0888889366
Tra cứu thông tin hợp đồng
timeline_post_file64897dd9a2c99-GIẢI-PHÁP-HOÀN-THIỆN-LUẬT-THUẾ-BẢO-VỆ-MÔI-TRƯỜNG-Ở-VIỆT-NAM.jpg.webp

GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN LUẬT THUẾ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG Ở VIỆT NAM

3.1.   Một số giải pháp cụ thể góp phần hoàn thiện pháp luật thuế môi trường nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện ở Việt Nam

Trên cơ sở lý luận về hoàn thiện pháp luật thuế môi trường ở Chương 1, tương ứng với những đánh giá về hiệu quả của pháp luật thuế môi trường ở Chương 2, phần viết sau sẽ đề xuất một số giải pháp cụ thể góp phần hoàn thiện lĩnh vực pháp luật này với mục tiêu nâng cao hiệu quả thực hiện ở Việt Nam.

3.1.1.  Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về nội dung thuế môi trường

3.1.1.1. Đối tượng chịu thuế và người nộp thuế theo Luật Thuế bảo vệ môi trường

Những phân tích và đánh giá ở tiểu mục 2.1.1.1 đã cho thấy, các quy định của Luật Thuế BVMT về đối tượng chịu thuế còn khá hẹp, chưa bao quát hết các sản phẩm gây ô nhiễm, quy định về thẩm quyền của Ủy ban Thường vụ Quốc hội còn chưa phù hợp với Hiến pháp năm 2013. Do vậy, Luật Thuế BVMT năm 2010 cần được sửa đổi, bổ sung để đảm bảo tính toàn diện và tính thống nhất, đồng bộ trong hệ thống pháp luật.

Thứ nhất, cần nghiên cứu rà soát, bổ sung đối tượng chịu thuế BVMT, trước hết là bổ sung các hàng hóa theo thông lệ quốc tế cũng chịu thuế môi trường như: phân bón hóa học, thuốc lá, khí than, khí thiên nhiên.

-   Đối với phân bón hóa học: mức thuế BVMT với phân bón hóa học ngoài việc góp phần hạn chế những tác động có hại đến môi trường và khuyến khích sử dụng hợp lý phân bón trong hoạt động nông nghiệp thì việc quy định mức thu thuế BVMT với sản phẩm này nên bao gồm cả việc tạo ra cơ hội sử dụng NSNN cho nông nghiệp và nông dân. Theo đó, cần thiết quy định khung mức thuế theo hướng một phần số thu từ thuế BVMT đối với phân bón hóa học mà vượt quá chi phí quản lý thuế BVMT đối với sản phẩm này sẽ được phân bổ lại tới hộ gia đình nông dân có sử dụng phương pháp canh tác thân thiện với môi trường hoặc có hành động cụ thể để BVMT.Vì vậy, mức thuế chiếm khoảng 3,5 - 5%/giá bán 1kg phân bón hóa học.

Kinh nghiệm thế giới cho thấy: Bỉ cũng thực hiện thu thuế cho mục đích BVMT đối với phân bón hóa học sử dụng trong nông nghiệp. Mỗi nông dân được

 

giấy phép về việc sử dụng phân bón (mức phân bón được phép sử dụng đối với đất nông nghiệp là 180kg/ha). Nếu sử dụng vượt quá mức cho phép thì phải nộp 1€/phần vượt quá theo quy định. Trường hợp nông dân nào không sử dụng hết mức cho phép trong giấy phép mà người đó chấp hành tốt các quy định về việc sử dụng phân bón thì sẽ được bán quyền sử dụng phân bón đó cho người khác.

-  Đối với thuốc lá: Hiện nay, tỷ lệ thuế (thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế giá trị gia tăng) trên giá bán lẻ thuốc lá hiện hành chỉ chiếm khoảng 44,9%; thấp hơn nhiều nếu so với tỷ lệ thuế trên giá bán lẻ của các nước trong khu vực và trên thế giới. Do đó, cần thiết phải đưa thuốc lá vào diện chịu thuế BVMT. Đề xuất khung thuế BVMT đối với thuốc lá là: 200-500 đồng/điếu thuốc. Với mức đề xuất này, nếu cộng thêm thuế BVMT thì tỷ lệ thuế (thuế BVMT, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế giá trị gia tăng) trên giá bán lẻ thuốc lá từ 51-58%, tương đương với tỷ lệ thuế trên giá bán lẻ thuốc lá của bình quân các nước trong khu vực Đông Nam Á.

-  Đối với khí thiên nhiên, khí than: Mức thuế nên được xây dựng tương đương tỷ lệ 30% giá bán (chưa có thuế giá trị gia tăng).

Về lâu dài, phạm vi đối tượng chịu thuế BVMT cần được mở rộng đối với các hàng hóa khác như: chất tẩy rửa, sơn, pin, ắc quy, điện.

Thứ hai, cần sửa đổi, bổ sung quy định tại khoản 3 Điều 3 Luật thuế BVMT về đối tượng chịu thuế như sau: “Dung dịch hydro-chloro-fluoro-carbon (HCFC), bao gồm cả dung dịch HCFC có trong chất hỗn hợp chứa dung dịch HCFC” để xác định rõ dung dịch HCFC được sản xuất hoặc nhập khẩu dưới dạng chất hỗn hợp cũng thuộc đối tượng chịu thuế BVMT.

Thứ ba, bỏ quy định tại Khoản 9 Điều 3 Luật Thuế BVMT năm 2010: “Trường hợp xét thấy cần thiết phải bổ sung đối tượng chịu thuế khác cho phù hợp với từng thời kỳ thì Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét, quy định”. Xét về khía cạnh lý luận, quy định này chưa phù hợp với quy định về thẩm quyền của Quốc hội và Ủy ban Thường vụ Quốc hội được nêu trong Hiến pháp năm 2013. Xét về mặt thực tiễn, Ủy ban Thường vụ Quốc hội chưa bao giờ “tự” bổ sung đối tượng chịu thuế.

Để đảm bảo tính hợp hiến, tính thống nhất của hệ thống pháp luật, Luật Thuế BVMT hiện hành cần được sửa đổi theo hướng: bãi bỏ những quy định mở rộng thẩm quyền của Ủy ban thường vụ Quốc hội và bổ sung những quy định cụ thể về đối tượng chịu thuế.

3.1.1.2.   Đối tượng chịu thuế và người nộp thuế theo Luật Thuế tài nguyên

Như đã phân tích ở mục 2.1.1.2, quy định về đối tượng chịu thuế và người nộp thuế của Luật Thuế tài nguyên, về cơ bản, đã đảm bảo tương thích với thông lệ quốc tế và phù hợp với điều kiện thực tế của Việt Nam. Tuy nhiên, pháp luật thực định về thuế tài nguyên vẫn còn tồn tại một số bất cập cần được sửa đổi như sau:

Thứ nhất, với những lập luận tương tự như mục 3.2.1.1, cần bỏ quy định tại Khoản 9 Điều 2 Luật Thuế tài nguyên năm 2009: “Tài nguyên khác do Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định”.

Thứ hai, cần thống nhất tên gọi các loại nước thiên nhiên tại Điều 2, Khoản 5 Điều 5 và Điều 8 Luật Thuế tài nguyên năm 2009. Theo đó, nước thiên nhiên bao gồm: Nước khoáng thiên nhiên, nước nóng thiên nhiên, nước thiên nhiên tinh lọc đóng chai, đóng hộp, nước thiên nhiên dùng cho sản xuất thủy điện, nước thiên nhiên dùng cho sản xuất, kinh doanh. Thay cụm từ “nước thiên nhiên dùng cho mục đích công nghiệp” tại Khoản 5 Điều 5 bằng “nước thiên nhiên dùng cho sản xuất kinh doanh”.

Thứ ba, nghiên cứu bổ sung một số loại tài nguyên có giá trị kinh tế cao vào diện đối tượng chịu thuế như: san hô đỏ, đá bazan dạng cột được sử dụng làm đá xây dựng cao cấp.

Thứ tư, để thống nhất giữa Luật Thuế tài nguyên với Luật Khoáng sản, Luật Lâm nghiệp và Luật Tài nguyên nước, tạo cơ chế quản lý thuế có hiệu quả, chống thất thu thuế đối với những trường hợp được phép khai thác nhưng sản lượng khai thác nhỏ lẻ, Điểm c Khoản 2 Điều 3 Luật Thuế tài nguyên cần được sửa đổi. Theo đó, bổ sung thêm cụm từ “được cấp phép khai thác” vào trước đoạn “khai thác nhỏ lẻ”. Khi đó, Điểm c Khoản 2 Điều 3 sửa đổi sẽ là: “Tổ chức, cá nhân được cấp phép khai thác tài nguyên nhỏ, lẻ bán cho tổ chức, cá nhân làm đầu mối thu mua và tổ chức, cá nhân làm đầu mối thu mua cam kết chấp thuận bằng văn bản về việc kê khai, nộp thuế thay cho tổ chức, cá nhân khai thác thì tổ chức, cá nhân làm đầu mối thu mua là người nộp thuế”.

3.1.1.3. Đối tượng chịu thuế và người nộp thuế theo Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt

Với những phân tích ở tiểu mục 2.1.1.3, quy định về đối tượng chịu thuế tiêu

thụ đặc biệt vẫn còn có một số hạn chế, cần sửa đổi, bổ sung những nội dung sau:

Trước hết, đối với xe ô tô chịu thuế tiêu thụ đặc biệt, tham khảo kinh nghiệm quốc tế, cần có những điều chỉnh sâu sắc trong tư duy pháp lý đối với mặt hàng này. Tiêu chí đánh thuế tiêu thụ đặc biệt với xe ô tô không nên căn cứ vào số chỗ ngồi mà chỉ nên dựa trên mức độ tiêu thụ nhiên liệu (tức dung tích xi lanh) của xe. Xe ô tô càng tiêu thụ nhiều năng lượng hóa thạch thì mức thuế càng cao.

Ngoài ra, nhà làm luật cũng nên cân nhắc việc bỏ quy định đánh thuế tiêu thụ đặc biệt đối với xe ô tô chạy bằng điện, ô tô chạy bằng năng lượng sinh học nhằm khuyến khích các phát minh, sáng chế mới trong lĩnh vực giao thông và kích cầu tiêu dùng các sản phẩm thân thiện với môi trường.

Thứ hai, để phù hợp với thông lệ quốc tế, cần bổ sung đối tượng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt là dầu diezel và dầu khí hóa lỏng. Đối với xăng, cần có sự phân biệt về mức thuế tiêu thụ đặc biệt theo hàm lượng lưu huỳnh (hoặc chỉ số octan) của xăng.

3.1.1.4.   Căn cứ tính thuế theo Luật Thuế bảo vệ môi trường

Những phân tích ở mục 2.1.2.1 cho thấy, pháp luật Thuế BVMT hiện hành còn có những hạn chế về biểu khung thuế suất đối với một số hàng hóa. Để khắc phục những hạn chế này, người viết xin đề xuất như sau:

Trước hết, cần quán triệt nguyên tắc “mức thuế BVMT phải được đưa ra trên cơ sở mức độ gây ô nhiễm của hàng hóa chịu thuế”, vì vậy, theo người viết, thuế suất thuế BVMT nên là mức thuế tuyệt đối cố định theo từng loại hàng hóa, không nên quy định mức tối thiểu và mức tối đa. Kiến nghị này nhằm làm tăng tính minh bạch, tính ổn định của Luật Thuế BVMT, tránh mở rộng thẩm quyền của Ủy ban Thường vụ Quốc hội trái với Hiến pháp năm 2013. Hơn nữa, quy định pháp lý hiện hành về thuế suất tối thiểu và tối đa đang chỉ dựa trên lập luận “linh hoạt, dễ điều chỉnh theo điều kiện kinh tế - xã hội”232 mà thiếu các căn cứ khoa học, do vậy, thiếu tính thuyết phục. Các đề xuất tăng thuế BVMT của Bộ Tài chính trong thời gian gần đây thường vấp phải phản ứng dữ dội của dư luận chính là minh chứng rõ ràng nhất cho nhận định này.233 Mức thuế suất thuế BVMT cần được xác định trên cơ sở khảo sát, đánh giá kết quả thực hiện Luật Thuế BVMT trong thời gian từ khi Luật có hiệu lực cho đến nay. Mức thuế phải hợp lý để bảo đảm sự cân bằng giữa những chi phí mà người dân phải bỏ ra để đóng thuế, chi phí quản lý thuế của Nhà nước và lợi ích mà người dân cũng như cộng đồng được hưởng từ việc đánh thuế BVMT.

Thứ hai, quy định mức thuế suất đối với xăng, dầu cần dựa trên hàm lượng lưu huỳnh để phù hợp với mức độ gây ô nhiễm của từng sản phẩm cũng như tương thích với thông lệ quốc tế. Chẳng hạn, đối với xăng có hàm lượng lưu huỳnh trên 10mg/kg thì mức thuế cao hơn xăng có hàm lượng lưu huỳnh dưới 10mg/kg.

Thứ ba, cần xem xét điều chỉnh mức thuế suất đối với than nhằm tăng cường trách nhiệm của người sử dụng sản phẩm này, khuyến khích việc chuyển đổi sang các dạng năng lượng khác thân thiện hơn với môi trường. Theo lẽ thông thường, giá than rẻ hơn giá điện, giá gas thì đương nhiên người dân sẽ “thích” dùng than hơn.

Thứ tư, đối với thuốc bảo vệ thực vật, để thống nhất với Thông tư số 03/2018/TT-BNNPTNT ngày 09/02/2018 của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn ban hành Danh mục thuốc bảo vệ thực vật được phép sử dụng, cấm sử dụng tại Việt Nam (sửa đổi, bổ sung theo Thông tư số 13/2018/TT-BNNPTNT), cần bỏ cụm từ “thuộc loại hạn chế sử dụng” ở Khoản 5, 6, 7, 8 Điều 3 Luật Thuế BVMT năm 2010. Ngoài ra, đối tượng chịu thuế là “thuốc diệt cỏ” quy định tại Khoản 5 Điều 3 Luật Thuế BVMT cần thay bằng “thuốc trừ cỏ” để đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất của pháp luật. Bên cạnh đó, mức thuế suất đối với từng loại thuốc bảo vệ thực vật cần được xác định dựa trên mức độ độc hại, mức độ ảnh hưởng xấu đến môi trường và sức khỏe con người của từng sản phẩm.

Thứ năm, theo ý kiến của nhiều chuyên gia, cách đánh thuế BVMT đối với túi ni lông nên căn cứ vào số lượng túi sẽ có tác dụng BVMT tốt hơn. Cách đánh thuế hiện nay dựa trên khối lượng túi ni lông sẽ khuyến khích sản xuất nhiều túi ni lông loại mỏng vì túi ni lông dày chịu thuế cao hơn, trong khi đó các loại túi ni lông mỏng thì hầu như không thể tái chế, khả năng tái sử dụng cũng thấp. Các loại túi ni lông dày hơn và đựng đồ sạch thì có thể tái sử dụng, tái chế dễ hơn. Tuy nhiên, đánh thuế dựa trên số lượng túi ni lông có nhược điểm là hành thu sẽ khó hơn do các hóa đơn, hợp đồng mua bán túi ni lông đều dựa trên khối lượng, khi tính thuế cần thực hiện thêm một thao tác để quy đổi từ khối lượng sang số lượng túi ni lông.

Bên cạnh đó, nhà làm luật cũng cần điều chỉnh mức thuế BVMT đối với sản phẩm này vì mức thuế hiện hành đang tỏ ra chưa hiệu quả, chưa tương xứng với mức độ gây ô nhiễm môi trường của túi ni lông.Trong Tờ trình dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế BVMT, cơ quan soạn thảo đang đề xuất mức thuế với túi ni lông từ 40.000 đồng đến 200.000 đồng. Về lâu dài, có ý kiến còn cho rằng nên cấm hẳn việc sản xuất túi ni lông không thân thiện với môi trường nhằm khuyến khích sản xuất và tiêu dùng các sản phẩm “xanh” thay thế túi ni lông.236 Người viết cũng tán thành các giải pháp này bởi trên thực tế, số thuế BVMT thu được từ túi ni lông không đủ để bù đắp các chi phí xử lý ô nhiễm môi trường do sản phẩm này gây ra. Hơn nữa, trên thị trường đã có rất nhiều sản phẩm “xanh” thay thế túi ni lông như túi vải, túi giấy.

3.1.1.5.   Căn cứ tính thuế theo Luật Thuế tài nguyên

Như đã phân tích ở tiểu mục 2.1.2.2, quy định của Luật Thuế tài nguyên về căn cứ tính thuế còn có nhiều bất cập, cần phải sửa đổi, bổ sung.

Thứ nhất, cần khắc phục tình trạng thiếu tính ổn định (tương đối) và khả năng dự báo kém của pháp luật thuế tài nguyên. Việc thu thuế tài nguyên được triển khai thực hiện ở nước ta từ năm 1990 theo Pháp lệnh Thuế tài nguyên năm 1990 (sửa đổi, bổ sung năm 1998). Hiện nay, Luật Thuế tài nguyên năm 2009 (sửa đổi, bổ sung năm 2014) đang có hiệu lực thi hành. Như vậy, tính đến thời điểm hiện tại, thuế tài nguyên đã có thời gian thi hành rất dài (gần 20 năm), tuy nhiên, tính toàn diện, tính đồng bộ và kỹ thuật lập pháp của đạo luật này vẫn luôn là vấn đề gây nhiều tranh luận (xem phần trình bày ở tiểu mục 2.1.2.2).Nhà làm luật có lẽ cần “đầu tư” trí tuệ nhiều hơn, lắng nghe và tiếp thu ý kiến người dân, các chuyên gia cũng như cộng đồng doanh nghiệp để xây dựng, hoàn thiện luật thuế tài nguyên, tránh việc sửa đổi, bổ sung chắp vá như hiện nay.

Thứ hai, để đảm bảo sự thống nhất với Luật Điện lực và Luật Hải quan, Điểm a Khoản 3 Điều 6 Luật Thuế tài nguyên cần sửa đổi như sau: giá tính thuế “đối với nước thiên nhiên dùng cho sản xuất thủy điện là giá bán lẻ điện bình quân do Bộ Công thương trình Thủ tướng Chính phủ quyết định”; Điểm c Khoản 3 Điều 6 Luật Thuế tài nguyên cần sửa đổi như sau: giá tính thuế “đối với tài nguyên khai thác không tiêu thụ trong nước mà xuất khẩu là trị giá hải quan của tài nguyên xuất khẩu”.

Thứ ba, cần trừ chi phí sản xuất, chế biến, chi phí xuất khẩu khi xác định giá tính thuế đối với tài nguyên khai thác chưa bán ra ngay mà phải qua sản xuất, chế biến thành sản phẩm tài nguyên mới bán ra (quy định tại Điểm a Khoản 3 Điều 6 Thông tư số 152/2015/TT-BTC) để phù hợp với bản chất của thuế tài nguyên: đánh thuế phải dựa trên giá trị gốc của tài nguyên chưa qua chế biến như thông lệ quốc tế.

Thứ tư, xác định thuế suất thuế tài nguyên đối với khoáng sản cần được cân đối dựa trên việc tổng hợp các khoản thu đối với sản phẩm này. Pháp luật hiện hành quy định các khoản thu sau đối với khoáng sản:

Xét trong tổng thể các khoản thu đối với khoáng sản, như đã trình bày ở mục 2.1.2.2, thuế suất thuế tài nguyên của Việt Nam là khá cao (trừ dầu thô). Nhà làm luật cần nghiên cứu, xem xét điều chỉnh giảm thuế suất thuế tài nguyên đối với khoáng sản (trừ dầu thô).

Thứ năm, kinh nghiệm quốc tế cho thấy, nhiều quốc gia đã xây dựng quỹ riêng để quản lý các khoản thu từ khai thác tài nguyên không tái tạo nhằm hạn chế các cú sốc về biến động giá cả và tạo nguồn lực tài chính cho các thế hệ tương lai, hướng tới phát triển bền vững. Các quốc gia này cũng ban hành các chính sách quy định cụ thể về tỷ lệ dự trữ, phân bổ và sử dụng nguồn thu từ tài nguyên để đầu tư phát triển các ngành sản xuất khác. Tuy nhiên, Việt Nam hiện nay chưa xây dựng một hệ thống quản lý riêng đối với nguồn thu từ khai thác tài nguyên khoáng sản (đặc biệt là đối với dầu khí). Điều này dẫn đến nhiều thách thức trong việc quản lý các biến động về nguồn thu khi giá tài nguyên sụt giảm và khó khăn trong việc xây dựng kế hoạch chi một cách hợp lý và hiệu quả.237

Việt Nam cần nghiên cứu, xem xét việc thành lập Quỹ Tài nguyên để quản lý hiệu quả nguồn thu từ khai thác khoáng sản. Để thực hiện giải pháp này, Luật NSNN năm 2015 cũng cần có những sửa đổi nhằm tạo sự thống nhất giữa pháp luật về NSNN và pháp luật thuế tài nguyên. Khoản 1 Điều 7 Luật NSNN quy định: các khoản thu từ thuế, phí, lệ phí và các khoản thu khác theo quy định pháp luật được tổng hợp đầy đủ vào cân đối NSNN, theo nguyên tắc không gắn với nhiệm vụ chi cụ thể. Do vậy, Luật NSNN cần bổ sung quy định về ngoại lệ đối khoản thu từ khoáng sản. Theo đó, khoản thu này sẽ có nguyên tắc quản lý, phân bổ và sử dụng đặc thù, đảm bảo phát triển bền vững.

3.1.1.6.   Căn cứ tính thuế theo Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt

Quy định của Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt về căn cứ tính thuế, như đã phân tích tại tiểu mục 2.1.2.3, có một số hạn chế cần khắc phục như sau:

Thứ nhất, thuế suất thuế tiêu thụ đặc biệt đối với thuốc lá cần được điều chỉnh tăng để đảm bảo tỷ lệ thuế/ giá bán lẻ thuốc lá tối thiểu là 65% theo khuyến nghị của WB, WHO và xu hướng chung của thế giới. Nếu thuốc lá được đưa vào diện chịu thuế BVMT như đề xuất tại mục 3.2.1.1, thì tỷ lệ thuế/ giá bán lẻ thuốc lá cần cộng thêm cả thuế BVMT.

Thứ hai, thực hiện yêu cầu của Chiến lược cải cách hệ thống thuế giai đoạn 2011 – 2020, để phù hợp với thông lệ quốc tế và bản chất của thuế tiêu thụ đặc biệt, cần nghiên cứu áp dụng thuế suất tuyệt đối. Ngoài ra, với một số mặt hàng, để nâng cao hiệu quả hướng dẫn tiêu dùng, cần áp dụng đồng thời cả thuế suất tỉ lệ và thuế suất tuyệt đối như: thuốc lá. (Xem thêm Phụ lục 5 về thuế tiêu thụ đặc biệt của các nước OECD).

3.1.2.  Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về quản lý thuế môi trường

3.1.2.1.   Pháp luật thuế môi trường về các thủ tục hành chính

Những phân tích và đánh giá ở mục 2.2.1 cho thấy, pháp luật thuế môi trường về các thủ tục hành chính chưa mang lại những kết quả tích cực xét về khía cạnh BVMT, về tính hiệu quả kinh tế, về tính đơn giản và tính ổn định (tương đối). Để khắc phục những hạn chế này, người viết xin kiến nghị một số giải pháp sau:

Thứ nhất, cần tăng cường công tác quản lý thu thuế BVMT đối với túi ni lông, thuốc bảo vệ thực vật và dung dịch HCFC. Trên thị trường, các sản phẩm này chủ yếu do các hộ gia đình sản xuất, kinh doanh nhưng việc khoán thuế đối với chủ thể này đang tồn tại nhiều bất cập (đã phân tích ở mục 2.2.1). Luật Quản lý thuế năm 2019 đã có những sửa đổi quan trọng nhằm khắc phục hạn chế này, cụ thể là:

i)  Phân loại hộ kinh doanh quy mô lớn để áp dụng hình thức quản lý thuế phù hợp như áp dụng chế độ kế toán đơn giản tương ứng với doanh nghiệp nhỏ, siêu nhỏ; áp dụng chế độ hóa đơn điện tử, khai thuế điện tử, nộp thuế điện tử. Theo đại diện Tổng cục Thuế, mục tiêu của việc làm này là hạn chế tối đa sự lợi dụng mô hình hộ kinh doanh nhằm mục đích trốn thuế, tạo khuôn khổ pháp lý về thuế thúc đẩy hộ kinh doanh quy mô lớn chuyển đổi thành doanh nghiệp.

ii)   Phân loại hộ kinh doanh trong lĩnh vực dịch vụ có giao dịch thanh toán bằng tiền mặt với người tiêu dùng để áp dụng các biện pháp không dùng tiền mặt trong giao dịch kinh doanh bán lẻ, nhà hàng, cửa hàng dịch vụ ăn uống, dịch vụ vui chơi giải trí...Trên cơ sở đó, có biện pháp quản lý đối với việc bán hàng phải xuất hoá đơn, hoặc thanh toán không dùng tiền mặt nhằm đẩy mạnh sử dụng hoá đơn điện tử, kết nối thông tin doanh thu bán hàng thông qua máy tính tiền hoặc các thiết bị chấp nhận thẻ thanh toán.

iii) Phân loại hộ kinh doanh quy mô nhỏ để áp dụng hình thức thuế khoán, tăng cường tính minh bạch, tăng cường vai trò, trách nhiệm của chính quyền địa phương và các tổ chức có liên quan trên địa bàn. Tổng cục Thuế cho rằng, mục đích của việc làm này nhằm hạn chế tối đa việc khoán thuế không sát thực tế, hạn chế tối đa việc phát sinh thỏa thuận ngầm giữa hộ kinh doanh và cán bộ thuế gây bất bình trong xã hội.

Ngoài ra, Bộ Tài chính cũng đề xuất xây dựng giải pháp quay xổ số hoá đơn nhằm khuyến khích tổ chức, cá nhân tham gia giám sát doanh thu kinh doanh của người nộp thuế (bao gồm cả doanh nghiệp và hộ kinh doanh) đảm bảo người nộp thuế kê khai doanh thu đúng thực tế. Theo đó, hóa đơn mua sắm của người dân sẽ được xổ số định kỳ. Xổ số hóa đơn sẽ khuyến khích người mua lấy hóa đơn nên bắt buộc người bán phải xuất, thất thoát thuế sẽ được hạn chế.

Những giải pháp trên là phù hợp với bối cảnh số lượng hộ kinh doanh đang ngày càng tăng nhanh và đóng góp tỉ lệ không nhỏ trong GDP. Việc phân loại hộ kinh doanh cần dựa trên tiêu chí định lượng rõ ràng như: số lượng lao động được sử dụng, lượng điện năng, lượng nước tiêu thụ trong tháng/ quý. Đối với hộ kinh doanh nhỏ, thuế khoán phải bao gồm cả thuế BVMT.

Thứ hai, Việt Nam có thể đẩy mạnh giảm phát thải GHG ở tất cả các lĩnh vực phát thải, bao gồm sử dụng đất, thay đổi sử dụng đất và lâm nghiệp (LULUCF), nông nghiệp, chất thải và sản xuất công nghiệp, đặc biệt là trong sản xuất và tiêu dùng năng lượng. Phát thải GHG từ sản xuất và tiêu dùng năng lượng chiếm phần lớn lượng phát thải hiện tại và tương lai của Việt Nam, lượng phát thải này tăng gấp bốn lần trong giai đoạn từ năm 2010 đến năm 2030 về mặt con số tuyệt đối và chiếm 86% tổng lượng phát thải ròng vào năm 2030 theo kịch bản thông thường (viết tắt là BAU).

Phân tích kinh tế vĩ mô cho thấy việc tăng tham vọng giảm phát thải GHG bên ngoài Đóng góp do quốc gia tự quyết định (viết tắt là NDC239) hiện tại có thể làm cho GDP của Việt Nam tăng nhanh hơn; tạo ra các công việc xanh và sạch mới; và gia tăng các mặt hàng xuất khẩu nhờ hiện đại hóa công nghệ và nâng cao hiệu suất. Điều này đòi hỏi Việt Nam phải sử dụng các cơ hội và định hướng cho việc mở rộng năng lượng tái tạo (viết tắt là RE) và tăng hiệu quả năng lượng (viết tắt là EE). Các tác động đối với lạm phát từ việc tăng giá năng lượng ban đầu có thể sẽ không đáng kể và giá năng lượng có thể sẽ thấp hơn trong trung và dài hạn so với BAU. Việc chuyển đổi năng lượng sẽ không chỉ giúp đạt được tham vọng giảm phát thải cao mà còn giảm sự phụ thuộc vào thị trường nhiên liệu hóa thạch và vận tải quốc tế, đồng thời tăng cường an ninh năng lượng quốc gia.

EE của Việt Nam trên mỗi đơn vị GDP hiện tương đối thấp. Tuy nhiên, có thể cải thiện hướng tới chi phí thấp trong EE, giúp giảm chi tiêu của các ngành công nghiệp và người tiêu dùng. Trong những năm đầu chuyển đổi năng lượng, giá năng lượng có thể tăng ở mức khiêm tốn 15-20% nếu áp thuế carbon để tính chi phí ngoại biên trong việc sử dụng nhiên liệu hóa thạch và loại bỏ tất cả các hỗ trợ gián tiếp đối với việc sử dụng nhiên liệu hóa thạch. Giá cao hơn sẽ là động lực chính để đầu tư nhiều hơn vào EE cũng như RE. Bên cạnh đó, cần có các biện pháp hỗ trợ các doanh nghiệp đối phó với mức giá cao hơn và cải thiện EE. Giá năng lượng tăng cũng sẽ tác động đến các nhóm thu nhập thấp, vì vậy cần có các cơ chế hỗ trợ, đặc biệt là giá bán lẻ điện lũy tiến. Trong trung đến dài hạn, cải thiện EE, giảm nhập khẩu nhiên liệu và chi phí RE thấp hơn sẽ giúp giảm chi phí điện năng tại Việt Nam.

Thứ ba, để cải thiện khả năng dự báo số thu thuế tiềm năng ở Việt Nam, các tác giả Gangadha Prasad Shukla, Phạm Minh Đức, Michael Engelschalk, Lê Minh Tuấn (2011) đề xuất 3 bước chính liên quan tới công tác dự báo số thu thuế ở Việt Nam là: củng cố cơ sở dữ liệu với những dữ liệu về số thu từ thuế và kinh tế; đào tạo đội ngũ cán bộ của Vụ Dự toán tính thu nhập thuế, Tổng Cục Thuế; và xây dựng những mô hình dự báo thực sự. Hai bước đầu tiên có thể diễn ra song song trong khi bước thứ 3 nên được thực hiện sau khi 2 bước trên đã hoàn tất.Cũng cần lưu ý là những mô hình này có thể được sử dụng để dự báo số thu từ thuế ở cấp tỉnh hay cấp huyện, xã miễn là những dữ liệu đó đều có sẵn cho từng tỉnh hoặc huyện, xã.

Bước 1: Tăng cường cơ sở dữ liệu

Trong bước đầu tiên này, Tổng Cục Thuế nên giao việc xây dựng cơ sở dữ liệu cho một nhóm các cán bộ trong Vụ dự toán tính số thu từ thuế. Những cán bộ này sẽ rà soát một cách có hệ thống những dữ liệu có sẵn tại các bộ phận phòng ban của Tổng Cục Thuế, ban thống kê (thuộc Bộ kế hoạch và Đầu tư), Ngân hàng Trung ương, các phòng thương mại và công nghiệp, các viện nghiên cứu…, và nên thu thập những dữ liệu có liên quan theo định dạngđiện tử.

Trong khi bài toán xây dựng mô hình có thể được khởi động ngay khi cơ sở dữ liệu đang trong quá trình xây dựng và rà soát thì cũng cần nhấn mạnh rằng độ rộng, độ sâu và tính liên kết của những dữ liệu này sẽ quyết định chất lượng cuối cùng của các mô hình và kết quả của chúng.Do vậy đây là bài toán rất quan trọng và nên được khởi động đầu tiên và nên được thực hiện tỉ mỉ, thận trọng.

Bước 2: Đào tạo nhân sự

Công tác đào tạo cán bộ bao gồm sự kết hợp chặt chẽ giữa lí thuyết và ứng dụng (bài tập, các trường hợp nghiên cứu tình huống, thuyết trình) và phải rất thực tế. Nhìn chung, nên dành nửa thời gian để giảng giải lý thuyết, các quy định và dẫn chứng, nửa thời gian còn lại nên dành cho những bài tập thực hành và ứng dụng trên máy.

Các cán bộ của Tổng Cục Thuế cần được đào tạo theo 2 hình thức: (1) Đào tạo về mặt công cụ nên tập trung gồm cả lĩnh vực toán kinh tế như e-views, STATA, những công cụ tính toán phức tạp trong Excel bao gồm việc viết các macro đơn giản những khái niệm vĩ mô đơn giản và những quy tắc căn bản của kinh tế vi mô- vĩ mô được sử dụng trong phân tích việc chính sách thuế và dự báo tính số thu từ thuế; (2) Những môn học chủ yếu bao gồm Thuế Trong Kinh tế học (phân tích chính sách thuế) và những kĩ thuật dự báo tính số thu từ thuế.

Bước 3: Xây dựng mô hình dự báo số thu thuế

Nhiệm vụ thực sự của xây dựng mô hình có thể được thực hiện sau khi công tác đào tạo cán bộ và chuẩn bị cơ sở dữ liệu được hoàn tất. Việc xây dựng những mô hình vĩ mô, yêu cầu ước tính vốn liên quan tới việc tính toán những chỉ số co giãn thuế trên nền tảng một bộ dữ liệu sạch về thuế và dữ liệu vĩ mô, có thể được khởi động sớm hơn nếu những dữ liệu này đã sẵn sàng. Công việc cho xây dựng mô hình tính toán số thu hàng tháng cũng tương tự như vậy.

Quá trình này nên được hoàn tất theo từng phương pháp một (vĩ mô trước, vi mô sau) và theo từng loại thuế và trong từng giai đoạn.

Khung thời gian

Nếu được thực hiện và tổ chức một cách có hệ thống thì toàn bộ quá trình được miêu tả trên đây chỉ mất 18 đến 24 tháng để thực hiện. Khi những mô hình này đã sẵn sàng nên kiểm tra lại để chỉnh sửa bất kỳ tính năng nào nhằm phục vụ cho công tác dự tính. Cũng cần lưu ý là bước đầu tiên của những mô hình dự báo nên trả lời cho câu hỏi “cái gì (xảy ra) nếu” và một khi chúng đưa ra một loạt con số tính toán thu nhập thuế bị giảm dần thì quá trình đó chưa thể hoàn tất được. Cần ít nhất thêm hai năm nữa trước khi cơ sở dữ liệu hoàn tất và sạch, cũng như các mô hình được chỉnh sửa đầy đủ. Tuy nhiên đây là một phần của quá trình xây dựng mô hình thông thường ở bất kỳ quốc gia nào chứ không phải xảy ra duy nhất ở Việt Nam; mỗi nước đều phải (hoặc đã) trải qua một lộ trình giống như vậy.241

Thứ tư, để thực sự cắt giảm chi phí quản lý thuế, theo người viết, có lẽ không chỉ dừng lại ở việc sáp nhập các chi cục thuế như cách làm hiện nay của Bộ Tài chính. Nhà làm luật cũng nên nghiên cứu phương thức quản lý thuế tiên tiến của các quốc gia trên thế giới. Nhiều nước không tách riêng ba chức năng: quản lý thuế, hải quan, bảo hiểm xã hội cho ba cơ quan khác nhau mà chỉ tập trung vào một đầu mối duy nhất (ví dụ: HM Revenue and Customs ở Vương quốc Anh). Cách làm này vừa tinh gọn bộ máy, vừa đảm bảo sự quản lý tập trung, thống nhất các khoản thu của ngân khố quốc gia, đồng thời cũng dựa trên cơ sở khoa học: căn cứ tính các khoản thu này đều là thu nhập của người đóng thuế/ bảo hiểm, hoặc là số lượng, giá trị hàng hóa, dịch vụ. Việc tập trung quản lý các khoản thu bắt buộc này cũng giúp tăng cường tính liên thông, liên kết của hệ thống thông tin.

Ngoài ra, Quyết định số 13/2016/QĐ-TTg cũng cần được cân nhắc sửa đổi. Quy định: kinh phí bảo đảm hoạt động của Tổng cục Thuế là 1,8% dự toán thu NSNN, của Tổng cục Hải quan là 2,1% dự toán thu NSNN liệu có thực sự cần thiết?Như đã phân tích tại tiểu mục 1.2.3.3, người viết cũng tán thành việc xây dựng chính sách đặc thù đối với cán bộ quản lý thuế, tuy nhiên, việc ấn định kinh phí quản lý thuế là một tỉ lệ trên dự toán thu NSNN thì không có căn cứ khoa học nên thiếu tính thuyết phục và không phù hợp với thông lệ quốc tế. Quy định này sẽ tạo “động lực” cho cơ quan quản lý thuế tìm mọi cách “tiêu” hết số kinh phí được khoán mà nhiều khi những cán bộ trực tiếp làm công tác hành thu thuế lại không được hưởng hoặc hưởng không xứng đáng với công lao. Vì vậy, chính sách đặc thù nên áp dụng trực tiếp đối với cán bộ quản lý thuế, ví dụ: lương, phụ cấp của cán bộ thuế gấp ba hoặc bốn lần lương của công chức ngành khác.

Thứ năm, để giảm chi phí tuân thủ pháp luật cho các doanh nghiệp, bảo đảm đạt được mục tiêu nâng xếp hạng chỉ số B1 của Việt Nam, góp phần cải thiện năng lực cạnh tranh theo chỉ số năng lực cạnh tranh toàn cầu 4.0 (theo GCI 4.0), theo hướng dẫn của Bộ Tư pháp, trước mắt cần tập trung thực hiện ngay một số nhiệm vụ, giải pháp về xây dựng, hoàn thiện thể chế và tổ chức thi hành pháp luật, cụ thể:

i)   Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện thể chế để giảm chi phí tuân thủ pháp luật, cần đánh giá đúng, thực chất gánh nặng chi phí tuân thủ pháp luật mà các doanh nghiệp đã, đang và sẽ tiếp tục gặp phải trong quá trình thực hiện, chấp hành các quy định pháp luật, qua đó, tiếp tục khẩn trương thực hiện rà soát, đề xuất sửa đổi, bổ sung các quy định không rõ ràng, không cụ thể, không khả thi, cản trở điều kiện đầu tư kinh doanh, gây khó khăn, phiền hà cho doanh nghiệp, thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả Nghị quyết số 139/NQ-CP ngày 09 tháng 11 năm 2018 của Chính phủ ban hành Chương trình hành động cắt giảm chi phí cho doanh nghiệp; Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 01 tháng 01 năm 2018 và Nghị quyết số 02/NQ-CP ngày 01 tháng 01 năm 2019. Các cơ quan tư pháp địa phương tiếp tục nâng cao chất lượng thẩm định trong hoạt động ban hành văn bản quy phạm pháp luật, đảm bảo không có các quy định mới chứa đựng các yêu cầu không cần thiết, bất hợp lý, cản trở điều kiện đầu tư kinh doanh của các doanh nghiệp, đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ, khả thi, giảm thiểu chi phí tuân thủ pháp luật trong các văn bản quy phạm pháp luật được sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới.

Thực hiện rà soát, đánh giá toàn bộ các quy định về phí, lệ phí mà các doanh nghiệp đang phải gánh chịu, kiến nghị sửa đổi, bổ sung theo thẩm quyền hoặc đề xuất cấp có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung cho phù hợp. Tạo sự liên thông giữa hoạt động xây dựng, hoàn thiện pháp luật với hoạt động tổ chức thực thi pháp luật, theo đó, thường xuyên, kịp thời phối hợp trong nắm bắt, tổng hợp các quy định của pháp luật có nội dung chưa rõ, khó hiểu, mâu thuẫn, chồng chéo hoặc thiếu khả thi, đồng thời, rà soát tổng hợp các quy định pháp luật không rõ ràng, thiếu tính minh bạch, khó tuân thủ, bất hợp lý để sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ theo thẩm quyền hoặc đề nghị cấp có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ.

ii) Thực hiện cập nhật kịp thời, đầy đủ và thường xuyên tuyên truyền, phổ biến các quy định pháp luật cho cán bộ, công chức, viên chức và cộng đồng doanh nghiệp, trong đó chú trọng tuyên truyền các quy định mới, để các doanh nghiệp nắm được các quy định mới của các văn bản pháp luật về điều kiện đầu tư kinh doanh, quyền và nghĩa vụ của cơ quan nhà nước và của doanh nghiệp để ngoài việc kiến nghị, đề xuất cơ quan, tổ chức có thẩm quyền bảo vệ, doanh nghiệp còn tự bảo vệ mình trước các hành vi tiêu cực, nhũng nhiễu; phát động trong các doanh nghiệp thống nhất nhận thức, thái độ hành xử kiên quyết không “lót tay” cho cán bộ, công chức, viên chức, không chấp nhận chi những khoản chi phí “bôi trơn” để được hưởng những lợi ích, nhưng “ưu tiên” ngoài quy định của pháp luật. Xây dựng, phát hành, tổ chức hướng dẫn sử dụng các tài liệu về tuân thủ các quy định pháp luật liên quan đến điều kiện đầu tư kinh doanh trong phạm vi trách nhiệm, quyền hạn của ngành, địa phương mình.

iii)Thường xuyên tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ, công chức, viên chức thuộc thẩm quyền quản lý; tổ chức tập huấn, bồi dưỡng, hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp.

iv)Tiếp nhận và xử lý kịp thời các kiến nghị, phản ánh của doanh nghiệp, thực hiện thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, xử lý kỷ luật và khen thưởng trong tổ chức thực thi và tuân thủ pháp luật. Bằng các hình thức đa dạng, linh hoạt để tiếp nhận, xử lý, giải quyết kịp thời, công khai, công bằng, nhanh chóng, khách quan, đúng thẩm quyền kiến nghị, phản ánh của doanh nghiệp; chủ động tổ chức đối thoại với doanh nghiệp. Thiết lập kênh thông tin đa dạng, thuận lợi, bảo mật thông tin về tổ chức, cá nhân khiếu nại, tố cáo để doanh nghiệp tự giác, kịp thời khiếu nại, tố cáo về những hành vi nhũng nhiễu, tiêu cực của cán bộ, công chức, viên chức trong thực thi pháp luật. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra công vụ. Thực hiện nghiêm Chỉ thị số 20/CT-TTg ngày 17 tháng 5 năm 2017 của Thủ tướng Chính phủ về việc chấn chỉnh hoạt động thanh tra, kiểm tra đối với doanh nghiệp.

v)  Tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, thực hiện nghiêm việc công khai các thủ tục hành chính, cập nhật thường xuyên, kịp thời các thủ tục hành chính, đặc biệt là các thủ tục hành chính về điều kiện đầu tư kinh doanh trên Cổng, trang thông tin điện tử, niêm yết tại trụ sở cơ quan nhà nước, tại nơi tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả, tại nơi làm việc của các hiệp hội, địa điểm sinh hoạt cộng đồng doanh nghiệp bảo đảm thuận tiện cho việc tìm hiểu, tra cứu, cập nhật thông tin đối với doanh nghiệp. Cải tiến quy trình giải quyết các thủ tục hành chính; rút ngắn thời gian giải quyết hồ sơ, thủ tục hành chính. Tiếp tục thực hiện và đẩy mạnh cung cấp dịch vụ công trực tuyến, tăng tỷ lệ cung cấp dịch vụ công trực tuyến mức độ 3,4; đẩy mạnh phương thức tiếp nhận hồ sơ, trả kết quả giải quyết thủ tục hành chính qua dịch vụ bưu chính công ích. Không tự đặt thêm điều kiện đầu tư kinh doanh trái quy định của pháp luật. Tăng cường, thúc đẩy chia sẽ dữ liệu, tăng cường phối hợp trong nội bộ ngành, địa phương mình và giữa các ngành, địa phương; Thường xuyên quan tâm, chú trọng hơn nữa đến công tác phối hợp giữa các đơn vị hữu quan trong xây dựng, hoàn thiện thể chế và tổ chức thực thi pháp luật, bảo đảm sự chính xác, thống nhất, đồng bộ, khả thi, hiệu quả trong quy định của các văn bản pháp luật và trong thực tiễn thi hành pháp luật hành đối với các doanh nghiệp.

Thứ sáu, cũng như nhiều lĩnh vực pháp luật khác, pháp luật quản lý thuế cần tăng cường tính ổn định và tính minh bạch, cải thiện tình trạng văn bản pháp lý thường xuyên thay đổi.

3.1.2.2. Các quy định về giám sát và bảo đảm tuân thủ pháp luật thuế môi trường

Những phân tích ở mục 2.2.2 cho thấy, pháp luật điều chỉnh hoạt động giám sát và bảo đảm sự tuân thủ thuế môi trường còn có một số bất cập, cần được hoàn thiện.

Thứ nhất, cần bổ sung các quy định cụ thể về cơ chế phối hợp giữa cơ quan thuế và cơ quan tài nguyên môi trường trong xác định sản lượng tài nguyên tính thuế. Cơ chế này cần làm rõ thêm các vấn đề sau: (i) Cách thức phối hợp kiểm tra thực địa tại khai trường; (ii) trình tự thủ tục để cơ quan tài nguyên môi trường thực hiện các biện pháp nghiệp vụ nhằm xác định sản lượng khai thác thực tế của doanh nghiệp khai khoáng.

Thứ hai, bổ sung cơ chế phối hợp cụ thể để xác định trách nhiệm chủ trì, trách nhiệm phối hợp, cách thức phối hợp của cơ quan chủ trì và trách nhiệm người đứng đầu có liên quan trong quản lý thuế tài nguyên nói riêng và quản lý hoạt động khai thác tài nguyên nói chung.

Thứ ba, cần nghiên cứu cơ chế pháp luật và cơ chế tài chính nhằm tăng cường ứng dụng công nghệ hiện đại để giám sát, xác định đúng sản lượng tài nguyên được khai thác. Chẳng hạn, nên xem xét triển khai mở rộng sáng kiến của Cục thuế Thanh Hóa lắp đặt camera giám sát tại các mỏ trọng điểm.

Thứ tư, tăng cường vai trò của chính quyền địa phương trong quản lý thu đối với khai thác tài nguyên thông qua xác lập trách nhiệm của người đứng đầu địa phương trong quản lý tài nguyên. Địa phương nào để xảy ra khai thác lậu, trốn thuế thì phải làm rõ trách nhiệm và phải xử lý kỷ luật người đứng đầu; tùy theo từng trường hợp mà xử lý trách nhiệm liên đới hoặc trách nhiệm chính.242

Thứ năm, Việt Nam cần sớm tham gia Sáng kiến minh bạch trong công nghiệp khai thác (EITI).

EITI được cựu Thủ tướng Anh Tony Blair đề xuất lần đầu tiên tại Hội nghị Thượng đỉnh về phát triển bền vững ở Johannesburg (Nam Phi) vào năm 2002. Sáng kiến có mục tiêu thúc đẩy minh bạch, trách nhiệm giải trình và quản trị tốt công nghiệp khai thác trong bối cảnh nhiều quốc gia đang phải đối mặt với những thách thức trong quản lý tài nguyên thiên nhiên. Sau hơn 15 năm đề xuất áp dụng, tính đến nay, trên thế giới đã có 52 quốc gia đăng ký thực thi EITI. Trong khu vực ASEAN có bốn quốc gia đã tham gia EITI gồm Indonesia, Phillipines, Timor Leste và Myanmar. Trong 52 quốc gia cam kết thực thi EITI, có 37 quốc gia được công nhận là đã tuân thủ đầy đủ các yêu cầu của EITI.

Nguyên tắc chung của EITI là đảm bảo sự tham gia đầy đủ và hiệu quả của các bên liên quan bao gồm Nhà nước, doanh nghiệp và cộng đồng trong quản trị công nghiệp khai thác. Theo đó, một số thông tin liên quan đến công nghiệp khai thác phải được công khai dưới sự giám sát của hội đồng các bên liên quan bao gồm Nhà nước, doanh nghiệp và xã hội dân sự. Theo yêu cầu của EITI cơ bản (Bộ tiêu chuẩn EITI 2011), chính phủ phải công khai các khoản thu từ doanh nghiệp khai khoáng và doanh nghiệp phải công khai các khoản đã nộp cho chính phủ dưới sự giám sát của hội đồng các bên liên quan. Do nội dung mới chủ yếu tập trung ở các số liệu về các khoản thu và nộp từ hoạt động khai thác tài nguyên, EITI 2011 còn bộc lộ nhiều hạn chế như không giải quyết được các vấn đề liên quan đến quá trình cấp phép, quản lý hoạt động khai thác, phân bổ nguồn thu và đưa ra những gợi ý cải thiện chính sách. EITI 2011 đã được thay thế bởi EITI 2013, EITI 2016. Mới đây nhất, Bộ tiêu chuẩn EITI 2019 đã được phát hành ở Hội nghị toàn cầu Paris ngày 18/6/2019. EITI 2019 đặt ra 7 yêu cầu chính, bao gồm: (i) Giám sát bởi các bên liên quan; (ii) Cơ chế pháp lý và thể chế, bao gồm hợp đồng và cấp phép; (iii) Khai thác và sản lượng; (iv) Quản lý nguồn thu; (v) Phân bổ nguồn thu; (vi) Chi tiêu kinh tế và xã hội và (vii) Kết quả và tác động. Trong mỗi nội dung trên, EITI 2019 đưa ra yêu cầu về các thông tin cụ thể cần được công khai.

Đối với các nước thành viên, EITI hứa hẹn cải thiện môi trường đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư và các tập đoàn tài chính. EITI cũng hỗ trợ trong việc tăng cường trách nhiệm giải trình và quản lý tài chính trong khai thác khoáng sản, đồng thời giúp quốc gia đó củng cố sự ổn định về kinh tế và chính trị, góp phần ngăn chặn các cuộc xung đột trong ngành dầu khí và khai khoáng.

Đối với các công ty và nhà đầu tư, EITI góp phần giảm nhẹ những rủi ro do yếu tố chính trị. Sự bất ổn về chính trị do sự quản lý yếu kém là một mối đe dọa đối với các nhà đầu tư trong khi ngành công nghiệp khai khoáng có đặc điểm đòi hỏi vốn đầu tư lớn và sự ổn định lâu dài. Khi có EITI, các công ty và nhà đầu tư sẽ được đảm bảo hoạt động trong một môi trường kinh doanh ổn định hơn.

Ngoài ra, EITI cũng đóng vai trò cung cấp thông tin cho cộng đồng về tình trạng thu chi và sự quản lý của chính phủ trong sử dụng tài nguyên quốc gia, giúp người dân đánh giá tính hợp lý của những hoạt động này.

Đến nay, Việt Nam chưa tham gia thành viên EITI nhưng về lâu dài, chúng ta cần tham khảo và cân nhắc việc tham gia sáng kiến này. Đây là một cơ chế mang ý nghĩa lớn đối với các quốc gia nghèo nhưng giàu tài nguyên như nước ta.

Kết luận chương 3

Từ việc nghiên cứu phương hướng hoàn thiện pháp luật thuế môi trường nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện ở Việt Nam, có thể rút ra một số kết luận sau:

1.  Bên cạnh việc đáp ứng những yêu cầu về mặt lý luận đã được phân tích ở Chương 1, việc hoàn thiện pháp luật thuế môi trường còn phải đảm bảo thực hiện Chiến lược cải cách hệ thống thuế giai đoạn 2011 – 2020, Chiến lược phát triển bền vững Việt Nam thời kỳ 2011 – 2020, Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh, Chiến lược khoáng sản đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030.

Quy định về đối tượng chịu thuế và người nộp thuế môi trường cần được sửa đổi, bổ sung.Đối với thuế BVMT: cần nghiên cứu mở rộng phạm vi các hàng hóa thuộc diện chịu thuế; quy định cụ thể hơn về dung dịch HCFC; bỏ quy định về thẩm quyền của Ủy ban Thường vụ Quốc hội được bổ sung đối tượng chịu thuế. Đối với thuế tài nguyên: thống nhất tên gọi các loại nước thiên nhiên trong Luật Thuế tài nguyên; bổ sung một số loại tài nguyên

Theo: Đặng Kim Phương

Link luận án: 

https://docs.google.com/document/d/1q-aent9cpfrvKBz4a6TD8qMIp5g6srw2/edit

avatar
Đặng Quỳnh
451 ngày trước
GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN LUẬT THUẾ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG Ở VIỆT NAM
3.1.   Một số giải pháp cụ thể góp phần hoàn thiện pháp luật thuế môi trường nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện ở Việt NamTrên cơ sở lý luận về hoàn thiện pháp luật thuế môi trường ở Chương 1, tương ứng với những đánh giá về hiệu quả của pháp luật thuế môi trường ở Chương 2, phần viết sau sẽ đề xuất một số giải pháp cụ thể góp phần hoàn thiện lĩnh vực pháp luật này với mục tiêu nâng cao hiệu quả thực hiện ở Việt Nam.3.1.1.  Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về nội dung thuế môi trường3.1.1.1. Đối tượng chịu thuế và người nộp thuế theo Luật Thuế bảo vệ môi trườngNhững phân tích và đánh giá ở tiểu mục 2.1.1.1 đã cho thấy, các quy định của Luật Thuế BVMT về đối tượng chịu thuế còn khá hẹp, chưa bao quát hết các sản phẩm gây ô nhiễm, quy định về thẩm quyền của Ủy ban Thường vụ Quốc hội còn chưa phù hợp với Hiến pháp năm 2013. Do vậy, Luật Thuế BVMT năm 2010 cần được sửa đổi, bổ sung để đảm bảo tính toàn diện và tính thống nhất, đồng bộ trong hệ thống pháp luật.Thứ nhất, cần nghiên cứu rà soát, bổ sung đối tượng chịu thuế BVMT, trước hết là bổ sung các hàng hóa theo thông lệ quốc tế cũng chịu thuế môi trường như: phân bón hóa học, thuốc lá, khí than, khí thiên nhiên.-   Đối với phân bón hóa học: mức thuế BVMT với phân bón hóa học ngoài việc góp phần hạn chế những tác động có hại đến môi trường và khuyến khích sử dụng hợp lý phân bón trong hoạt động nông nghiệp thì việc quy định mức thu thuế BVMT với sản phẩm này nên bao gồm cả việc tạo ra cơ hội sử dụng NSNN cho nông nghiệp và nông dân. Theo đó, cần thiết quy định khung mức thuế theo hướng một phần số thu từ thuế BVMT đối với phân bón hóa học mà vượt quá chi phí quản lý thuế BVMT đối với sản phẩm này sẽ được phân bổ lại tới hộ gia đình nông dân có sử dụng phương pháp canh tác thân thiện với môi trường hoặc có hành động cụ thể để BVMT.Vì vậy, mức thuế chiếm khoảng 3,5 - 5%/giá bán 1kg phân bón hóa học.Kinh nghiệm thế giới cho thấy: Bỉ cũng thực hiện thu thuế cho mục đích BVMT đối với phân bón hóa học sử dụng trong nông nghiệp. Mỗi nông dân được giấy phép về việc sử dụng phân bón (mức phân bón được phép sử dụng đối với đất nông nghiệp là 180kg/ha). Nếu sử dụng vượt quá mức cho phép thì phải nộp 1€/phần vượt quá theo quy định. Trường hợp nông dân nào không sử dụng hết mức cho phép trong giấy phép mà người đó chấp hành tốt các quy định về việc sử dụng phân bón thì sẽ được bán quyền sử dụng phân bón đó cho người khác.-  Đối với thuốc lá: Hiện nay, tỷ lệ thuế (thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế giá trị gia tăng) trên giá bán lẻ thuốc lá hiện hành chỉ chiếm khoảng 44,9%; thấp hơn nhiều nếu so với tỷ lệ thuế trên giá bán lẻ của các nước trong khu vực và trên thế giới. Do đó, cần thiết phải đưa thuốc lá vào diện chịu thuế BVMT. Đề xuất khung thuế BVMT đối với thuốc lá là: 200-500 đồng/điếu thuốc. Với mức đề xuất này, nếu cộng thêm thuế BVMT thì tỷ lệ thuế (thuế BVMT, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế giá trị gia tăng) trên giá bán lẻ thuốc lá từ 51-58%, tương đương với tỷ lệ thuế trên giá bán lẻ thuốc lá của bình quân các nước trong khu vực Đông Nam Á.-  Đối với khí thiên nhiên, khí than: Mức thuế nên được xây dựng tương đương tỷ lệ 30% giá bán (chưa có thuế giá trị gia tăng).Về lâu dài, phạm vi đối tượng chịu thuế BVMT cần được mở rộng đối với các hàng hóa khác như: chất tẩy rửa, sơn, pin, ắc quy, điện.Thứ hai, cần sửa đổi, bổ sung quy định tại khoản 3 Điều 3 Luật thuế BVMT về đối tượng chịu thuế như sau: “Dung dịch hydro-chloro-fluoro-carbon (HCFC), bao gồm cả dung dịch HCFC có trong chất hỗn hợp chứa dung dịch HCFC” để xác định rõ dung dịch HCFC được sản xuất hoặc nhập khẩu dưới dạng chất hỗn hợp cũng thuộc đối tượng chịu thuế BVMT.Thứ ba, bỏ quy định tại Khoản 9 Điều 3 Luật Thuế BVMT năm 2010: “Trường hợp xét thấy cần thiết phải bổ sung đối tượng chịu thuế khác cho phù hợp với từng thời kỳ thì Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét, quy định”. Xét về khía cạnh lý luận, quy định này chưa phù hợp với quy định về thẩm quyền của Quốc hội và Ủy ban Thường vụ Quốc hội được nêu trong Hiến pháp năm 2013. Xét về mặt thực tiễn, Ủy ban Thường vụ Quốc hội chưa bao giờ “tự” bổ sung đối tượng chịu thuế.Để đảm bảo tính hợp hiến, tính thống nhất của hệ thống pháp luật, Luật Thuế BVMT hiện hành cần được sửa đổi theo hướng: bãi bỏ những quy định mở rộng thẩm quyền của Ủy ban thường vụ Quốc hội và bổ sung những quy định cụ thể về đối tượng chịu thuế.3.1.1.2.   Đối tượng chịu thuế và người nộp thuế theo Luật Thuế tài nguyênNhư đã phân tích ở mục 2.1.1.2, quy định về đối tượng chịu thuế và người nộp thuế của Luật Thuế tài nguyên, về cơ bản, đã đảm bảo tương thích với thông lệ quốc tế và phù hợp với điều kiện thực tế của Việt Nam. Tuy nhiên, pháp luật thực định về thuế tài nguyên vẫn còn tồn tại một số bất cập cần được sửa đổi như sau:Thứ nhất, với những lập luận tương tự như mục 3.2.1.1, cần bỏ quy định tại Khoản 9 Điều 2 Luật Thuế tài nguyên năm 2009: “Tài nguyên khác do Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định”.Thứ hai, cần thống nhất tên gọi các loại nước thiên nhiên tại Điều 2, Khoản 5 Điều 5 và Điều 8 Luật Thuế tài nguyên năm 2009. Theo đó, nước thiên nhiên bao gồm: Nước khoáng thiên nhiên, nước nóng thiên nhiên, nước thiên nhiên tinh lọc đóng chai, đóng hộp, nước thiên nhiên dùng cho sản xuất thủy điện, nước thiên nhiên dùng cho sản xuất, kinh doanh. Thay cụm từ “nước thiên nhiên dùng cho mục đích công nghiệp” tại Khoản 5 Điều 5 bằng “nước thiên nhiên dùng cho sản xuất kinh doanh”.Thứ ba, nghiên cứu bổ sung một số loại tài nguyên có giá trị kinh tế cao vào diện đối tượng chịu thuế như: san hô đỏ, đá bazan dạng cột được sử dụng làm đá xây dựng cao cấp.Thứ tư, để thống nhất giữa Luật Thuế tài nguyên với Luật Khoáng sản, Luật Lâm nghiệp và Luật Tài nguyên nước, tạo cơ chế quản lý thuế có hiệu quả, chống thất thu thuế đối với những trường hợp được phép khai thác nhưng sản lượng khai thác nhỏ lẻ, Điểm c Khoản 2 Điều 3 Luật Thuế tài nguyên cần được sửa đổi. Theo đó, bổ sung thêm cụm từ “được cấp phép khai thác” vào trước đoạn “khai thác nhỏ lẻ”. Khi đó, Điểm c Khoản 2 Điều 3 sửa đổi sẽ là: “Tổ chức, cá nhân được cấp phép khai thác tài nguyên nhỏ, lẻ bán cho tổ chức, cá nhân làm đầu mối thu mua và tổ chức, cá nhân làm đầu mối thu mua cam kết chấp thuận bằng văn bản về việc kê khai, nộp thuế thay cho tổ chức, cá nhân khai thác thì tổ chức, cá nhân làm đầu mối thu mua là người nộp thuế”.3.1.1.3. Đối tượng chịu thuế và người nộp thuế theo Luật Thuế tiêu thụ đặc biệtVới những phân tích ở tiểu mục 2.1.1.3, quy định về đối tượng chịu thuế tiêuthụ đặc biệt vẫn còn có một số hạn chế, cần sửa đổi, bổ sung những nội dung sau:Trước hết, đối với xe ô tô chịu thuế tiêu thụ đặc biệt, tham khảo kinh nghiệm quốc tế, cần có những điều chỉnh sâu sắc trong tư duy pháp lý đối với mặt hàng này. Tiêu chí đánh thuế tiêu thụ đặc biệt với xe ô tô không nên căn cứ vào số chỗ ngồi mà chỉ nên dựa trên mức độ tiêu thụ nhiên liệu (tức dung tích xi lanh) của xe. Xe ô tô càng tiêu thụ nhiều năng lượng hóa thạch thì mức thuế càng cao.Ngoài ra, nhà làm luật cũng nên cân nhắc việc bỏ quy định đánh thuế tiêu thụ đặc biệt đối với xe ô tô chạy bằng điện, ô tô chạy bằng năng lượng sinh học nhằm khuyến khích các phát minh, sáng chế mới trong lĩnh vực giao thông và kích cầu tiêu dùng các sản phẩm thân thiện với môi trường.Thứ hai, để phù hợp với thông lệ quốc tế, cần bổ sung đối tượng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt là dầu diezel và dầu khí hóa lỏng. Đối với xăng, cần có sự phân biệt về mức thuế tiêu thụ đặc biệt theo hàm lượng lưu huỳnh (hoặc chỉ số octan) của xăng.3.1.1.4.   Căn cứ tính thuế theo Luật Thuế bảo vệ môi trườngNhững phân tích ở mục 2.1.2.1 cho thấy, pháp luật Thuế BVMT hiện hành còn có những hạn chế về biểu khung thuế suất đối với một số hàng hóa. Để khắc phục những hạn chế này, người viết xin đề xuất như sau:Trước hết, cần quán triệt nguyên tắc “mức thuế BVMT phải được đưa ra trên cơ sở mức độ gây ô nhiễm của hàng hóa chịu thuế”, vì vậy, theo người viết, thuế suất thuế BVMT nên là mức thuế tuyệt đối cố định theo từng loại hàng hóa, không nên quy định mức tối thiểu và mức tối đa. Kiến nghị này nhằm làm tăng tính minh bạch, tính ổn định của Luật Thuế BVMT, tránh mở rộng thẩm quyền của Ủy ban Thường vụ Quốc hội trái với Hiến pháp năm 2013. Hơn nữa, quy định pháp lý hiện hành về thuế suất tối thiểu và tối đa đang chỉ dựa trên lập luận “linh hoạt, dễ điều chỉnh theo điều kiện kinh tế - xã hội”232 mà thiếu các căn cứ khoa học, do vậy, thiếu tính thuyết phục. Các đề xuất tăng thuế BVMT của Bộ Tài chính trong thời gian gần đây thường vấp phải phản ứng dữ dội của dư luận chính là minh chứng rõ ràng nhất cho nhận định này.233 Mức thuế suất thuế BVMT cần được xác định trên cơ sở khảo sát, đánh giá kết quả thực hiện Luật Thuế BVMT trong thời gian từ khi Luật có hiệu lực cho đến nay. Mức thuế phải hợp lý để bảo đảm sự cân bằng giữa những chi phí mà người dân phải bỏ ra để đóng thuế, chi phí quản lý thuế của Nhà nước và lợi ích mà người dân cũng như cộng đồng được hưởng từ việc đánh thuế BVMT.Thứ hai, quy định mức thuế suất đối với xăng, dầu cần dựa trên hàm lượng lưu huỳnh để phù hợp với mức độ gây ô nhiễm của từng sản phẩm cũng như tương thích với thông lệ quốc tế. Chẳng hạn, đối với xăng có hàm lượng lưu huỳnh trên 10mg/kg thì mức thuế cao hơn xăng có hàm lượng lưu huỳnh dưới 10mg/kg.Thứ ba, cần xem xét điều chỉnh mức thuế suất đối với than nhằm tăng cường trách nhiệm của người sử dụng sản phẩm này, khuyến khích việc chuyển đổi sang các dạng năng lượng khác thân thiện hơn với môi trường. Theo lẽ thông thường, giá than rẻ hơn giá điện, giá gas thì đương nhiên người dân sẽ “thích” dùng than hơn.Thứ tư, đối với thuốc bảo vệ thực vật, để thống nhất với Thông tư số 03/2018/TT-BNNPTNT ngày 09/02/2018 của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn ban hành Danh mục thuốc bảo vệ thực vật được phép sử dụng, cấm sử dụng tại Việt Nam (sửa đổi, bổ sung theo Thông tư số 13/2018/TT-BNNPTNT), cần bỏ cụm từ “thuộc loại hạn chế sử dụng” ở Khoản 5, 6, 7, 8 Điều 3 Luật Thuế BVMT năm 2010. Ngoài ra, đối tượng chịu thuế là “thuốc diệt cỏ” quy định tại Khoản 5 Điều 3 Luật Thuế BVMT cần thay bằng “thuốc trừ cỏ” để đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất của pháp luật. Bên cạnh đó, mức thuế suất đối với từng loại thuốc bảo vệ thực vật cần được xác định dựa trên mức độ độc hại, mức độ ảnh hưởng xấu đến môi trường và sức khỏe con người của từng sản phẩm.Thứ năm, theo ý kiến của nhiều chuyên gia, cách đánh thuế BVMT đối với túi ni lông nên căn cứ vào số lượng túi sẽ có tác dụng BVMT tốt hơn. Cách đánh thuế hiện nay dựa trên khối lượng túi ni lông sẽ khuyến khích sản xuất nhiều túi ni lông loại mỏng vì túi ni lông dày chịu thuế cao hơn, trong khi đó các loại túi ni lông mỏng thì hầu như không thể tái chế, khả năng tái sử dụng cũng thấp. Các loại túi ni lông dày hơn và đựng đồ sạch thì có thể tái sử dụng, tái chế dễ hơn. Tuy nhiên, đánh thuế dựa trên số lượng túi ni lông có nhược điểm là hành thu sẽ khó hơn do các hóa đơn, hợp đồng mua bán túi ni lông đều dựa trên khối lượng, khi tính thuế cần thực hiện thêm một thao tác để quy đổi từ khối lượng sang số lượng túi ni lông.Bên cạnh đó, nhà làm luật cũng cần điều chỉnh mức thuế BVMT đối với sản phẩm này vì mức thuế hiện hành đang tỏ ra chưa hiệu quả, chưa tương xứng với mức độ gây ô nhiễm môi trường của túi ni lông.Trong Tờ trình dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế BVMT, cơ quan soạn thảo đang đề xuất mức thuế với túi ni lông từ 40.000 đồng đến 200.000 đồng. Về lâu dài, có ý kiến còn cho rằng nên cấm hẳn việc sản xuất túi ni lông không thân thiện với môi trường nhằm khuyến khích sản xuất và tiêu dùng các sản phẩm “xanh” thay thế túi ni lông.236 Người viết cũng tán thành các giải pháp này bởi trên thực tế, số thuế BVMT thu được từ túi ni lông không đủ để bù đắp các chi phí xử lý ô nhiễm môi trường do sản phẩm này gây ra. Hơn nữa, trên thị trường đã có rất nhiều sản phẩm “xanh” thay thế túi ni lông như túi vải, túi giấy.3.1.1.5.   Căn cứ tính thuế theo Luật Thuế tài nguyênNhư đã phân tích ở tiểu mục 2.1.2.2, quy định của Luật Thuế tài nguyên về căn cứ tính thuế còn có nhiều bất cập, cần phải sửa đổi, bổ sung.Thứ nhất, cần khắc phục tình trạng thiếu tính ổn định (tương đối) và khả năng dự báo kém của pháp luật thuế tài nguyên. Việc thu thuế tài nguyên được triển khai thực hiện ở nước ta từ năm 1990 theo Pháp lệnh Thuế tài nguyên năm 1990 (sửa đổi, bổ sung năm 1998). Hiện nay, Luật Thuế tài nguyên năm 2009 (sửa đổi, bổ sung năm 2014) đang có hiệu lực thi hành. Như vậy, tính đến thời điểm hiện tại, thuế tài nguyên đã có thời gian thi hành rất dài (gần 20 năm), tuy nhiên, tính toàn diện, tính đồng bộ và kỹ thuật lập pháp của đạo luật này vẫn luôn là vấn đề gây nhiều tranh luận (xem phần trình bày ở tiểu mục 2.1.2.2).Nhà làm luật có lẽ cần “đầu tư” trí tuệ nhiều hơn, lắng nghe và tiếp thu ý kiến người dân, các chuyên gia cũng như cộng đồng doanh nghiệp để xây dựng, hoàn thiện luật thuế tài nguyên, tránh việc sửa đổi, bổ sung chắp vá như hiện nay.Thứ hai, để đảm bảo sự thống nhất với Luật Điện lực và Luật Hải quan, Điểm a Khoản 3 Điều 6 Luật Thuế tài nguyên cần sửa đổi như sau: giá tính thuế “đối với nước thiên nhiên dùng cho sản xuất thủy điện là giá bán lẻ điện bình quân do Bộ Công thương trình Thủ tướng Chính phủ quyết định”; Điểm c Khoản 3 Điều 6 Luật Thuế tài nguyên cần sửa đổi như sau: giá tính thuế “đối với tài nguyên khai thác không tiêu thụ trong nước mà xuất khẩu là trị giá hải quan của tài nguyên xuất khẩu”.Thứ ba, cần trừ chi phí sản xuất, chế biến, chi phí xuất khẩu khi xác định giá tính thuế đối với tài nguyên khai thác chưa bán ra ngay mà phải qua sản xuất, chế biến thành sản phẩm tài nguyên mới bán ra (quy định tại Điểm a Khoản 3 Điều 6 Thông tư số 152/2015/TT-BTC) để phù hợp với bản chất của thuế tài nguyên: đánh thuế phải dựa trên giá trị gốc của tài nguyên chưa qua chế biến như thông lệ quốc tế.Thứ tư, xác định thuế suất thuế tài nguyên đối với khoáng sản cần được cân đối dựa trên việc tổng hợp các khoản thu đối với sản phẩm này. Pháp luật hiện hành quy định các khoản thu sau đối với khoáng sản:Xét trong tổng thể các khoản thu đối với khoáng sản, như đã trình bày ở mục 2.1.2.2, thuế suất thuế tài nguyên của Việt Nam là khá cao (trừ dầu thô). Nhà làm luật cần nghiên cứu, xem xét điều chỉnh giảm thuế suất thuế tài nguyên đối với khoáng sản (trừ dầu thô).Thứ năm, kinh nghiệm quốc tế cho thấy, nhiều quốc gia đã xây dựng quỹ riêng để quản lý các khoản thu từ khai thác tài nguyên không tái tạo nhằm hạn chế các cú sốc về biến động giá cả và tạo nguồn lực tài chính cho các thế hệ tương lai, hướng tới phát triển bền vững. Các quốc gia này cũng ban hành các chính sách quy định cụ thể về tỷ lệ dự trữ, phân bổ và sử dụng nguồn thu từ tài nguyên để đầu tư phát triển các ngành sản xuất khác. Tuy nhiên, Việt Nam hiện nay chưa xây dựng một hệ thống quản lý riêng đối với nguồn thu từ khai thác tài nguyên khoáng sản (đặc biệt là đối với dầu khí). Điều này dẫn đến nhiều thách thức trong việc quản lý các biến động về nguồn thu khi giá tài nguyên sụt giảm và khó khăn trong việc xây dựng kế hoạch chi một cách hợp lý và hiệu quả.237Việt Nam cần nghiên cứu, xem xét việc thành lập Quỹ Tài nguyên để quản lý hiệu quả nguồn thu từ khai thác khoáng sản. Để thực hiện giải pháp này, Luật NSNN năm 2015 cũng cần có những sửa đổi nhằm tạo sự thống nhất giữa pháp luật về NSNN và pháp luật thuế tài nguyên. Khoản 1 Điều 7 Luật NSNN quy định: các khoản thu từ thuế, phí, lệ phí và các khoản thu khác theo quy định pháp luật được tổng hợp đầy đủ vào cân đối NSNN, theo nguyên tắc không gắn với nhiệm vụ chi cụ thể. Do vậy, Luật NSNN cần bổ sung quy định về ngoại lệ đối khoản thu từ khoáng sản. Theo đó, khoản thu này sẽ có nguyên tắc quản lý, phân bổ và sử dụng đặc thù, đảm bảo phát triển bền vững.3.1.1.6.   Căn cứ tính thuế theo Luật Thuế tiêu thụ đặc biệtQuy định của Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt về căn cứ tính thuế, như đã phân tích tại tiểu mục 2.1.2.3, có một số hạn chế cần khắc phục như sau:Thứ nhất, thuế suất thuế tiêu thụ đặc biệt đối với thuốc lá cần được điều chỉnh tăng để đảm bảo tỷ lệ thuế/ giá bán lẻ thuốc lá tối thiểu là 65% theo khuyến nghị của WB, WHO và xu hướng chung của thế giới. Nếu thuốc lá được đưa vào diện chịu thuế BVMT như đề xuất tại mục 3.2.1.1, thì tỷ lệ thuế/ giá bán lẻ thuốc lá cần cộng thêm cả thuế BVMT.Thứ hai, thực hiện yêu cầu của Chiến lược cải cách hệ thống thuế giai đoạn 2011 – 2020, để phù hợp với thông lệ quốc tế và bản chất của thuế tiêu thụ đặc biệt, cần nghiên cứu áp dụng thuế suất tuyệt đối. Ngoài ra, với một số mặt hàng, để nâng cao hiệu quả hướng dẫn tiêu dùng, cần áp dụng đồng thời cả thuế suất tỉ lệ và thuế suất tuyệt đối như: thuốc lá. (Xem thêm Phụ lục 5 về thuế tiêu thụ đặc biệt của các nước OECD).3.1.2.  Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về quản lý thuế môi trường3.1.2.1.   Pháp luật thuế môi trường về các thủ tục hành chínhNhững phân tích và đánh giá ở mục 2.2.1 cho thấy, pháp luật thuế môi trường về các thủ tục hành chính chưa mang lại những kết quả tích cực xét về khía cạnh BVMT, về tính hiệu quả kinh tế, về tính đơn giản và tính ổn định (tương đối). Để khắc phục những hạn chế này, người viết xin kiến nghị một số giải pháp sau:Thứ nhất, cần tăng cường công tác quản lý thu thuế BVMT đối với túi ni lông, thuốc bảo vệ thực vật và dung dịch HCFC. Trên thị trường, các sản phẩm này chủ yếu do các hộ gia đình sản xuất, kinh doanh nhưng việc khoán thuế đối với chủ thể này đang tồn tại nhiều bất cập (đã phân tích ở mục 2.2.1). Luật Quản lý thuế năm 2019 đã có những sửa đổi quan trọng nhằm khắc phục hạn chế này, cụ thể là:i)  Phân loại hộ kinh doanh quy mô lớn để áp dụng hình thức quản lý thuế phù hợp như áp dụng chế độ kế toán đơn giản tương ứng với doanh nghiệp nhỏ, siêu nhỏ; áp dụng chế độ hóa đơn điện tử, khai thuế điện tử, nộp thuế điện tử. Theo đại diện Tổng cục Thuế, mục tiêu của việc làm này là hạn chế tối đa sự lợi dụng mô hình hộ kinh doanh nhằm mục đích trốn thuế, tạo khuôn khổ pháp lý về thuế thúc đẩy hộ kinh doanh quy mô lớn chuyển đổi thành doanh nghiệp.ii)   Phân loại hộ kinh doanh trong lĩnh vực dịch vụ có giao dịch thanh toán bằng tiền mặt với người tiêu dùng để áp dụng các biện pháp không dùng tiền mặt trong giao dịch kinh doanh bán lẻ, nhà hàng, cửa hàng dịch vụ ăn uống, dịch vụ vui chơi giải trí...Trên cơ sở đó, có biện pháp quản lý đối với việc bán hàng phải xuất hoá đơn, hoặc thanh toán không dùng tiền mặt nhằm đẩy mạnh sử dụng hoá đơn điện tử, kết nối thông tin doanh thu bán hàng thông qua máy tính tiền hoặc các thiết bị chấp nhận thẻ thanh toán.iii) Phân loại hộ kinh doanh quy mô nhỏ để áp dụng hình thức thuế khoán, tăng cường tính minh bạch, tăng cường vai trò, trách nhiệm của chính quyền địa phương và các tổ chức có liên quan trên địa bàn. Tổng cục Thuế cho rằng, mục đích của việc làm này nhằm hạn chế tối đa việc khoán thuế không sát thực tế, hạn chế tối đa việc phát sinh thỏa thuận ngầm giữa hộ kinh doanh và cán bộ thuế gây bất bình trong xã hội.Ngoài ra, Bộ Tài chính cũng đề xuất xây dựng giải pháp quay xổ số hoá đơn nhằm khuyến khích tổ chức, cá nhân tham gia giám sát doanh thu kinh doanh của người nộp thuế (bao gồm cả doanh nghiệp và hộ kinh doanh) đảm bảo người nộp thuế kê khai doanh thu đúng thực tế. Theo đó, hóa đơn mua sắm của người dân sẽ được xổ số định kỳ. Xổ số hóa đơn sẽ khuyến khích người mua lấy hóa đơn nên bắt buộc người bán phải xuất, thất thoát thuế sẽ được hạn chế.Những giải pháp trên là phù hợp với bối cảnh số lượng hộ kinh doanh đang ngày càng tăng nhanh và đóng góp tỉ lệ không nhỏ trong GDP. Việc phân loại hộ kinh doanh cần dựa trên tiêu chí định lượng rõ ràng như: số lượng lao động được sử dụng, lượng điện năng, lượng nước tiêu thụ trong tháng/ quý. Đối với hộ kinh doanh nhỏ, thuế khoán phải bao gồm cả thuế BVMT.Thứ hai, Việt Nam có thể đẩy mạnh giảm phát thải GHG ở tất cả các lĩnh vực phát thải, bao gồm sử dụng đất, thay đổi sử dụng đất và lâm nghiệp (LULUCF), nông nghiệp, chất thải và sản xuất công nghiệp, đặc biệt là trong sản xuất và tiêu dùng năng lượng. Phát thải GHG từ sản xuất và tiêu dùng năng lượng chiếm phần lớn lượng phát thải hiện tại và tương lai của Việt Nam, lượng phát thải này tăng gấp bốn lần trong giai đoạn từ năm 2010 đến năm 2030 về mặt con số tuyệt đối và chiếm 86% tổng lượng phát thải ròng vào năm 2030 theo kịch bản thông thường (viết tắt là BAU).Phân tích kinh tế vĩ mô cho thấy việc tăng tham vọng giảm phát thải GHG bên ngoài Đóng góp do quốc gia tự quyết định (viết tắt là NDC239) hiện tại có thể làm cho GDP của Việt Nam tăng nhanh hơn; tạo ra các công việc xanh và sạch mới; và gia tăng các mặt hàng xuất khẩu nhờ hiện đại hóa công nghệ và nâng cao hiệu suất. Điều này đòi hỏi Việt Nam phải sử dụng các cơ hội và định hướng cho việc mở rộng năng lượng tái tạo (viết tắt là RE) và tăng hiệu quả năng lượng (viết tắt là EE). Các tác động đối với lạm phát từ việc tăng giá năng lượng ban đầu có thể sẽ không đáng kể và giá năng lượng có thể sẽ thấp hơn trong trung và dài hạn so với BAU. Việc chuyển đổi năng lượng sẽ không chỉ giúp đạt được tham vọng giảm phát thải cao mà còn giảm sự phụ thuộc vào thị trường nhiên liệu hóa thạch và vận tải quốc tế, đồng thời tăng cường an ninh năng lượng quốc gia.EE của Việt Nam trên mỗi đơn vị GDP hiện tương đối thấp. Tuy nhiên, có thể cải thiện hướng tới chi phí thấp trong EE, giúp giảm chi tiêu của các ngành công nghiệp và người tiêu dùng. Trong những năm đầu chuyển đổi năng lượng, giá năng lượng có thể tăng ở mức khiêm tốn 15-20% nếu áp thuế carbon để tính chi phí ngoại biên trong việc sử dụng nhiên liệu hóa thạch và loại bỏ tất cả các hỗ trợ gián tiếp đối với việc sử dụng nhiên liệu hóa thạch. Giá cao hơn sẽ là động lực chính để đầu tư nhiều hơn vào EE cũng như RE. Bên cạnh đó, cần có các biện pháp hỗ trợ các doanh nghiệp đối phó với mức giá cao hơn và cải thiện EE. Giá năng lượng tăng cũng sẽ tác động đến các nhóm thu nhập thấp, vì vậy cần có các cơ chế hỗ trợ, đặc biệt là giá bán lẻ điện lũy tiến. Trong trung đến dài hạn, cải thiện EE, giảm nhập khẩu nhiên liệu và chi phí RE thấp hơn sẽ giúp giảm chi phí điện năng tại Việt Nam.Thứ ba, để cải thiện khả năng dự báo số thu thuế tiềm năng ở Việt Nam, các tác giả Gangadha Prasad Shukla, Phạm Minh Đức, Michael Engelschalk, Lê Minh Tuấn (2011) đề xuất 3 bước chính liên quan tới công tác dự báo số thu thuế ở Việt Nam là: củng cố cơ sở dữ liệu với những dữ liệu về số thu từ thuế và kinh tế; đào tạo đội ngũ cán bộ của Vụ Dự toán tính thu nhập thuế, Tổng Cục Thuế; và xây dựng những mô hình dự báo thực sự. Hai bước đầu tiên có thể diễn ra song song trong khi bước thứ 3 nên được thực hiện sau khi 2 bước trên đã hoàn tất.Cũng cần lưu ý là những mô hình này có thể được sử dụng để dự báo số thu từ thuế ở cấp tỉnh hay cấp huyện, xã miễn là những dữ liệu đó đều có sẵn cho từng tỉnh hoặc huyện, xã.Bước 1: Tăng cường cơ sở dữ liệuTrong bước đầu tiên này, Tổng Cục Thuế nên giao việc xây dựng cơ sở dữ liệu cho một nhóm các cán bộ trong Vụ dự toán tính số thu từ thuế. Những cán bộ này sẽ rà soát một cách có hệ thống những dữ liệu có sẵn tại các bộ phận phòng ban của Tổng Cục Thuế, ban thống kê (thuộc Bộ kế hoạch và Đầu tư), Ngân hàng Trung ương, các phòng thương mại và công nghiệp, các viện nghiên cứu…, và nên thu thập những dữ liệu có liên quan theo định dạngđiện tử.Trong khi bài toán xây dựng mô hình có thể được khởi động ngay khi cơ sở dữ liệu đang trong quá trình xây dựng và rà soát thì cũng cần nhấn mạnh rằng độ rộng, độ sâu và tính liên kết của những dữ liệu này sẽ quyết định chất lượng cuối cùng của các mô hình và kết quả của chúng.Do vậy đây là bài toán rất quan trọng và nên được khởi động đầu tiên và nên được thực hiện tỉ mỉ, thận trọng.Bước 2: Đào tạo nhân sựCông tác đào tạo cán bộ bao gồm sự kết hợp chặt chẽ giữa lí thuyết và ứng dụng (bài tập, các trường hợp nghiên cứu tình huống, thuyết trình) và phải rất thực tế. Nhìn chung, nên dành nửa thời gian để giảng giải lý thuyết, các quy định và dẫn chứng, nửa thời gian còn lại nên dành cho những bài tập thực hành và ứng dụng trên máy.Các cán bộ của Tổng Cục Thuế cần được đào tạo theo 2 hình thức: (1) Đào tạo về mặt công cụ nên tập trung gồm cả lĩnh vực toán kinh tế như e-views, STATA, những công cụ tính toán phức tạp trong Excel bao gồm việc viết các macro đơn giản những khái niệm vĩ mô đơn giản và những quy tắc căn bản của kinh tế vi mô- vĩ mô được sử dụng trong phân tích việc chính sách thuế và dự báo tính số thu từ thuế; (2) Những môn học chủ yếu bao gồm Thuế Trong Kinh tế học (phân tích chính sách thuế) và những kĩ thuật dự báo tính số thu từ thuế.Bước 3: Xây dựng mô hình dự báo số thu thuếNhiệm vụ thực sự của xây dựng mô hình có thể được thực hiện sau khi công tác đào tạo cán bộ và chuẩn bị cơ sở dữ liệu được hoàn tất. Việc xây dựng những mô hình vĩ mô, yêu cầu ước tính vốn liên quan tới việc tính toán những chỉ số co giãn thuế trên nền tảng một bộ dữ liệu sạch về thuế và dữ liệu vĩ mô, có thể được khởi động sớm hơn nếu những dữ liệu này đã sẵn sàng. Công việc cho xây dựng mô hình tính toán số thu hàng tháng cũng tương tự như vậy.Quá trình này nên được hoàn tất theo từng phương pháp một (vĩ mô trước, vi mô sau) và theo từng loại thuế và trong từng giai đoạn.Khung thời gianNếu được thực hiện và tổ chức một cách có hệ thống thì toàn bộ quá trình được miêu tả trên đây chỉ mất 18 đến 24 tháng để thực hiện. Khi những mô hình này đã sẵn sàng nên kiểm tra lại để chỉnh sửa bất kỳ tính năng nào nhằm phục vụ cho công tác dự tính. Cũng cần lưu ý là bước đầu tiên của những mô hình dự báo nên trả lời cho câu hỏi “cái gì (xảy ra) nếu” và một khi chúng đưa ra một loạt con số tính toán thu nhập thuế bị giảm dần thì quá trình đó chưa thể hoàn tất được. Cần ít nhất thêm hai năm nữa trước khi cơ sở dữ liệu hoàn tất và sạch, cũng như các mô hình được chỉnh sửa đầy đủ. Tuy nhiên đây là một phần của quá trình xây dựng mô hình thông thường ở bất kỳ quốc gia nào chứ không phải xảy ra duy nhất ở Việt Nam; mỗi nước đều phải (hoặc đã) trải qua một lộ trình giống như vậy.241Thứ tư, để thực sự cắt giảm chi phí quản lý thuế, theo người viết, có lẽ không chỉ dừng lại ở việc sáp nhập các chi cục thuế như cách làm hiện nay của Bộ Tài chính. Nhà làm luật cũng nên nghiên cứu phương thức quản lý thuế tiên tiến của các quốc gia trên thế giới. Nhiều nước không tách riêng ba chức năng: quản lý thuế, hải quan, bảo hiểm xã hội cho ba cơ quan khác nhau mà chỉ tập trung vào một đầu mối duy nhất (ví dụ: HM Revenue and Customs ở Vương quốc Anh). Cách làm này vừa tinh gọn bộ máy, vừa đảm bảo sự quản lý tập trung, thống nhất các khoản thu của ngân khố quốc gia, đồng thời cũng dựa trên cơ sở khoa học: căn cứ tính các khoản thu này đều là thu nhập của người đóng thuế/ bảo hiểm, hoặc là số lượng, giá trị hàng hóa, dịch vụ. Việc tập trung quản lý các khoản thu bắt buộc này cũng giúp tăng cường tính liên thông, liên kết của hệ thống thông tin.Ngoài ra, Quyết định số 13/2016/QĐ-TTg cũng cần được cân nhắc sửa đổi. Quy định: kinh phí bảo đảm hoạt động của Tổng cục Thuế là 1,8% dự toán thu NSNN, của Tổng cục Hải quan là 2,1% dự toán thu NSNN liệu có thực sự cần thiết?Như đã phân tích tại tiểu mục 1.2.3.3, người viết cũng tán thành việc xây dựng chính sách đặc thù đối với cán bộ quản lý thuế, tuy nhiên, việc ấn định kinh phí quản lý thuế là một tỉ lệ trên dự toán thu NSNN thì không có căn cứ khoa học nên thiếu tính thuyết phục và không phù hợp với thông lệ quốc tế. Quy định này sẽ tạo “động lực” cho cơ quan quản lý thuế tìm mọi cách “tiêu” hết số kinh phí được khoán mà nhiều khi những cán bộ trực tiếp làm công tác hành thu thuế lại không được hưởng hoặc hưởng không xứng đáng với công lao. Vì vậy, chính sách đặc thù nên áp dụng trực tiếp đối với cán bộ quản lý thuế, ví dụ: lương, phụ cấp của cán bộ thuế gấp ba hoặc bốn lần lương của công chức ngành khác.Thứ năm, để giảm chi phí tuân thủ pháp luật cho các doanh nghiệp, bảo đảm đạt được mục tiêu nâng xếp hạng chỉ số B1 của Việt Nam, góp phần cải thiện năng lực cạnh tranh theo chỉ số năng lực cạnh tranh toàn cầu 4.0 (theo GCI 4.0), theo hướng dẫn của Bộ Tư pháp, trước mắt cần tập trung thực hiện ngay một số nhiệm vụ, giải pháp về xây dựng, hoàn thiện thể chế và tổ chức thi hành pháp luật, cụ thể:i)   Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện thể chế để giảm chi phí tuân thủ pháp luật, cần đánh giá đúng, thực chất gánh nặng chi phí tuân thủ pháp luật mà các doanh nghiệp đã, đang và sẽ tiếp tục gặp phải trong quá trình thực hiện, chấp hành các quy định pháp luật, qua đó, tiếp tục khẩn trương thực hiện rà soát, đề xuất sửa đổi, bổ sung các quy định không rõ ràng, không cụ thể, không khả thi, cản trở điều kiện đầu tư kinh doanh, gây khó khăn, phiền hà cho doanh nghiệp, thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả Nghị quyết số 139/NQ-CP ngày 09 tháng 11 năm 2018 của Chính phủ ban hành Chương trình hành động cắt giảm chi phí cho doanh nghiệp; Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 01 tháng 01 năm 2018 và Nghị quyết số 02/NQ-CP ngày 01 tháng 01 năm 2019. Các cơ quan tư pháp địa phương tiếp tục nâng cao chất lượng thẩm định trong hoạt động ban hành văn bản quy phạm pháp luật, đảm bảo không có các quy định mới chứa đựng các yêu cầu không cần thiết, bất hợp lý, cản trở điều kiện đầu tư kinh doanh của các doanh nghiệp, đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ, khả thi, giảm thiểu chi phí tuân thủ pháp luật trong các văn bản quy phạm pháp luật được sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới.Thực hiện rà soát, đánh giá toàn bộ các quy định về phí, lệ phí mà các doanh nghiệp đang phải gánh chịu, kiến nghị sửa đổi, bổ sung theo thẩm quyền hoặc đề xuất cấp có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung cho phù hợp. Tạo sự liên thông giữa hoạt động xây dựng, hoàn thiện pháp luật với hoạt động tổ chức thực thi pháp luật, theo đó, thường xuyên, kịp thời phối hợp trong nắm bắt, tổng hợp các quy định của pháp luật có nội dung chưa rõ, khó hiểu, mâu thuẫn, chồng chéo hoặc thiếu khả thi, đồng thời, rà soát tổng hợp các quy định pháp luật không rõ ràng, thiếu tính minh bạch, khó tuân thủ, bất hợp lý để sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ theo thẩm quyền hoặc đề nghị cấp có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ.ii) Thực hiện cập nhật kịp thời, đầy đủ và thường xuyên tuyên truyền, phổ biến các quy định pháp luật cho cán bộ, công chức, viên chức và cộng đồng doanh nghiệp, trong đó chú trọng tuyên truyền các quy định mới, để các doanh nghiệp nắm được các quy định mới của các văn bản pháp luật về điều kiện đầu tư kinh doanh, quyền và nghĩa vụ của cơ quan nhà nước và của doanh nghiệp để ngoài việc kiến nghị, đề xuất cơ quan, tổ chức có thẩm quyền bảo vệ, doanh nghiệp còn tự bảo vệ mình trước các hành vi tiêu cực, nhũng nhiễu; phát động trong các doanh nghiệp thống nhất nhận thức, thái độ hành xử kiên quyết không “lót tay” cho cán bộ, công chức, viên chức, không chấp nhận chi những khoản chi phí “bôi trơn” để được hưởng những lợi ích, nhưng “ưu tiên” ngoài quy định của pháp luật. Xây dựng, phát hành, tổ chức hướng dẫn sử dụng các tài liệu về tuân thủ các quy định pháp luật liên quan đến điều kiện đầu tư kinh doanh trong phạm vi trách nhiệm, quyền hạn của ngành, địa phương mình.iii)Thường xuyên tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ, công chức, viên chức thuộc thẩm quyền quản lý; tổ chức tập huấn, bồi dưỡng, hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp.iv)Tiếp nhận và xử lý kịp thời các kiến nghị, phản ánh của doanh nghiệp, thực hiện thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, xử lý kỷ luật và khen thưởng trong tổ chức thực thi và tuân thủ pháp luật. Bằng các hình thức đa dạng, linh hoạt để tiếp nhận, xử lý, giải quyết kịp thời, công khai, công bằng, nhanh chóng, khách quan, đúng thẩm quyền kiến nghị, phản ánh của doanh nghiệp; chủ động tổ chức đối thoại với doanh nghiệp. Thiết lập kênh thông tin đa dạng, thuận lợi, bảo mật thông tin về tổ chức, cá nhân khiếu nại, tố cáo để doanh nghiệp tự giác, kịp thời khiếu nại, tố cáo về những hành vi nhũng nhiễu, tiêu cực của cán bộ, công chức, viên chức trong thực thi pháp luật. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra công vụ. Thực hiện nghiêm Chỉ thị số 20/CT-TTg ngày 17 tháng 5 năm 2017 của Thủ tướng Chính phủ về việc chấn chỉnh hoạt động thanh tra, kiểm tra đối với doanh nghiệp.v)  Tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, thực hiện nghiêm việc công khai các thủ tục hành chính, cập nhật thường xuyên, kịp thời các thủ tục hành chính, đặc biệt là các thủ tục hành chính về điều kiện đầu tư kinh doanh trên Cổng, trang thông tin điện tử, niêm yết tại trụ sở cơ quan nhà nước, tại nơi tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả, tại nơi làm việc của các hiệp hội, địa điểm sinh hoạt cộng đồng doanh nghiệp bảo đảm thuận tiện cho việc tìm hiểu, tra cứu, cập nhật thông tin đối với doanh nghiệp. Cải tiến quy trình giải quyết các thủ tục hành chính; rút ngắn thời gian giải quyết hồ sơ, thủ tục hành chính. Tiếp tục thực hiện và đẩy mạnh cung cấp dịch vụ công trực tuyến, tăng tỷ lệ cung cấp dịch vụ công trực tuyến mức độ 3,4; đẩy mạnh phương thức tiếp nhận hồ sơ, trả kết quả giải quyết thủ tục hành chính qua dịch vụ bưu chính công ích. Không tự đặt thêm điều kiện đầu tư kinh doanh trái quy định của pháp luật. Tăng cường, thúc đẩy chia sẽ dữ liệu, tăng cường phối hợp trong nội bộ ngành, địa phương mình và giữa các ngành, địa phương; Thường xuyên quan tâm, chú trọng hơn nữa đến công tác phối hợp giữa các đơn vị hữu quan trong xây dựng, hoàn thiện thể chế và tổ chức thực thi pháp luật, bảo đảm sự chính xác, thống nhất, đồng bộ, khả thi, hiệu quả trong quy định của các văn bản pháp luật và trong thực tiễn thi hành pháp luật hành đối với các doanh nghiệp.Thứ sáu, cũng như nhiều lĩnh vực pháp luật khác, pháp luật quản lý thuế cần tăng cường tính ổn định và tính minh bạch, cải thiện tình trạng văn bản pháp lý thường xuyên thay đổi.3.1.2.2. Các quy định về giám sát và bảo đảm tuân thủ pháp luật thuế môi trườngNhững phân tích ở mục 2.2.2 cho thấy, pháp luật điều chỉnh hoạt động giám sát và bảo đảm sự tuân thủ thuế môi trường còn có một số bất cập, cần được hoàn thiện.Thứ nhất, cần bổ sung các quy định cụ thể về cơ chế phối hợp giữa cơ quan thuế và cơ quan tài nguyên môi trường trong xác định sản lượng tài nguyên tính thuế. Cơ chế này cần làm rõ thêm các vấn đề sau: (i) Cách thức phối hợp kiểm tra thực địa tại khai trường; (ii) trình tự thủ tục để cơ quan tài nguyên môi trường thực hiện các biện pháp nghiệp vụ nhằm xác định sản lượng khai thác thực tế của doanh nghiệp khai khoáng.Thứ hai, bổ sung cơ chế phối hợp cụ thể để xác định trách nhiệm chủ trì, trách nhiệm phối hợp, cách thức phối hợp của cơ quan chủ trì và trách nhiệm người đứng đầu có liên quan trong quản lý thuế tài nguyên nói riêng và quản lý hoạt động khai thác tài nguyên nói chung.Thứ ba, cần nghiên cứu cơ chế pháp luật và cơ chế tài chính nhằm tăng cường ứng dụng công nghệ hiện đại để giám sát, xác định đúng sản lượng tài nguyên được khai thác. Chẳng hạn, nên xem xét triển khai mở rộng sáng kiến của Cục thuế Thanh Hóa lắp đặt camera giám sát tại các mỏ trọng điểm.Thứ tư, tăng cường vai trò của chính quyền địa phương trong quản lý thu đối với khai thác tài nguyên thông qua xác lập trách nhiệm của người đứng đầu địa phương trong quản lý tài nguyên. Địa phương nào để xảy ra khai thác lậu, trốn thuế thì phải làm rõ trách nhiệm và phải xử lý kỷ luật người đứng đầu; tùy theo từng trường hợp mà xử lý trách nhiệm liên đới hoặc trách nhiệm chính.242Thứ năm, Việt Nam cần sớm tham gia Sáng kiến minh bạch trong công nghiệp khai thác (EITI).EITI được cựu Thủ tướng Anh Tony Blair đề xuất lần đầu tiên tại Hội nghị Thượng đỉnh về phát triển bền vững ở Johannesburg (Nam Phi) vào năm 2002. Sáng kiến có mục tiêu thúc đẩy minh bạch, trách nhiệm giải trình và quản trị tốt công nghiệp khai thác trong bối cảnh nhiều quốc gia đang phải đối mặt với những thách thức trong quản lý tài nguyên thiên nhiên. Sau hơn 15 năm đề xuất áp dụng, tính đến nay, trên thế giới đã có 52 quốc gia đăng ký thực thi EITI. Trong khu vực ASEAN có bốn quốc gia đã tham gia EITI gồm Indonesia, Phillipines, Timor Leste và Myanmar. Trong 52 quốc gia cam kết thực thi EITI, có 37 quốc gia được công nhận là đã tuân thủ đầy đủ các yêu cầu của EITI.Nguyên tắc chung của EITI là đảm bảo sự tham gia đầy đủ và hiệu quả của các bên liên quan bao gồm Nhà nước, doanh nghiệp và cộng đồng trong quản trị công nghiệp khai thác. Theo đó, một số thông tin liên quan đến công nghiệp khai thác phải được công khai dưới sự giám sát của hội đồng các bên liên quan bao gồm Nhà nước, doanh nghiệp và xã hội dân sự. Theo yêu cầu của EITI cơ bản (Bộ tiêu chuẩn EITI 2011), chính phủ phải công khai các khoản thu từ doanh nghiệp khai khoáng và doanh nghiệp phải công khai các khoản đã nộp cho chính phủ dưới sự giám sát của hội đồng các bên liên quan. Do nội dung mới chủ yếu tập trung ở các số liệu về các khoản thu và nộp từ hoạt động khai thác tài nguyên, EITI 2011 còn bộc lộ nhiều hạn chế như không giải quyết được các vấn đề liên quan đến quá trình cấp phép, quản lý hoạt động khai thác, phân bổ nguồn thu và đưa ra những gợi ý cải thiện chính sách. EITI 2011 đã được thay thế bởi EITI 2013, EITI 2016. Mới đây nhất, Bộ tiêu chuẩn EITI 2019 đã được phát hành ở Hội nghị toàn cầu Paris ngày 18/6/2019. EITI 2019 đặt ra 7 yêu cầu chính, bao gồm: (i) Giám sát bởi các bên liên quan; (ii) Cơ chế pháp lý và thể chế, bao gồm hợp đồng và cấp phép; (iii) Khai thác và sản lượng; (iv) Quản lý nguồn thu; (v) Phân bổ nguồn thu; (vi) Chi tiêu kinh tế và xã hội và (vii) Kết quả và tác động. Trong mỗi nội dung trên, EITI 2019 đưa ra yêu cầu về các thông tin cụ thể cần được công khai.Đối với các nước thành viên, EITI hứa hẹn cải thiện môi trường đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư và các tập đoàn tài chính. EITI cũng hỗ trợ trong việc tăng cường trách nhiệm giải trình và quản lý tài chính trong khai thác khoáng sản, đồng thời giúp quốc gia đó củng cố sự ổn định về kinh tế và chính trị, góp phần ngăn chặn các cuộc xung đột trong ngành dầu khí và khai khoáng.Đối với các công ty và nhà đầu tư, EITI góp phần giảm nhẹ những rủi ro do yếu tố chính trị. Sự bất ổn về chính trị do sự quản lý yếu kém là một mối đe dọa đối với các nhà đầu tư trong khi ngành công nghiệp khai khoáng có đặc điểm đòi hỏi vốn đầu tư lớn và sự ổn định lâu dài. Khi có EITI, các công ty và nhà đầu tư sẽ được đảm bảo hoạt động trong một môi trường kinh doanh ổn định hơn.Ngoài ra, EITI cũng đóng vai trò cung cấp thông tin cho cộng đồng về tình trạng thu chi và sự quản lý của chính phủ trong sử dụng tài nguyên quốc gia, giúp người dân đánh giá tính hợp lý của những hoạt động này.Đến nay, Việt Nam chưa tham gia thành viên EITI nhưng về lâu dài, chúng ta cần tham khảo và cân nhắc việc tham gia sáng kiến này. Đây là một cơ chế mang ý nghĩa lớn đối với các quốc gia nghèo nhưng giàu tài nguyên như nước ta.Kết luận chương 3Từ việc nghiên cứu phương hướng hoàn thiện pháp luật thuế môi trường nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện ở Việt Nam, có thể rút ra một số kết luận sau:1.  Bên cạnh việc đáp ứng những yêu cầu về mặt lý luận đã được phân tích ở Chương 1, việc hoàn thiện pháp luật thuế môi trường còn phải đảm bảo thực hiện Chiến lược cải cách hệ thống thuế giai đoạn 2011 – 2020, Chiến lược phát triển bền vững Việt Nam thời kỳ 2011 – 2020, Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh, Chiến lược khoáng sản đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030.Quy định về đối tượng chịu thuế và người nộp thuế môi trường cần được sửa đổi, bổ sung.Đối với thuế BVMT: cần nghiên cứu mở rộng phạm vi các hàng hóa thuộc diện chịu thuế; quy định cụ thể hơn về dung dịch HCFC; bỏ quy định về thẩm quyền của Ủy ban Thường vụ Quốc hội được bổ sung đối tượng chịu thuế. Đối với thuế tài nguyên: thống nhất tên gọi các loại nước thiên nhiên trong Luật Thuế tài nguyên; bổ sung một số loại tài nguyênTheo: Đặng Kim PhươngLink luận án: https://docs.google.com/document/d/1q-aent9cpfrvKBz4a6TD8qMIp5g6srw2/edit