hiểm và đóng khoản phí bảo hiểm đầu tiên, doanh nghiệp bảo hiểm sẽ cần thời gian để thẩm định và phát hành hợp đồng bảo hiểm. Trong thời gian này, người được bảo hiểm chưa được bảo hiểm theo quy tắc, điều khoản của các sản phẩm bảo hiểm mà bên mua bảo hiểm yêu cầu tham gia. Mặc dù vậy, doanh nghiệp bảo hiểm sẽ chi trả quyền lợi “bảo hiểm tạm thời” nếu người được bảo hiểm gặp rủi ro tử vong do tai nạn trong khoảng thời gian doanh nghiệp bảo hiểm tiến hành thẩm định hồ sơ yêu cầu bảo hiểm. Quyền lợi “bảo hiểm tạm thời” thường được ấn định bằng một số tiền cụ thể (ví dụ: 100 triệu hoặc 200 triệu đồng), không phụ thuộc vào số tiền bảo hiểm mà bên mua bảo hiểm yêu cầu được bảo hiểm. Quyền lợi “bảo hiểm tạm thời” sẽ chấm dứt khi hợp đồng bảo hiểm được phát hành / bị từ chối phát hành, hoặc khi bên mua bảo hiểm yêu cầu hủy bỏ hồ sơ yêu cầu bảo hiểm.

II.   MỘT SỐ KINH NGHIỆM QUỐC TẾ TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP

1. Giải quyết tranh chấp về bảo hiểm tại Singapore và HongKong: Cơ chế 3 cấp

 Cấp 1: Cơ chế giải quyết khiếu nại của khách hàng tại doanhg nghiệp bảo hiểm

- Pháp luật Singapore và HongKong có những quy định tương tự về vấn đề này;

- Pháp luật yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm phải có quy trình rõ ràng về xử lý khiếu nại của khách hàng;

-   Cơ quan quản lý nhà nước giữ vai trò giám sát trong việc DNBH giải quyết khiếu nại của khách hàng, bảo đảm mọi khiếu nại được xử lý thỏa đáng.

 Cấp 2: Giải quyết tranh chấp thông qua một cơ quan độc lập (independent alternative dispute resolution).

-   Chủ yếu là cơ chế trung gian hòa giải;

- Thuộc sự quản lý trực tiếp của nhà nước;

-   Nhằm bảo vệ khách hàng cá nhân không đủ khả năng tài chính để theo đuổi các vụ kiện. Ưu điểm:

- Độc lập;

- Là “cơ quan một cửa” bảo vệ người tiêu dùng trong nhiều lĩnh vực: ngân hàng, bảo hiểm và thị trường vốn;

-   Thành viên là những người có kinh nghiệm trong ngành; - Chi phí thấp;

- Cơ chế giải quyết tranh chấp hiệu quả, thuận tiện và tiết kiệm chi phí.

Cấp 3: Giải quyết tranh chấp thông qua thủ tục tố tụng tại Tòa án.

2.   Tham khảo Quan điểm của Tòa trong trường hợp:

-   Bên mua bảo hiểm gian lận/khai báo gian dối; và

-   Bên mua bảo hiểm không khai báo thông tin trọng yếu cho doanh nghiệp bảo hiểm.

2.1. Trong trường hợp Bên mua bảo hiểm có hành vi gian lận/khai báo gian dối

- Nếu doanh nghiệp bảo hiểm chứng minh được bên mua bảo hiểm gian lận, doanh nghiệp có quyền kết thúc hợp đồng bảo hiểm.

+ Gian lận được chứng minh khi doanh nghiệp bảo hiểm có đầy đủ bằng chứng về việc Bên mua bảo hiểm cung cấp thông tin sai là (i) có chủ ý hoặc (ii) không tin nó là thật, hoặc (iii) bất cẩn và không cần biết thông tin mình đưa là đúng hay sai.

+ Trạng thái tâm lý chủ quan của bên mua bảo hiểm khi cung cấp thông tin cũng được xem xét khi nhận định họ có gian lận hay không. Trạng thái chủ quan phải được xác định bởi Tòa án căn cứ trên các chứng cứ khách quan có được.

+ Trong một vụ kiện tại Tòa án Hong Kong, doanh nghiệp bảo hiểm đã không thanh toán quyền lợi tử vong và hủy hợp đồng bảo hiểm vì việc gian lận của người được bảo hiểm. Trong trường hợp này, Tòa án nhận định rằng người được bảo hiểm biết được tình trạng bệnh của ông ta nghiêm trọng hơn nhiều so với việc chỉ mắc viêm gan siêu vi B (bệnh mà ông ta đã khai báo) đó là bị xơ gan. Việc này dẫn đến vi phạm “khai báo không trung thực” do trong đơn yêu cầu bảo hiểm, ông ta cam kết “khai báo trung thực dựa trên hiểu biết và tin tưởng của tôi”. Nhưng ông ta đã không làm đúng như vậy.

2.2. Trong trường hợp Bên mua bảo hiểm không khai báo thông tin trọng yếu cho doanh nghiệp bảo hiểm

+ Không khai báo “Thông tin trọng yếu” được hiểu là việc bên mua bảo hiểm không khai báo những thông tin mà nếu biết được những thông tin đó doanh nghiệp bảo hiểm đã không chấp nhận bảo hiểm hoặc chấp nhận bảo hiểm với mức phí cao hơn.

+ Thông thường, doanh nghiệp bảo hiểm sẽ hủy hợp đồng vì bên mua bảo hiểm không khai báo các “thông tin trọng yếu” nếu họ phát hiện trong khoảng thời gian truy xét. “Thời gian truy xét” là khoảng thời gian trong đó hiệu lực của một hợp đồng bảo hiểm có thể được xem xét lại, thông thường là từ 01 đến 02 năm.

+ Đối với các hợp đồng bảo hiểm có điều khoản miễn truy xét, các yêu cầu giải quyết quyền lợi bảo hiểm sẽ không bị từ chối sau khi hợp đồng đã tồn tại được một tới hai năm, kể từ ngày bắt đầu bảo hiểm hoặc ngày khôi phục hiệu lực hợp đồng, trừ trường hợp gian lận, không thanh toán phí bảo hiểm hoặc thuộc trường hợp loại trừ.

+ Thời gian truy xét và Điều khoản miễn truy xét không bắt buộc mà là thực tiễn áp dụng được các doanh nghiệp bảo hiểm chấp nhận.

+ Theo thông lệ trong ngành bảo hiểm của Singapore, nếu doanh nghiệp bảo hiểm chứng minh được bên mua bảo hiểm gian lận, doanh nghiệp bảo hiểm có quyền chấm dứt hợp đồng ngay cả sau “thời gian truy xét”.

 Nguồn bài viết: 

https://phapluatdansu.edu.vn/wp-content/uploads/2020/03/PHAN- NGUYEN-DIEP-LAN.pdf

Theo: Phan Nguyễn Diệp Lan

Link tài liệu: 

https://docs.google.com/document/d/1WhkGiim9taSdnA_QAc0Edfdn2I9Tx1e2/edit

avatar
Đặng Quỳnh
914 ngày trước
PHÁP LUẬT VỀ GIAO KẾT VÀ THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM NHÂN THỌ
 I.   CÁC QUY ĐỊNH ĐẶC THÙ VỀ HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM NHÂN THỌ1.   Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ1.1. Các quy định của pháp luậtBộ luật Dân sự năm 2005 có Chương XVIII về các hợp đồng dân sự thông dụng, Mục 11 về hợp đồng bảo hiểm bao gồm 19 điều. Tuy nhiên, Bộ luật Dân sự năm 2015 đã thay thế Bộ luật Dân sự năm 2005 kể từ 01/01/2017 và không còn chương quy định riêng về hợp đồng bảo hiểm.Luật Kinh doanh Bảo hiểm có Chương 2 quy định về hợp đồng bảo hiểm, bao gồm 19 điều quy định chung (từ Điều 12 đến Điều 30) và 9 điều quy định riêng cho hợp đồng bảo hiểm con người, trong đó có bảo hiểm nhân thọ (từ Điều 31 đến Điều 39). Nghị Định 73/2016/NĐ-CP hướng dẫn thực hiện một số điều của Luật Kinh doanh Bảo hiểm.Quyết định 35/2015/QĐ-TTg ban hành danh mục bổ sung hàng hóa, dịch vụ thiết yếu phải đăng ký hợp đồng mẫu.1.2. Hợp đồng bảo hiểm - hợp đồng theo mẫuTheo quy định của Luật Kinh doanh Bảo hiểm và các văn bản hướng dẫn: Hợp đồng bảo hiểm phải được lập thành văn bản. Bằng chứng giao kết hợp đồng bảo hiểm là giấy chứng nhận bảo hiểm, đơn bảo hiểm, điện báo, telex, fax và các hình thức khác do pháp luật quy định (Điều 14 Luật Kinh doanh Bảo hiểm). Các sản phẩm bảo hiểm nhân thọ và các sản phẩm bảo hiểm tai nạn, sức khỏe phải được Bộ Tài chính phê chuẩn quy tắc điều khoản sản phẩm và biểu phí trước khi triển khai (Điều 39 Nghị định 73/2016/NĐ-CP).Một hợp đồng bảo hiểm nhân thọ có thể có các sản phẩm bảo hiểm bảo hiểm chính và các sản phẩm bảo hiểm bổ trợ tai nạn, sức khỏe đính kèm.Theo Quyết định 35/2015/QĐ-TTg, hợp đồng bảo hiểm nhân thọ cần được đăng ký mẫu với Bộ Công thương trước khi triển khai.Trên cơ sở các quy định về hợp đồng bảo hiểm và thực tiễn triển khai các sản phẩm bảo hiểm của các doanh nghiệp bảo hiểm trên thị trường, Bộ Tài chính và Bộ Công thương đã cùng nhau ký kết ban hành Quy chế số 4330/QCPH/BTC-BCT ngày 31/3/2017 về việc phối hợp giữa Bộ Tài chính và Bộ Công thương trong việc phê chuẩn sản phẩm, đăng ký hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch chung đối với bảo hiểm nhân thọ (“Quy chế 4330”). Quy chế 4330 ngoài việc ban hành quy trình phối hợp giữa hai Bộ trong việc phê chuẩn quy tắc, điều khoản sản phẩm bảo hiểm nhân thọ còn ban hành kèm theo bộ quy tắc điều khoản mẫu của sản phẩm bảo hiểm nhân thọ truyền thống để các doanh nghiệp bảo hiểm có thể sử dụng trong việc phát triển quy tắc, điều khoản sản phẩm của mình.Căn cứ vào các quy định hiện hành, một bộ hợp đồng bảo hiểm nhân thọ sẽ bao gồm:(i) Hồ sơ yêu cầu bảo hiểm;(ii) Chứng nhận bảo hiểm;(iii) Quy tắc và điều khoản sản phẩm bảo hiểm chính và (các) sản phẩm bảo hiểm bổ trợ đi kèm đã được Bộ Tài chính phê chuẩn;(iv) Các thỏa thuận khác, nếu có, được giao kết hợp lệ giữa doanh nghiệp bảo hiểm và bên mua bảo hiểm trong quá trình giao kết và thực hiện Hợp đồng bảo hiểm.1.3. Thời gian cân nhắcThời gian cân nhắc là khoảng thời gian xác định, thường là 21 ngày kể từ ngày khách hàng nhận được hợp đồng bảo hiểm có hiệu lực, mà trong thời gian đó bên mua bảo hiểm được toàn quyền đọc, kiểm tra lại bộ hợp đồng bảo hiểm, yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm chỉnh sửa thông tin chưa chính xác, cập nhật thêm thông tin và quyết định có tiếp tục thực hiện bảo hiểm không sau khi hợp đồng bảo hiểm đã có hiệu lực. Nếu bên mua bảo hiểm quyết định không tiếp tục thực hiện hợp đồng bảo hiểm, bên mua bảo hiểm được quyền hủy hợp đồng bảo hiểm và nhận lại khoản phí bảo hiểm đầu tiên đã đóng; doanh nghiệp bảo hiểm sẽ khấu trừ lại phần chi phí khám sức khỏe cho khách hàng khi thẩm định hồ sơ yêu cầu bảo hiểm (nếu có).Thời gian cân nhắc là một thông lệ của ngành bảo hiểm nhân thọ vì tính chất hợp đồng bảo hiểm nhân thọ là hợp đồng theo mẫu, thời gian cân nhắc giúp bên mua bảo hiểm có thời gian đọc và kiểm tra lại toàn bộ nội dung của hợp đồng bảo hiểm. Thời gian cân nhắc hiện nay cũng được ghi nhận trong quy tắc điều khoản mẫu của sản phẩm bảo hiểm nhân thọ được ban hành kèm theo Quy chế 4330.1.4. Giao kết hợp đồng bảo hiểmCác bước cơ bản của một giao dịch giao kết hợp đồng bảo hiểmTư vấn tài chính tư vấn về HDBH (nếu có) -> Bên mua bảo hiểm kê khai theo hồ sơ yêu cầu bảo hiểm và đóng phí -> Công ty bảo hiểm thẩm định hồ sơ yêu cầu bảo hiểm -> Công ty bảo hiểm chấp nhận bảo hiểm – phát hành hợp đồng bảo hiểm.2. Quyền lợi có thể được bảo hiểm giữa bên mua bảo hiểm và người được bảo hiểmĐể tham gia bảo hiểm, bên mua bảo hiểm phải có quyền lợi có thể được bảo hiểm với người được bảo hiểm. Doanh nghiệp bảo hiểm cần đánh giá việc tồn tại quyền lợi có thể được bảo hiểm giữa bên mua bảo hiểm và người được bảo hiểm để ngăn ngừa rủi ro trục lợi bảo hiểm.Theo Điều 3, điểm 9 của Luật Kinh doanh Bảo hiểm, “quyền lợi có thể được bảo hiểm là quyền sở hữu, quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền tài sản; quyền, nghĩa vụ nuôi dưỡng, cấp dưỡng đối với đối tượng được bảo hiểm.”Nói cách khác bên mua bảo hiểm sẽ có “quyền lợi có thể được bảo hiểm” đối với người được bảo hiểm nếu tử vong hay tổn thất xảy ra đối với người đó sẽ gây ra tổn thất về vật chất hay tinh thần đối với bên mua bảo hiểm. Trên cơ sở khái niệm quyền lợi có thể được bảo hiểm, Điều 31 Luật Kinh doanh Bảo hiểm xác định bên mua bảo hiểm chỉ có thể mua bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm tai nạn, sức khỏe cho những người sau đây:•   Bản thân bên mua bảo hiểm;•   Vợ, chồng, con, cha, mẹ của bên mua bảo hiểm;•  Anh, chị, em ruột; người có quan hệ nuôi dưỡng và cấp dưỡng;•   Người khác, nếu bên mua bảo hiểm có quyền lợi có thể được bảo hiểm.Trên thực tế, ngoài các trường hợp trên, các doanh nghiệp bảo hiểm còn xác định bên mua bảo hiểm có quyền lợi có thể được bảo hiểm với người được bảo hiểm trong một số trường hợp khác như: quan hệ lao động, quan hệ tín dụng.Một hợp đồng bảo hiểm sẽ bị vô hiệu nếu quyền lợi có thể được bảo hiểm không tồn tại tại thời điểm bên mua bảo hiểm tham gia bảo hiểm (Điều 22 của Luật Kinh doanh Bảo hiểm) hoặc bị chấm dứt nếu trong thời gian hợp đồng bảo hiểm có hiệu lực, bên mua bảo hiểm không còn quyền lợi có thể được bảo hiểm với người được bảo hiểm (Điều 23 của Luật Kinh doanh Bảo hiểm).3.   Nghĩa vụ của bên mua bảo hiểmTheo Điều 18.2 của Luật Kinh doanh Bảo hiểm, Bên mua bảo hiểm có nghĩa vụ:“a) Đóng phí bảo hiểm đầy đủ, theo thời hạn và phương thức đã thỏa thuận trong hợp đồng bảo hiểm;a) Kê khai đầy đủ, trung thực mọi chi tiết có liên quan đến hợp đồng bảo hiểm theo yêu cầu của doanh nghiệp bảo hiểm;b)  Thông báo những trường hợp có thể làm tăng rủi ro hoặc làm phát sinh thêm trách nhiệm của doanh nghiệp bảo hiểm trong quá trình thực hiện hợp đồng bảo hiểm theo yêu cầu của doanh nghiệp bảo hiểm;c) Thông báo cho doanh nghiệp bảo hiểm về việc xảy ra sự kiện bảo hiểm theo thoả thuận trong hợp đồng bảo hiểm;đ) Áp dụng các biện pháp đề phòng, hạn chế tổn thất theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan;d)   Các nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật.”Trong các nghĩa vụ trên, nghĩa vụ đóng phí bảo hiểm và nghĩa vụ kê khai đầy đủ, trung thực mọi chi tiết có liên quan đến hợp đồng bảo hiểm theo yêu cầu của doanh nghiệp bảo hiểm là hai nghĩa vụ quan trọng nhất của bên mua bảo hiểm.3.1. Nghĩa vụ kê khai trung thực và việc doanh nghiệp bảo hiểm thực hiện kiểm tra y tế với người được bảo hiểm không thay thế nghĩa vụ kê khai của bên mua bảo hiểmNguyên tắc “trung thực tuyệt đối” là nguyên tắc quan trọng nhất cho việc chấp nhận rủi ro và giao kết hợp đồng bảo hiểm giữa doanh nghiệp bảo hiểm và khách hàng. Khách hàng tham gia bảo hiểm nhân thọ là hoàn toàn tự nguyện, Luật Kinh doanh bảo hiểm cấm mọi hành vi ép buộc khách hàng tham gia hay giao kết hợp đồng bảo hiểm. Khách hàng sẽ là người tự quyết định có tham gia (mua) bảo hiểm bằng việc hoàn tất hồ sơ yêu cầu bảo hiểm để nộp về công ty bảo hiểm. Công ty bảo hiểm sẽ xem xét yêu cầu tham gia bảo hiểm của khách hàng trên cơ sở các thông tin được khách hàng kê khai trong hồ sơ yêu cầu bảo hiểm để ra quyết định chấp nhận hoặc từ chối bảo hiểm. Bảo hiểm về bản chất là sự chia sẻ rủi ro giữa những người tham gia bảo hiểm thông qua công ty bảo hiểm. Doanh nghiệp bảo hiểm sẽ đưa ra quyết định đồng ý chấp nhận hoặc từ chối yêu cầu tham gia bảo hiểm của khách hàng dựa vào thông tin mà khách hàng kê khai hoặc cung cấp trong hồ sơ yêu cầu bảo hiểm. Điểm b, khoản 2 điều 18 Luật Kinh doanh Bảo hiểm quy định rất rõ ràng: “Bên mua bảo hiểm có nghĩa vụ kê khai đầy đủ, trung thực mọi chi tiết có liên quan đến hợp đồng bảo hiểm theo yêu cầu của doanh nghiệp bảo hiểm”. Điều 19 Luật Kinh doanh Bảo hiểm cũng nhấn mạnh thêm: “Bên mua bảo hiểm có trách nhiệm cung cấp đầy đủ thông tin liên quan đến đối tượng bảo hiểm cho doanh nghiệp bảo hiểm. Các bên chịu trách nhiệm về tính chính xác, trung thực của thông tin đó”.Khi quyết định tham gia hợp đồng bảo hiểm nhân thọ, bên mua bảo hiểm sẽ hoàn tất hồ sơ yêu cầu bảo hiểm bao gồm kê khai các thông tin về bên mua bảo hiểm, người được bảo hiểm, xác định số tiền bảo hiểm và loại sản phẩm bảo hiểm, khai báo đầy đủ chi tiết về tình trạng sức khỏe, tài chính của bản thân cũng như của người được bảo hiểm theo nội dung các câu hỏi trong hồ sơ yêu cầu bảo hiểm. Doanh nghiệp bảo hiểm cũng có thể yêu cầu Bên mua bảo hiểm kê khai các thông tin bổ sung trên cơ sở thông tin đã được kê khai trong Hồ sơ yêu cầu bảo hiểm. Các thông tin được kê khai bổ sung cũng được coi như thông tin kê khai trong Hồ sơ yêu cầu bảo hiểm. Bên mua bảo hiểm và người được bảo hiểm sẽ được công ty bảo hiểm yêu cầu xác nhận hoặc ký vào hồ sơ yêu cầu bảo hiểm để đảm bảo tính trung thực, đầy đủ và chính xác của thông tin được kê khai trong hồ sơ yêu cầu bảo hiểm. Doanh nghiệp bảo hiểm không có nghĩa vụ đánh giá tính chính xác hay đầy đủ các thông tin được bên mua bảo hiểm kê khai hay cung cấp trong hồ sơ yêu cầu bảo hiểm. Bên mua bảo hiểm cần kiểm tra lại thông tin đã được kê khai trong bộ hợp đồng bảo hiểm đã phát hành trong thời gian cân nhắc(như đã trình bày tại Mục 1.3 ở trên) để đảm bảo không có rủi ro hợp đồng bảo hiểm bị đơn phương chấm dứt/đơn phương đình chỉ từ phía doanh nghiệp bảo hiểm. Tuy nhiên, để đảm bảo việc quản trị rủi ro và chia sẻ rủi ro được công bằng, ngoài việc đánh giá rủi ro theo thông tin được kê khai hoặc cung cấp trong hồ sơ yêu cầu bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm có thể đánh giá theo xác suất bằng việc thực hiện kiểm tra sức khỏe đối với một tỉ lệ người được bảo hiểm nhất định. Đối với một số rủi ro lớn, ví dụ như số tiền bảo hiểm lớn hoặc các thông tin kê khai chưa đủ đánh giá rủi ro, doanh nghiệp bảo hiểm có thể thực hiện kiểm tra y tế đối với người được bảo hiểm để đánh giá mức độ rủi ro và qua đó xác định khoản phí bảo hiểm mà bên mua cần phải đóng. Việc khám sức khỏe chỉ là nghiệp vụ thẩm định của công ty bảo hiểm và được dùng để đánh giá, quyết định khả năng chấp nhận bảo hiểm chứ không thay thế thông tin mà bên mua bảo hiểm đã kê khai hay chứng minh tính trung thực của bên mua bảo hiểm khi kê khai hồ sơ yêu cầu bảo hiểm.Khi có sự kiện bảo hiểm phát sinh, doanh nghiệp bảo hiểm sẽ “giám định/ xác minh”, nếu phát hiện khách hàng kê khai không trung thực thì Công ty bảo hiểm sẽ thực hiện quyền “đình chỉ thực hiện hợp đồng bảo hiểm” và từ chối chi trả quyền lợi bảo hiểm.3.2. Đình chỉ thực hiện hợp đồng bảo hiểmĐiều 19.2 Luật kinh doanh bảo hiểm quy định: “Doanh nghiệp bảo hiểm có quyền đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng bảo hiểm và thu phí bảo hiểm đến thời điểm đình chỉ thực hiện hợp đồng bảo hiểm” khi Bên mua bảo hiểm có một trong những hành vi sau đây: a) Cố ý cung cấp thông tin sai sự thật nhằm giao kết hợp đồng bảo hiểm để được trả tiền bảo hiểm hoặc được bồi thường;b) Không thực hiện các nghĩa vụ trong việc cung cấp thông tin cho doanh nghiệp bảo hiểm theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 18 của Luật. Tương tự, quy tắc điều khoản mẫu của hợp đồng bảo hiểm nhân thọ (Ban hành kèm theo Quy chế số 4330) cũng quy định rõ ràng về hậu quả pháp lý của việc vi phạm nghĩa vụ cung cấp thông tin của Bên mua bảo hiểm. Theo đó, doanh nghiệp bảo hiểm sẽ có quyền: “không chấp nhận bảo hiểm, doanh nghiệp không có trách nhiệm chi trả nếu xảy ra sự kiện bảo hiểm; “đơn phương đình chỉ hợp đồng này ngay sau khi phát hiện ra hành vi vi phạm của Bên mua bảo hiểm/Người được bảo hiểm”.4.   Các trường hợp loại trừ trách nhiệm bảo hiểm4.1. Điều khoản loại trừ trách nhiệm bảo hiểmĐiều khoản loại trừ (trách nhiệm bảo hiểm) là một điều khoản đặc biệt của hợp đồng bảo hiểm. Như ta đã biết, bản chất của bảo hiểm là chia sẻ rủi ro và bảo vệ bên mua bảo hiểm trước các rủi ro thuộc phạm vi bảo hiểm và không nhìn thấy trước của bên mua bảo hiểm, nên trong một số trường hợp như rủi ro chắc chắn sẽ xảy ra, hoặc sự kiện bảo hiểm xảy ra do lỗi cố ý của bên mua bảo hiểm, hoặc sự kiện bảo hiểm xảy ra mang tính hàng loạt (như do chiến tranh, bạo loạn),… thì sẽ bị loại trừ khỏi phạm vi bảo hiểm.Ví dụ: nếu người được bảo hiểm bị nhiễm virus HIV hoặc chẩn đoán bị AIDS, có nghĩa người được bảo hiểm sẽ không có cơ hội chữa khỏi và chắc chắn tử vong trong một thời gian nhất định, doanh nghiệp bảo hiểm sẽ từ chối bảo hiểm cho trường hợp người được bảo hiểm nhiễm HIV/AIDS. Tuy nhiên, khi HIV/AIDS trở thành bệnh có thể kiểm soát hoặc chữa khỏi, các doanh nghiệp bảo hiểm có thể cân nhắc bỏ điều khoản loại trừ này.Luật Kinh doanh Bảo hiểm quy định nguyên tắc áp dụng điều khoản loại trừ tại Điều16:“1. Điều khoản loại trừ trách nhiệm bảo hiểm quy định trường hợp doanh nghiệpbảo hiểm không phải bồi thường hoặc không phải trả tiền bảo hiểm khi xẩy ra sự kiện bảo hiểm.2. Điều khoản loại trừ trách nhiệm bảo hiểm phải được quy định rõ trong hợp đồng bảo hiểm. Doanh nghiệp bảo hiểm phải giải thích rõ cho bên mua bảo hiểm khi giao kết hợp đồng.3. Không áp dụng điều khoản loại trừ trách nhiệm bảo hiểm trong các trường hợp sau đây: a) Bên mua bảo hiểm vi phạm pháp luật do vô ý;b) Bên mua bảo hiểm có lý do chính đáng trong việc chậm thông báo cho doanh nghiệp bảo hiểm về việc xảy ra sự kiện bảo hiểm.”Trên thực tế, tùy thuộc vào loại sản phẩm bảo hiểm, loại rủi ro được bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm xác định các trường hợp loại trừ bảo hiểm tương ứng và quy định cụ thể trong điều kiện, điều khoản bảo hiểm. Khi sự kiện bảo hiểm xảy ra, các bên sẽ phải căn cứ vào quy tắc điều khoản của sản phẩm bảo hiểm tương ứng với quyền lợi bảo hiểm đang được yêu cầu chi trả để xem xét áp dụng điều khoản loại trừ.4.2. Thời gian chờ / Thời gian loại trừKhái niệm “Thời gian chờ” hay “Thời gian loại trừ” không được đề cập đến trong Luật Kinh doanh Bảo hiểm, nhưng đây là khái niệm đặc thù được áp dụng đối với một số sản phẩm bảo hiểm theo đó, thời gian chờ là một khoảng thời gian được ấn định mà nếu sự kiện bảo hiểm xảy ra hoặc không xảy ra trong thời gian chờ đó, doanh nghiệp bảo hiểm sẽ từ chối chi trả quyền lợi bảo hiểm, hay nói cách khác, đây là một dạng của loại trừ bảo hiểm. Việc đưa điều khoản thời gian chờ vào hợp đồng bảo hiểm nhằm ngăn ngừa khả năng lạm dụng, trục lợi bảo hiểm và giúp doanh nghiệp bảo hiểm giữ phí bảo hiểm ở mức hợp lý.Trong thực tiễn, thời gian chờ thường được quy định trong khoảng từ 30 ngày đến 90 ngày kể từ ngày hợp đồng bảo hiểm có hiệu lực hoặc ngày khôi phục hiệu lực hợp đồng bảo hiểm.Dưới đây là một số điều khoản về thời gian chờ:- “Thời gian chờ là thời gian 90 ngày kể từ Ngày phát hành Hợp đồng hoặc Ngày khôi phục hiệu lực Hợp đồng gần nhất, tùy ngày nào xảy ra sau. Công ty sẽ không chi trả Quyền lợi Bệnh hiểm nghèo cho các sự kiện bảo hiểm xảy ra trong Thời gian chờ.”; hoặc- “DNBH sẽ không chi trả quyền lợi bảo hiểm bệnh hiểm nghèo của người được bảo hiểm nếu người được bảo hiểm có các triệu chứng liên quan đến bệnh mắc phải hoặc được chẩn đoán mắc bệnh trong thời gian 90 ngày kể từ ngày HĐBH bắt đầu có hiệu lực hoặc ngày HĐBH được khôi phục hiệu lực gần nhất”; hoặc –“DNBH sẽ không chi trả quyền lợi bảo hiểm bệnh hiểm nghèo của người được bảo hiểm nếu người được bảo hiểm tử vong trong thời gian 30 ngày kể từ ngày người được bảo hiểm lần đầu tiên được chẩn đoán mắc phải bệnh hiểm nghèo”.- “Tai nạn (trong trường hợp có quyền lợi do tai nạn): là một sự kiện hoặc một chuỗi sự kiện liên tục, khách quan, xảy ra do tác động của một lực, một vật bất ngờ từ bên ngoài, không chủ động và ngoài ý muốn lên cơ thể của Người được bảo hiểm. Sự kiện hoặc chuỗi sự kiện nêu trên phải là nguyên nhân trực tiếp, duy nhất và không liên quan đến bất kỳ nguyên nhân nào khác gây ra thương tật hoặc tử vong cho Người được bảo hiểm trong vòng … ngày (doanh nghiệp chủ động quy định phù hợp với từng sản phẩm, tối đa là 180 ngày) kể từ ngày xảy ra sự kiện hoặc chuỗi sự kiện đó.” Ví dụ minh họa: Trong hợp đồng bảo hiểm có quyền lợi bảo hiểm tử vong do tai nạn (thường sẽ cao hơn quyền lợi tử vong không do tai nạn) của doanh nghiệp bảo hiểm A có quy định thời gian chờ là: “Sự kiện hoặc chuỗi sự kiện nêu trên phải là nguyên nhân trực tiếp, duy nhất và không liên quan đến bất kỳ nguyên nhân nào khác gây ra thương tật hoặc tử vong cho Người được bảo hiểm trong vòng 90 ngày kể từ ngày xảy ra sự kiện hoặc chuỗi sự kiện đó.”Trong trường hợp này, nếu người được bảo hiểm gặp tai nạn, được đưa vào bệnh viện điều trị và không rơi vào trường hợp loại trừ bảo hiểm, việc chi trả quyền lợi bảo hiểm sẽ có 2 tình huống xảy ra:- Nếu người được bảo hiểm tử vong trong vòng 90 ngày kể từ ngày xảy ra tai nạn, doanh nghiệp bảo hiểm sẽ chi trả quyền lợi bảo hiểm tử vong do tai nạn;- Nếu người được bảo hiểm từ vong sau 90 ngày kể từ ngày xảy ra tai nạn thì doanh nghiệp bảo hiểm sẽ không chi trả quyền lợi bảo hiểm tử vong do tai nạn.4.3. Bảo hiểm tạm thờiTheo thông lệ, bên mua bảo hiểm nhân thọ sẽ được hưởng quyền lợi “bảo hiểm tạm thời” trong thời gian hợp đồng bảo hiểm chưa được phát hành. Cụ thể, sau khi bên mua bảo hiểm hoàn thành việc kê khai hồ sơ yêu cầu bảo hiểm và đóng khoản phí bảo hiểm đầu tiên, doanh nghiệp bảo hiểm sẽ cần thời gian để thẩm định và phát hành hợp đồng bảo hiểm. Trong thời gian này, người được bảo hiểm chưa được bảo hiểm theo quy tắc, điều khoản của các sản phẩm bảo hiểm mà bên mua bảo hiểm yêu cầu tham gia. Mặc dù vậy, doanh nghiệp bảo hiểm sẽ chi trả quyền lợi “bảo hiểm tạm thời” nếu người được bảo hiểm gặp rủi ro tử vong do tai nạn trong khoảng thời gian doanh nghiệp bảo hiểm tiến hành thẩm định hồ sơ yêu cầu bảo hiểm. Quyền lợi “bảo hiểm tạm thời” thường được ấn định bằng một số tiền cụ thể (ví dụ: 100 triệu hoặc 200 triệu đồng), không phụ thuộc vào số tiền bảo hiểm mà bên mua bảo hiểm yêu cầu được bảo hiểm. Quyền lợi “bảo hiểm tạm thời” sẽ chấm dứt khi hợp đồng bảo hiểm được phát hành / bị từ chối phát hành, hoặc khi bên mua bảo hiểm yêu cầu hủy bỏ hồ sơ yêu cầu bảo hiểm.II.   MỘT SỐ KINH NGHIỆM QUỐC TẾ TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP1. Giải quyết tranh chấp về bảo hiểm tại Singapore và HongKong: Cơ chế 3 cấp Cấp 1: Cơ chế giải quyết khiếu nại của khách hàng tại doanhg nghiệp bảo hiểm- Pháp luật Singapore và HongKong có những quy định tương tự về vấn đề này;- Pháp luật yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm phải có quy trình rõ ràng về xử lý khiếu nại của khách hàng;-   Cơ quan quản lý nhà nước giữ vai trò giám sát trong việc DNBH giải quyết khiếu nại của khách hàng, bảo đảm mọi khiếu nại được xử lý thỏa đáng. Cấp 2: Giải quyết tranh chấp thông qua một cơ quan độc lập (independent alternative dispute resolution).-   Chủ yếu là cơ chế trung gian hòa giải;- Thuộc sự quản lý trực tiếp của nhà nước;-   Nhằm bảo vệ khách hàng cá nhân không đủ khả năng tài chính để theo đuổi các vụ kiện. Ưu điểm:- Độc lập;- Là “cơ quan một cửa” bảo vệ người tiêu dùng trong nhiều lĩnh vực: ngân hàng, bảo hiểm và thị trường vốn;-   Thành viên là những người có kinh nghiệm trong ngành; - Chi phí thấp;- Cơ chế giải quyết tranh chấp hiệu quả, thuận tiện và tiết kiệm chi phí.Cấp 3: Giải quyết tranh chấp thông qua thủ tục tố tụng tại Tòa án.2.   Tham khảo Quan điểm của Tòa trong trường hợp:-   Bên mua bảo hiểm gian lận/khai báo gian dối; và-   Bên mua bảo hiểm không khai báo thông tin trọng yếu cho doanh nghiệp bảo hiểm.2.1. Trong trường hợp Bên mua bảo hiểm có hành vi gian lận/khai báo gian dối- Nếu doanh nghiệp bảo hiểm chứng minh được bên mua bảo hiểm gian lận, doanh nghiệp có quyền kết thúc hợp đồng bảo hiểm.+ Gian lận được chứng minh khi doanh nghiệp bảo hiểm có đầy đủ bằng chứng về việc Bên mua bảo hiểm cung cấp thông tin sai là (i) có chủ ý hoặc (ii) không tin nó là thật, hoặc (iii) bất cẩn và không cần biết thông tin mình đưa là đúng hay sai.+ Trạng thái tâm lý chủ quan của bên mua bảo hiểm khi cung cấp thông tin cũng được xem xét khi nhận định họ có gian lận hay không. Trạng thái chủ quan phải được xác định bởi Tòa án căn cứ trên các chứng cứ khách quan có được.+ Trong một vụ kiện tại Tòa án Hong Kong, doanh nghiệp bảo hiểm đã không thanh toán quyền lợi tử vong và hủy hợp đồng bảo hiểm vì việc gian lận của người được bảo hiểm. Trong trường hợp này, Tòa án nhận định rằng người được bảo hiểm biết được tình trạng bệnh của ông ta nghiêm trọng hơn nhiều so với việc chỉ mắc viêm gan siêu vi B (bệnh mà ông ta đã khai báo) đó là bị xơ gan. Việc này dẫn đến vi phạm “khai báo không trung thực” do trong đơn yêu cầu bảo hiểm, ông ta cam kết “khai báo trung thực dựa trên hiểu biết và tin tưởng của tôi”. Nhưng ông ta đã không làm đúng như vậy.2.2. Trong trường hợp Bên mua bảo hiểm không khai báo thông tin trọng yếu cho doanh nghiệp bảo hiểm+ Không khai báo “Thông tin trọng yếu” được hiểu là việc bên mua bảo hiểm không khai báo những thông tin mà nếu biết được những thông tin đó doanh nghiệp bảo hiểm đã không chấp nhận bảo hiểm hoặc chấp nhận bảo hiểm với mức phí cao hơn.+ Thông thường, doanh nghiệp bảo hiểm sẽ hủy hợp đồng vì bên mua bảo hiểm không khai báo các “thông tin trọng yếu” nếu họ phát hiện trong khoảng thời gian truy xét. “Thời gian truy xét” là khoảng thời gian trong đó hiệu lực của một hợp đồng bảo hiểm có thể được xem xét lại, thông thường là từ 01 đến 02 năm.+ Đối với các hợp đồng bảo hiểm có điều khoản miễn truy xét, các yêu cầu giải quyết quyền lợi bảo hiểm sẽ không bị từ chối sau khi hợp đồng đã tồn tại được một tới hai năm, kể từ ngày bắt đầu bảo hiểm hoặc ngày khôi phục hiệu lực hợp đồng, trừ trường hợp gian lận, không thanh toán phí bảo hiểm hoặc thuộc trường hợp loại trừ.+ Thời gian truy xét và Điều khoản miễn truy xét không bắt buộc mà là thực tiễn áp dụng được các doanh nghiệp bảo hiểm chấp nhận.+ Theo thông lệ trong ngành bảo hiểm của Singapore, nếu doanh nghiệp bảo hiểm chứng minh được bên mua bảo hiểm gian lận, doanh nghiệp bảo hiểm có quyền chấm dứt hợp đồng ngay cả sau “thời gian truy xét”. Nguồn bài viết: https://phapluatdansu.edu.vn/wp-content/uploads/2020/03/PHAN- NGUYEN-DIEP-LAN.pdfTheo: Phan Nguyễn Diệp LanLink tài liệu: https://docs.google.com/document/d/1WhkGiim9taSdnA_QAc0Edfdn2I9Tx1e2/edit