0888889366
Tra cứu thông tin hợp đồng
timeline_post_file648981fc388bd-CƠ-SỞ-LÝ-LUẬN-VỀ-BẢO-VỆ-QUYỀN-LỢI-NGƯỜI-TIÊU-DÙNG-TRONG-THƯƠNG-MẠI-ĐIỆN-TỬ-.jpg.webp

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƯỜI TIÊU DÙNG TRONG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ

1.Khái quát chung về quyền lợi của người tiêu dùng trong thương mại điện tử

1.2.1.   Khái niệm pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong thương mại điện tử

Có nhiều lý do cho sự ra đời của pháp luật bảo vệ NTD, đặc biệt nhấn mạnh tới vị trí yếu thế của người tiêu dùng trong các giao dịch thương mại. Người tiêu dùng cần được trao thêm quyền để đưa ra lựa chọn sáng suốt về hàng hóa và dịch vụ mà họ mua. Lợi ích của họ cần được thúc đẩy và bảo vệ, đặc biệt khi thị trường mà họ tham gia có nhiều sự phức tạp và rủi ro như TMĐT.

Để đáp ứng các nhu cầu cơ bản, loài người luôn phải mua, bán hàng hóa và cung cấp dịch vụ. Vì lý do này, mối quan hệ của người tiêu dùng với thương nhân luôn tồn tại. Nhưng mối quan hệ giữa người tiêu dùng với thương nhân không phải lúc nào cũng được bảo vệ bởi các hệ thống pháp luật khác nhau trên thế giới.

Trong Luật La Mã, là nguồn chính của phần lớn các hệ thống luật dân sự hiện hành, người mua đã có một số hành động pháp lý chống lại người bán trong các trường hợp cụ thể, bao gồm:

(i)   hoàn trả giá đã thanh toán khi hàng hóa bán ra không phù hợp với chất lượng khai báo (Actio Redhibitoria);

(ii)  giảm giá (Quanti Minoris) và;

(Iii) đòi bồi thường từ người bán khi bên thứ ba tuyên bố quyền sở hữu đối với hàng hóa được bán (Eviction)

Trong những thế kỷ tiếp theo, không có sự bảo vệ cụ thể nào cho người tiêu dùng. Hợp đồng mua bán hàng hóa hoặc dịch vụ theo nguyên tắc tự do hợp đồng và Nhà nước không can thiệp vào thỏa thuận hoặc hợp đồng giữa các chủ thể.

Mục đích chính của việc ban hành Luật Bảo vệ người tiêu dùng là ngăn chặn sự lạm dụng khả năng thương lượng vượt trội của người bán, đồng thời điều chỉnh sự bất bình đẳng về khả năng thương lượng giữa họ và người tiêu dùng. Vấn đề này dựa trên việc bảo vệ người tiêu dùng chống lại các hành vi không lành mạnh của người bán trong tất cả các giai đoạn sản xuất, cung cấp và phân phối.

Nói chung, Internet đang phát triển hàng ngày và trở thành một thị trường đa dạng cho người tiêu dùng. Do đó, sẽ không thật sự hợp lý khi cố gắng phát triển thương mại điện tử mà không đặt các giao dịch của người tiêu dùng trong một khung pháp lý cụ thể. Lý giải cho điều này là người tiêu dùng đại diện cho bên yếu hơn trong hợp đồng và điểm yếu của họ có thể tăng lên đáng kể trong môi trường điện tử do sự vắng mặt của các bên. Đây là lý do tại sao, trong vài thập kỷ qua, nhiều quốc gia, đặc biệt là các quốc gia phát triển, đã quan tâm nghiêm túc về bảo vệ người tiêu dùng và đặc biệt là bảo vệ người tiêu dùng trong thương mại điện tử. Ví dụ điển hình như tại Châu Âu, số lượng các văn bản pháp luật điều chỉnh các vấn đề của người tiêu dùng trong cả môi trường ngoại tuyến và trực tuyến tương đối nhiều và cụ thể.

Pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng là lĩnh vực pháp luật điều chỉnh các quan hệ giữa người tiêu dùng với các thương nhân khi người tiêu dùng mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ của thương nhân đó; quy định những quyền của người tiêu dùng và trách nhiệm của thương nhân trong các giao dịch. Trong đó, pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng trong thương mại điện tử là một bộ phận của pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng, vì vậy có thể định nghĩa như sau: “Pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong thương mại điện tử là một lĩnh vực pháp luật bao gồm hệ thống các nguyên tắc và quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành, quy định các biện pháp nhằm đảm bảo quyền lợi của người tiêu dùng khi tham gia các hoạt động thương mại điện tử với tổ chức, cá nhân kinh doanh”.

Pháp luật bảo vệ quyền lợi NTD trong TMĐT được đặt ra nhằm quy định quyền và nghĩa vụ của người tiêu dùng cũng như thương nhân trong thương mại điện tử và cách thức thực thi những quy định đó, đồng thời cân bằng lại vị trí yếu thế của người tiêu dùng trong mối quan hệ với thương nhân trong môi trường điện tử.

1.2.2. Đặc điểm pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong thương mại điện tử

Pháp luật BVQLNTD trong TMĐT là một bộ phận trong Pháp luật BVQLNTD nói chung nên nó vẫn mang những đặc điểm của lĩnh vực pháp luật này, tuy nhiên nó vẫn có những đặc điểm riêng biệt gắn liền với bản chất của TMĐT, đó là:

·    Pháp luật BVQLNTD trong TMĐT trao thêm quyền cho người tiêu dùng, đồng thời bổ sung các trách nhiệm đặc thù cho tổ chức, cá nhân kinh doanh nhằm bảo vệ người tiêu dùng khỏi các rủi ro mà thương mại điện tử mang lại trong khi vẫn được hưởng đầy đủ các lợi ích của thương mại điện tử.

Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng có ý nghĩa và vai trò quan trọng trong việc áp dụng các biện pháp nhằm cân bằng quyền lợi giữa NTD với thương nhân trong TMĐT và bảo đảm khả năng thực thi các quy định này. Đồng thời cho phép nhà nước kiểm soát các thương nhân tham gia thị trường thông qua thủ tục đăng ký và cấp phép nhằm tăng mức độ bảo vệ cho người tiêu dùng.

Về lý thuyết, pháp luật bảo vệ người tiêu dùng trong TMĐT phải đảm bảo điều chỉnh hầu hết các khía cạnh của mối quan hệ giữa người tiêu dùng với thương nhân, cụ thể là giai đoạn trước khi mua hàng (bao gồm trách nhiệm cung cấp thông tin, hành vi thương mại lành mạnh v.v.), giai đoạn mua hàng bao gồm các điều khoản hợp đồng không công bằng, bảo mật thanh toán trực tuyến, v.v.) và giai đoạn sau khi mua hàng (bao gồm giải quyết tranh chấp, yêu cầu bồi thường, v.v.) để khắc phục vị trí thương lượng yếu thế và sự bất cân xứng thông tin của NTD so với tổ chức, cá nhân kinh doanh.

· Pháp luật BVQLNTD trong TMĐT gắn liền với quy định về công nghệ và sự mở rộng, phát triển của TMĐT.

Chuyển đổi kỹ thuật số đang tác động sâu sắc đến nền kinh tế và xã hội của chúng ta, thay đổi cách thức người tiêu dùng tương tác với nhau và cách thức thị trường trực tuyến hoạt động. Dữ liệu người tiêu dùng, trong bối cảnh này, đã trở thành một tài sản kinh tế thiết yếu cung cấp cho một loạt các mô hình kinh doanh, công nghệ đồng thời xuất hiện nhiều dạng giao dịch mới và sáng tạo.

Người tiêu dùng trên toàn cầu đang trải qua thời kỳ thay đổi nhanh chóng khi chuyển đổi kỹ thuật số mang đến các công nghệ mới, mô hình kinh doanh, giao dịch, cũng như một loạt các hàng hóa và dịch vụ sáng tạo ví dụ như Internet Vạn vật (Internet of Things - IoT), trí tuệ nhân tạo (AI) và các nền tảng trực tuyến mới như thị trường nền tảng ngang hàng (PPM). Các công nghệ mới mang lại nhiều lợi ích và trải nghiệm tốt hơn cho người tiêu dùng nhưng đồng thời cũng đặt ra nhiều thách thức mà cơ quan nhà nước và các bên liên quan khác phải đối mặt và giải quyết nhằm đảm bảo quyền lợi cho người tiêu dùng.

Cơ quan có thẩm quyền cần xem xét làm thế nào để thích ứng và thực hiện các chính sách về bảo vệ người tiêu dùng trong thời đại tiến bộ công nghệ nhanh chóng này. Mặc dù chính sách bảo vệ người tiêu dùng thường trung lập về công nghệ và đủ rộng để bao quát các công nghệ và mô hình kinh doanh mới, các cơ quan xây dựng pháp luật nên liên tục theo dõi và phân tích sự phát triển trên thị trường thương mại điện tử để đảm bảo rằng người tiêu dùng được bảo vệ đầy đủ và có thể hưởng lợi từ các thị trường đó.

· Pháp luật BVQLNTD trong TMĐT mở rộng phạm vi đối tượng áp dụng thêm cả các bên trung gian, hỗ trợ giao dịch điện tử giữa NTD và tổ chức, cá nhân kinh doanh.

Quan hệ trong TMĐT thông thường bao gồm ít nhất ba chủ thể: người tiêu dùng, nhà cung cấp sản phẩm và bên thứ ba, là nhà cung cấp dịch vụ mạng, các cơ quan chứng thực giao dịch TMĐT. Bên thứ ba này đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra môi trường cho các giao dịch TMĐT; giữ nhiệm vụ chuyển và lưu giữ thông tin giữa các bên tham gia giao dịch TMĐT đồng thời họ cũng xác nhận độ tin cậy của các thông tin trong giao dịch TMĐT. Do đó, họ cũng là những chủ thể phải chịu trách nhiệm trong việc bảo vệ người tiêu dùng cùng với nhà cung cấp sản phẩm.

Ngoài ra, trong một số trường hợp, NTD mua hàng hoá, dịch vụ từ sàn giao dịch TMĐT (ví dụ như Lazada, Tiki…) thì bên cạnh người bán, là người trực tiếp cung cấp sản phẩm cho NTD, còn có sự tham gia của thương nhân cung cấp dịch vụ TMĐT. Đồng thời, trong giao dịch TMĐT hiện nay có sự tham gia của rất nhiều bên hỗ trợ cho giao dịch đó như bên trung gian thanh toán không dùng tiền mặt (ví điện tử, thẻ tín dụng,…) hay các bên cung cấp dịch vụ giao hàng, kho vận… Vì lẽ đó, Pháp luật BVQLNTD trong TMĐT cần bao quát hết tất cả các chủ thể có tham gia vào mối quan hệ giữa NTD với thương nhân khi mua bán hàng hoá, cung cấp dịch vụ thông qua phương tiện điện tử nhằm bảo vệ tối ưu cho NTD.

· Pháp luật BVQLNTD trong TMĐT hỗ trợ sự tăng trưởng hơn nữa của thị trường thương mại điện tử, vì lợi ích của người tiêu dùng và doanh nghiệp.

Bảo vệ người tiêu dùng có thể được coi là một yếu tố quan trọng trong các cơ sở pháp lý để phát triển thương mại điện tử. Khung pháp lý điều chỉnh các vấn đề của thương mại điện tử gồm rất nhiều quy định khác nhau như các quy định về hình thành hợp đồng, quyền tài phán, thanh toán điện tử, chữ ký điện tử, ký kết hợp đồng, bảo mật dữ liệu…. Với một môi trường tiềm ẩn nhiều rủi ro cho người tiêu dùng như thương mại điện tử, việc tạo dựng lòng tin với NTD thường khó khăn hơn do đây là môi trường mua sắm với các yếu tố đặc thù như: tính bất định, tính ẩn danh, sự phức tạp và rủi ro tiềm tàng từ các yếu tố công nghệ. Và để TMĐT thật sự phát triển đúng tiềm năng của nó đòi hỏi người tiêu dùng khi tham gia giao dịch phải có sự tin tưởng, tin tưởng rằng quyền lợi của mình được tôn trọng và đảm bảo bởi pháp luật, có thế NTD mới đẩy mạnh việc sử dụng phương tiện điện tử cho mục đích mua bán hàng hoá, dịch vụ.

1.2.3.   Cấu trúc nội dung và cấu trúc hình thức của pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong thương mại điện tử ở Việt Nam

1.2.3.1.   Cấu trúc hình thức của pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong thương mại điện tử ở Việt Nam

Việt Nam là một trong nhưng nước đi đầu trong việc xây dựng pháp luật bảo vệ quyền lợi NTD ở khu vực Đông Nam Á. Mặc dù chưa có một văn bản cụ thể bảo vệ quyền lợi NTD trong TMĐT nhưng hiện tại cũng có khá nhiều các văn bản điều chỉnh nội dung này. Hệ thống văn bản điều chính bao gồm các văn bản về pháp luật bảo vệ quyền lợi NTD và các văn bản điều chỉnh về TMĐT.

i. Hệ thống văn bản pháp luật bảo vệ quyền lợi NTD

· Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng 2010:

Đầu tiên phải kể đến là Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010 được Quốc hội thông qua tại kì họp thứ VIII, ngày 17 tháng 11 năm 2010. Ngày Luật ra đời thay thế cho Pháp lệnh Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 1999 đã đánh dấu một bước ngoặt lớn trong công cuộc bảo vệ quyền lợi NTD và thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước ta đối với vấn đề cấp thiết này. Luật quy định về quyền và nghĩa vụ của NTD, trách nhiệm của tố chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa dịch vụ đối với NTD, trách nhiệm của các tổ chức xã hội trong việc tham gia bảo vệ quyền lợi NTD. Bên cạnh đó Luật còn quy định về hướng giải quyết các tranh chấp giữa NTD với tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa dịch vụ, các biện pháp để NTD tự bảo vệ quyền lợi của mình và trách nhiệm quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi NTD.

Luật Bảo vệ quyền lợi NTD ra đời đã cụ thể hóa và bổ sung thêm nhiều các quyền cũng như nghĩa vụ của NTD. Bên cạnh đó, để bảo đảm cho những quyền của NTD được thực hiện, Luật đã quy định cụ thể trách nhiệm của cá nhân, tổ chức kinh doanh cũng như các cơ quan, tổ chức trong việc bảo vệ quyền lợi NTD. Đối với riêng lĩnh vực TMĐT thì tại Điều 13 và 14 Luật đã có đề cập. Cụ thể, tại Điều 13 Luật đưa quy định về vấn đề cung cấp thông tin cho NTD thông qua phương tiện điện tử. Theo đó, khi sử dụng phương tiện điện tử để cung cấp thông tin, chủ thể kinh doanh phải đáp ứng một số yêu cầu luật định. Tại Điều 14 Luật quy định chủ thể kinh doanh phải tạo điều kiện để NTD xem xét toàn bộ hợp đồng trước khi giao kết. Như vậy, dù chưa chi tiết và đầy đủ nhưng có thể nói Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng 2010 đã quan tâm tới vấn đề bảo vệ NTD trong TMĐT.

· Các văn bản hướng dẫn Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng 2010

Trong số những văn bản này, trước tiên phải kể đến Nghị định 99/2011/NĐ – CP của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Nghị định này quy định về bảo vệ quyền lợi NTD trong giao dịch với cá nhân hoạt động thương mại độc lập, thường xuyên không phải đăng ký kinh doanh; hợp đồng giao kết với NTD và điều kiện giao dịch chung; giải quyết yêu cầu bảo vệ quyền lợi NTD; tổ chức xã hội tham gia hoạt động bảo vệ quyền lợi NTD; tổ chức hòa giải các tranh chấp giữa NTD và tổ chức, cá nhân kinh doanh và quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi NTD.

Liên quan đến việc bảo vệ quyền lợi NTD trong TMĐT, Điều 17 của Nghị định có quy định về giao kết hợp đồng từ xa – hợp đồng được ký kết giữa NTD và tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa dịch vụ thông qua phương tiện điện tử hoặc điện thoại.30 Theo đó khi giao kết với NTD tổ chức cá nhân phải cung cấp cho người tiêu dùng một số thông tin bắt buộc quy định tại khoản 1, Điều 17. Ngoài ra, Điều luật này còn quy định nếu như thương nhân không cung cấp đầy đủ những thông tin đã yêu cầu thì NTD có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày giao kết hợp đồng (nếu như các bên không có thỏa thuận khác).

Từ các Điều 7 đến 16, Nghị định quy định các vấn đề liên quan đến hợp đồng mẫu và điều kiện giao dịch chung, như: yêu cầu về hình thức của hợp đồng; trách nhiệm đăng ký hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch chung…

Bên cạnh đó, không thể không nhắc tới Nghị định 185/2013/NĐ-CP ngày 15/11/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và được sửa đổi bởi Nghị định 124/2015/NĐ-CP ngày 19/11/2015 của Chính phủ sửa đổi Nghị định 185/2013/NĐ-CP: Nghị định này quy định về hành vi vi phạm, hình thức, mức xử phạt và thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Liên quan đến vấn đề bảo vệ quyền lợi NTD trong TMĐT có các quy định như Điều 65 quy định về hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ thông tin cá nhân người tiêu dùng, Điều 72 quy định về xử phạt vi phạm trong giao kết hợp đồng từ xa, Điều 77 quy định về việc xử phạt hành vi vi phạm về cung cấp bằng chứng giao dịch. Bên cạnh đó, Nghị định này còn dành riêng mục 11 quy định về các hành vi vi phạm về thương mại điện tử.

ii. Hệ thống các văn bản pháp luật về thương mại điện tử

· Luật Giao dịch điện tử năm 2005 và Luật Công nghệ thông tin 

Trong bối cảnh TMĐT ngày càng trở nên phổ biến và phát triển tại Việt

Nam, Luật Giao dịch điện tử 2005 ra đời là một hành lang pháp lý quan trọng tạo điều kiện để các giao dịch điện tử, trong đó có TMĐT, được thực hiện một cách thuận lợi. Luật Giao dịch điện tử đã cho mọi người thấy rõ hơn về khái niệm như thế nào là giao dịch điện tử (Điều 4). Ngoài ra, các điều từ Điều 10 đến Điều 20 đưa ra những quy định các vấn đề liên quan đến thông điệp dữ liệu – những thông tin được tạo ra, gửi đi, nhận và lưu trữ bằng phương tiện điện tử, cùng những quy định liên quan đến giá trị của thông điệp dữ liệu, hình thức gửi, nhận thông điệp Đây là cơ sở để các bên thiết lập các giao dịch và khi

có tranh chấp, thông điệp dữ liệu sẽ là chứng cứ để bảo vệ quyền lợi của các bên, đặc biệt là NTD.

Luật còn quy định một vấn đề rất quan trọng, liên quan trực tiếp tới vấn đề bảo vệ quyền lợi NTD trong TMĐT, đó là những quy định về chữ ký số. Với khả năng xác nhận người ký thông điệp dữ liệu và xác nhận sự chấp thuận của người đó đối với nội dung thông điệp dữ liệu được ký thì các quy định về giá trị pháp lý, điều kiện để bảo đảm an toàn cho chữ ký điện tử và chứng thực chữ ký điện tử là những quy định hết sức quan trọng để có thể bảo vệ quyền lợi của NTD. Bên cạnh đó là các quy định liên quan đến giao kết hợp đồng điện tử mà theo đó, hợp đồng điện tử phải tuân thủ đầy đủ các quy định của pháp luật về hợp đồng thông thường, bên cạnh đó nó còn phải đáp ứng các điều kiện riêng để có thể đảm bảo quyền lợi của các bên khi tiến hành giao dịch.

Như đã trình bày ở mục 1.1, trong hoạt động TMĐT luôn có sự tham gia của một bên thứ ba – nhà cung cấp mạng, tổ chức chứng thực chữ ký số, các chủ thể này cũng đóng một vai trò quan trọng trong việc bảo đảm cho các giao dịch giữa các bên diễn ra thuận lợi. Vì vậy những quy định của Luật Công nghệ thông tin đối với nhóm chủ thể này là vô cùng cần thiết.

Luật Công nghệ thông tin năm 2006 quy định về hoạt động ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin, các biện pháp bảo đảm ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin, quyền và nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân (sau đây gọi chung là tổ chức, cá nhân) tham gia hoạt động ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin. Tại Điều 9 Luật có quy định trách nhiệm và nghĩa vụ của các chủ thể ứng dụng công nghệ thông tin, theo đó thì các chủ thể này sẽ phải chịu trách nhiệm về những nội dung của mình trên môi trường mạng. Những chủ thể kinh doanh trên môi trường này cũng phải đảm bảo một số thông tin cho NTD khi tham gia kinh doanh. Theo đó họ phải đăng tải một số thông tin tối thiểu cần thiết được quy định tại Điều 9. Từ Điều 29 đến Điều 33 Luật Công nghệ thông tin quy định về việc ứng dụng công nghệ thông tin trong thương mại. Ngoài ra, Luật còn đề cấp đến một số vấn đề như nguyên tắc ứng dụng công nghệ thông tin, trang thông tin bán hàng trên mạng, cung cấp thông tin cho việc giao kết hợp đồng trên mạng, giải quyết hậu quả do lỗi nhập sai thông tin thương mại trên môi trường mạng và cả vấn đề thanh toán trên môi trường mạng. Những quy định này sẽ góp phần bảo vệ quyền lợi của NTD khi tiến hành những giao dịch trên mạng. Tại Điều 70, 71 và 72 của Luật còn quy định về việc chống thư rác, chống virus và bảo mật thông tin của người sử dụng dịch vụ, đây đều là những quy định quan trọng liên quan trực tiếp đến quyền lợi NTD.

· Các văn bản hướng dẫn Luật Giao dịch điện tử 2005 và Luật Công nghệ thông tin 2006

Luật Giao dịch dịch điện tử năm 2005 và Luật Công nghệ thông tin năm 2006 được hướng dẫn bởi các văn bản dưới luật sau đây:

Nghị định số 52/2013/NĐ-CP ngày 16 tháng 5 năm 2013 của Chính phủ về thương mại điện tử, có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2013, được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Nghị định 85/2021/NĐ-CP ngày 25 tháng 09 năm 2021. Sự ra đời của nghị định được coi là bước tiến đột phá trong việc tạo ra môi trường pháp lý riêng biệt dành cho hoạt động thương mại điện tử. Nghị định không chỉ điều chỉnh các vấn đề mang tính nguyên tắc trong giao dịch thương mại điện tử mà còn mở rộng các hoạt động thực tiễn về ứng dụng thương mại điện tử, trong đó tập trung và những vấn đề mang tính đặc thù được phát sinh trong môi trường điện tử. Bên cạnh đó, Nghị định còn quy định chi tiết về hoạt động quản lý nhà nước đối với thương mại điện tử như thủ tục thông báo hay đăng ký, đồng thời công bố danh sách các website TMĐT mà người tiêu dùng nên thận trọng. Đồng thời, Nghị định đã dành một chương quy định về an ninh, an toàn trong thương mại điện tử, nêu lên trách nhiệm bảo vệ thông tin cá nhân người tiêu dùng của các tổ chức, cá nhân thu thập thông tin người tiêu dùng, chính sách bảo vệ thông tin đã thu thập, các nguyên tắc sử dụng thông tin, bảo đảm an toàn, an ninh thông tin cá nhân, cũng như quy định về an toàn thanh toán trong giao dịch thương mại điện tử. Những quy định của Nghị định đã tạo ra hành lang pháp lý tương đối vững chắc và đầy đủ đối với hoạt động thương mại điện tử, và một phần nhỏ quy định có thể giúp bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng.

Trong khi đó, Nghị định số 77/2012/ NĐ–CP là nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 90/2008/NĐ–CP về chống thư rác. Nghị định này quy định về việc gửi thư điện tử (email), tin nhắn quảng cáo; quy định về biện pháp quản lý các nhà cung cấp dịch vụ quảng cáo qua email và tin nhắn. Nghị định 15/2020/NĐ-CP của Chính phủ có hiệu lực từ ngày 15/04/2020 quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bưu chính, viễn thông, công nghệ thông tin và giao dịch điện tử. Nghị định này quy định về việc xử phạt vi phạm hành chính đối với các hành vi vi phạm trong các lĩnh vực có liên quan mật thiệt đến quyền lợi người tiêu dùng như việc thu thập, sử

dụng thông tin cá nhân, chống thư rác,….

Liên quan đến vấn đề thanh toán điện tử có các quy định của Nghị định 101/2012/ NĐ–CP của Chính phủ về thanh toán không dùng tiền mặt. Nghị định này điều chỉnh các hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt; đối tượng tham gia và điều kiện để triển khai cung ứng các dịch vụ thanh toán, dịch vụ trung gian thanh toán. Bên cạnh đó, Nghị định còn hoàn thiện và bổ sung thêm các quy định về giải quyết tranh chấp trong hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt.

Bên cạnh đó, còn có các quy định trong Luật An toàn thông tin mạng 2015 và Luật An ninh mạng 2018 điều chỉnh một cách tương đối chi tiết vấn đề bảo vệ an toàn thông tin trên mạng nói chung, đã trở thành cơ sở quan trọng trong thực thi việc bảo vệ thông tin cá nhân người tiêu dùng trong thương mại điện tử.

Trên đây là khái quát về nội dung của những văn bản pháp luật quan trọng và có vai trò chủ yếu trong hoạt động bảo vệ quyền lợi NTD trong TMĐT ở Việt Nam. Có thể thấy những quy định về vấn đề này nhằm rải rác trong nhiều văn bản, điều đó cũng phần nào cho thấy tính đa dạng và phức tạp của việc bảo vệ NTD trong TMĐT.

1.2.3.2. Cấu trúc nội dung của pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong thương mại điện tử ở Việt Nam

Tùy quan niệm của từng nước mà pháp luật về bảo vệ NTD trong giao dịch điện tử có nội dung và cách quy định khác nhau. Tuy nhiên về cơ bản thì pháp luật bảo vệ NTD trong giao dịch điện tử tập trung quy định các vấn đề sau:

· Quyền và nghĩa vụ của người tiêu dùng trong thương mại điện tử

Đây được coi là một trong những nội dung quan trọng nhất của pháp luật bảo vệ NTD nói chung và bảo vệ quyền lợi NTD trong giao dịch điện tử nói riêng. Các quyền và nghĩa vụ cơ bản của NTD theo Quốc tế NTD (CI) và Bản hướng dẫn của Liên Hợp Quốc về bảo vệ NTD là: Quyền được an toàn; Quyền được thông tin; Quyền được lựa chọn; Quyền được lắng nghe ý kiến; Quyền được thỏa mãn những nhu cầu cơ bản; Quyền được đền bù; Quyền được giáo dục và Quyền được sống trong môi trường trong lành. Điều 8 và Điều 9 Luật bảo vệ quyền lợi NTD năm 2010 của Việt Nam đã quy định các quyền và nghĩa vụ của NTD, đây cũng là những quyền và nghĩa vụ cơ bản của NTD khi tiến hành giao dịch truyền thống cũng như giao dịch điện tử. Các quy định về quyền và nghĩa vụ của NTD là những nguyên tắc góp phần xây dựng khuôn mẫu về bảo vệ quyền lợi NTD cho các văn bản pháp luật khác, nhằm giúp cho việc bảo vệ NTD của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền được phối hợp nhịp nhàng, đồng bộ nhất.

· Trách nhiệm của tổ chức, cá nhân kinh doanh đối với người tiêu dùng trong thương mại điện tử

Trách nhiệm của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ đối với NTD là nội dung đặc thù của pháp luật bảo vệ quyền lợi NTD, đặc biệt là trong lĩnh vực giao dịch điện tử. Đối với giao dịch giữa NTD với tổ chức, cá nhân kinh doanh thông qua phương tiện điện tử thì những loại trách nhiệm sau đây được đặc biệt chú ý, đó là:

-  Trách nhiệm bảo vệ thông tin của NTD;

-  Trách nhiệm cung cấp thông tin cho NTD;

-  Trách nhiệm cung cấp bằng chứng giao dịch cho NTD;

-  Trách nhiệm đối với các điều khoản giao dịch không công bằng;

-  Trách nhiệm đảm bảo chất lượng của vật mua, bán.

·  Hệ thống cơ quan, tổ chức về bảo vệ người tiêu dùng trong thương mại điện tử tại Việt Nam

Vấn đề BVQLNTD trong TMĐT đòi hỏi sự kết hợp, tham gia của nhiều cơ quan, tổ chức khác nhau do các giao dịch tiêu dùng cũng đa dạng, trải dài trên nhiều lĩnh vực và khoảng cách địa lý. Các thiết chế chính tham gia bảo vệ quyền lợi NTD bao gồm có : Các cơ quan quản lý nhà nước gồm các cơ quan chuyên trách về bảo vệ NTD và các cơ quan điều tiết ngành; Các tổ chức xã hội tham gia vào việc bảo vệ NTD ở trung ương và địa phương. Có sự phối hợp nhuần nhuyễn và tích cực giữa các cơ quan, tổ chức này thì việc bảo vệ NTD mới đạt được hiệu quả cao nhất, giúp phát triển TMĐT và tăng cường niềm tin cho NTD.

· Phương thức giải quyết tranh chấp giữa tổ chức, cá nhân kinh doanh và người tiêu dùng trong thương mại điện tử

Trong giải quyết tranh chấp giữa NTD với tổ chức, cá nhân kinh doanh trong giao dịch điện tử, pháp luật các nước đề cao vai trò của các phương thức giải quyết tranh chấp thay thế cho tòa án đó là thương lượng, hòa giải. Các phương thức giải quyết tranh chấp thay thế khiến cho việc giải quyết được đảm bảo bí mật, không công khai, không có bản án bất lợi cho tổ chức, cá nhân kinh doanh còn đối với NTD thì không phải chịu những bất cập của thủ tục tố tụng dân sự như chậm chạp, tốn kém và phức tạp. Đặc biệt là trong giao dịch điện tử, các bên tranh chấp có thể ở những quốc gia khác nhau nên việc khởi kiện vụ án dân sự là rất khó khăn cho NTD. Luật bảo vệ quyền lợi NTD 2010 của Việt Nam cũng đã quy định tranh chấp giữa NTD với tổ chức cá nhân kinh doanh có thể được giải quyết thông qua: thương lượng, hòa giải, trọng tài và tòa án.

· Xử lý vi phạm pháp luật bảo vệ người tiêu dùng trong thương mại điện tử

Khi quyền lợi của NTD bị xâm phạm, tổ chức, cá nhân vi phạm sẽ phải chịu những biện pháp chế tài như chế tài dân sự (bồi thường thiệt hại) hay chế tài hành chính (phạt tiền, cảnh cáo, tước quyền kinh doanh…) và nếu gây nguy hiểm cho xã hội đến mức bị coi là tội phạm thì còn phải chịu chế tài nghiêm khắc nhất là chế tài hình sự.

Luật bảo vệ quyền lợi NTD 2010 cũng quy định hệ thống chế tài đối với các hành vi vi phạm Luật bảo vệ quyền lợi NTD tại điều 11:

-  Cá nhân vi phạm pháp luật về bảo vệ quyền lợi NTD thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.

-  Tổ chức vi phạm pháp luật về bảo vệ quyền lợi NTD thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử phạt vi phạm hành chính, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.

1.2.4.   Pháp luật quốc tế và pháp luật một số nước trên thế giới về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong thương mại điện tử

1.2.4.1. Quy định của Liên Hợp Quốc về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong thương mại điện tử

Hướng dẫn của Liên Hợp Quốc về bảo vệ người tiêu dùng (UNGCP) đã được đại Hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua trong nghị quyết 39/248 ngày 16/04/1985. Hướng dẫn được ban hành sau một chiến dịch dài được tiến hành bởi các hiệp hội người tiêu dùng ở nhiều nước với sự đứng đầu của Người tiêu dùng Quốc tế (trước đây là Tổ chức quốc tế của hiệp hội người tiêu dung) đã kêu gọi Liên Hợp Quốc soạn thảo một hướng dẫn chung về bảo vệ người tiêu dùng tại đại hội thế giới ở Sydney năm 1975. Vào năm 1977 Hội đồng kinh tế và xã hội của Liên Hợp Quốc (ECOSOC) chỉ đạo chuẩn bị một cuộc khảo sát về pháp luật trong lĩnh vực bảo vệ người tiêu dùng với quan điểm xây dựng một bộ hướng dẫn chung cho bảo vệ người tiêu dung, đặc biệt tính đến nhu cầu của các nước đang phát triển. Dự thảo hướng dẫn đã được gửi tới các quốc gia thành viên để lấy ý kiến vào năm 1982 và Hướng dẫn này đã được soạn thảo trên nhiều nguồn bao gồm OECD, Tuyên ngôn nhân quyền về người tiêu dùng của Hoa Kỳ và tài liệu từ các cơ quan bảo vệ người tiêu dùng quốc gia và các hiệp hội bảo vệ người tiêu dùng. Cuối cùng những hướng dẫn này đã được thông qua bởi Đại hội đồng vào năm 1985. Mười bốn năm sau, Hướng dẫn này được bổ sung thêm một phần mới về tiêu dùng bền vững tại Nghị quyết E/1999/INF/2/Add.2 ngày 26/7/1999.

Hướng dẫn sửa đổi của Liên hợp quốc về bảo vệ người tiêu dùng (UNGCP), được thông qua năm 2015, đưa ra các đặc điểm chính của pháp luật bảo vệ người tiêu dùng một cách hiệu quả, các tổ chức thực thi và hệ thống yêu cầu bồi thường. Hướng dẫn này bao gồm một phần cụ thể về thương mại điện tử, trong đó nêu bật một số hướng dẫn chính để đảm bảo rằng người tiêu dùng được bảo vệ trong môi trường thương mại điện tử giống như trong các loại hình thương mại khác. Đồng thời Hướng dẫn 64 yêu cầu các quốc gia thành viên “đáp ứng các tính năng đặc biệt của thương mại điện tử”, và nhấn mạnh nhận thức về quyền và nghĩa vụ của người tiêu dùng và thương nhân trong môi trường kỹ thuật số. Hướng dẫn số 65 kêu gọi về việc hợp tác xuyên quốc gia và đề nghị các quốc gia thành viên nghiên cứu cũng như học tập các hướng dẫn của OECD về Bảo vệ người tiêu dùng trong thương mại điện tử. Mặc dù không ràng buộc về mặt pháp lý, Hướng dẫn này được chấp nhận rộng rãi như là chuẩn mực quốc tế về những hành vi chuẩn mực trong bảo vệ người tiêu dùng.

1.2.4.2.   Hướng dẫn của OECD về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong thương mại điện tử

Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) là một diễn đàn kinh tế quốc tế, được thành lập vào năm 1961 với mục đích thúc đẩy và phát triển kinh tế và thương mại trên phạm vi toàn cầu. OECD thực hiện mục tiêu của mình thông qua việc trao đổi kinh nghiệm giữa các quốc gia, cùng tìm cách giải quyết các vấn đề chung, nhận diện và giới thiệu các mô hình thực tiễn đạt kết quả tốt cũng như tăng cường hợp tác và phối hợp chính sách quốc nội và quốc tế. Hiện tại OECD có 34 thành viên, chủ yếu là các quốc gia có nền kinh tế phát triển.

Không lâu sau sự bùng nổ của internet vào giữa những thập niên 90 của thế kỷ XX, OECD đã nhận ra tiềm năng và tầm ảnh hưởng của công cụ này đối với sự phát triển của nền kinh tế thế giới. Tuy nhiên, điều này cũng tiềm ẩn những nguy cơ nhất định, mà một trong số đó chính là đe dọa tới quyền lợi của người tiêu dùng. Giao dịch qua internet tạo ra sự thuận lợi, nhưng cũng chính điều này sẽ khiến cho người tiêu dùng dễ bị lừa dối nếu không được bảo vệ hợp lý và không có những kiến thức cần thiết. Do đó, OECD đã cùng bàn bạc để hình thành nên một bản hướng dẫn nhằm giúp các quốc gia định hướng cho pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng của mình sao cho phù hợp với sự phát triển của internet nói chung và TMĐT nói riêng.

Sau 18 tháng nghiên cứu và làm việc, vào ngày 9 tháng 12 năm 1999, OECD đã thông qua “Bản hướng dẫn về Bảo vệ Người tiêu dùng trong Bối cảnh TMĐT” (gọi tắt là Bản hướng dẫn của OECD). Nguyên tắc chung xuyên suốt Bản hướng dẫn này là người tiêu dùng tham gia TMĐT sẽ nhận được sự bảo vệ không kém hơn so với khi tham gia các hoạt động thương mại thông thường. Bản hướng dẫn được chia làm 4 phần lớn: Phạm vi điều chỉnh, các nguyên tắc chung, hướng dẫn thực thi và hợp tác quốc tế. Trong đó, nội dung chính của Bản hướng dẫn tập trung ở phần các nguyên tắc chung trong từng hoạt động bảo vệ người tiêu dùng trong TMĐT:

-  Bảo vệ một cách minh bạch và hiệu quả: Như đã nêu trên, đây là nguyên tắc chủ đạo của Bản hướng dẫn, do đó được đặt ở vị trí đầu tiên trong số các nguyên tắc chung. Theo đó, khi tham gia hoạt động TMĐT, người tiêu dùng được bảo vệ không kém hơn khi tham gia bất kỳ hoạt động thương mại thông thường nào khác.

-  Tiếp thị, quảng cáo và thương mại công bằng: Trong hoạt động TMĐT, doanh nghiệp phải thực hiện việc quảng cáo và tiếp thị rõ ràng và nhất quán; không được lừa dối hay che giấu danh tính, địa điểm kinh doanh của mình. Các thông tin đưa ra phải rõ ràng và chính xác, đồng thời người tiêu dùng có thể dễ dàng tiếp cận những thông tin đó. Ngoài ra, khi tham gia giao kết hợp đồng, doanh nghiệp không được phép đưa ra những điều khoản không công bằng, gây bất lợi cho người tiêu dùng. Quyết định của người tiêu dùng khi tham gia các hoạt động TMĐT như giao kết hợp đồng, lựa chọn nhận hoặc không nhận email quảng cáo, tiếp thị… cũng phải được tôn trọng.

Nếu như nguyên tắc bảo vệ một cách minh bạch và hiệu quả là nguyên tắc gốc của Bản hướng dẫn thì nguyên tắc tiếp thị, quảng cáo và thương mại công bằng có thể coi là nội dung cụ thể hóa của nguyên tắc trên. Tính công bằng là mấu chốt trong việc bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, khi mà trong hoạt động TMĐT, họ là bên yếu thế hơn rất nhiều. Đảm bảo được tính công bằng là một điều rất khó, nhưng lại là nền tảng để hoạt động bảo vệ người tiêu dùng đạt được hiệu quả.

-   Về vấn đề thông tin trong TMĐT, OECD phân chia thành ba nhóm nguyên tắc: thông tin về doanh nghiệp; thông tin về hàng hóa, dịch vụ và thông tin về giao dịch. Yêu cầu bao trùm toàn bộ việc cung cấp thông tin là tính chính xác và dễ tiếp cận đối với người tiêu dùng.

+ Thông tin về doanh nghiệp: Khi tham gia hoạt động TMĐT, doanh nghiệp nhất thiết phải cung cấp các thông tin nhận diện (như tên doanh nghiệp, địa chỉ của doanh nghiệp, các thông tin liên hệ…). Những thông tin này giúp cho người tiêu dùng có thể liên lạc một cách nhanh chóng, dễ dàng và hiệu quả với doanh nghiệp khi phát sinh các vấn đề có liên quan. Bên cạnh đó, đáng chú ý là các doanh nghiệp còn cần đưa ra những biện pháp giải quyết tranh chấp phù hợp và hiệu quả.

+ Thông tin về hàng hóa, dịch vụ: Người tiêu dùng đưa ra quyết định có tham gia giao dịch hay không chủ yếu dựa vào những thông tin về hàng hóa, dịch vụ mà họ được cung cấp khi tham gia TMĐT. Do đó, người tiêu dùng có quyền được tiếp cận với những thông tin một cách nhanh chóng, thuận tiện và dễ dàng nhất.

+ Thông tin về giao dịch: Trước hết, các thông tin về giao dịch cần được thể hiện rõ ràng, minh bạch và dễ hiểu. Những thông tin có liên quan cũng phải đáp ứng yêu cầu này. Trong khi giao dịch, những điều kiện và điều khoản liên quan cần được cung cấp một cách đầy đủ và rõ ràng. Người tiêu dùng cũng có quyền được xem xét lại các thông tin trước khi thực hiện giao dịch. Khi giao dịch được thực hiện bằng nhiều thứ tiếng thì các thông tin liên quan cũng phải được dịch đầy đủ ra những thứ tiếng này. Ngoài ra, sau khi giao dịch, các thông tin này cần được lưu trữ lại như một dạng bằng chứng giao dịch nhằm phục vụ cho việc giải quyết các tranh chấp có thể phát sinh sau này.

-  Xác nhận giao dịch: Khi tham gia các giao dịch TMĐT, người tiêu dùng rất dễ mắc phải những sai lầm do sự phức tạp của công nghệ thông tin. Do đó, việc xác nhận giao dịch có vai trò quan trọng trong việc xác định sự đồng ý tham gia giao dịch của người tiêu dùng. Trước khi thực hiện việc xác nhận giao dịch, người tiêu dùng có các quyền sau:

+ Nhận diện chính xác hàng hóa, dịch vụ mà mình định mua.

+ Phát hiện và sửa các lỗi mắc phải trong quá trình thực hiện giao dịch.

+ Lưu lại các thông tin về giao dịch.

+ Hủy bỏ giao dịch.

Theo như Bản hướng dẫn của OECD, người tiêu dùng có thể hủy bỏ giao dịch khi chưa xác nhận giao dịch. Tuy nhiên, OECD không đề cập tới quyền hủy bỏ giao dịch sau khi đã xác nhận. Trên thực tế, có những trường hợp người tiêu dùng xác nhận giao dịch do thao tác nhầm hoặc do nhầm lẫn. Đối với những trường hợp này, quyền hủy bỏ giao dịch vẫn có thể được trao cho người tiêu dùng, nhưng cần kèm theo một số nghĩa vụ như thông báo ngay cho doanh nghiệp hoặc giải thích về những nhầm lẫn của mình khi thực hiện giao dịch. Như vậy tính công bằng sẽ được đảm bảo hơn, người tiêu dùng sẽ không phải chịu những thiệt thòi không đáng có trong quá trình giao dịch.

-  Thanh toán: Bản hướng dẫn của OECD nêu rõ: Khi tham gia giao dịch TMĐT, người tiêu dùng cần được cung cấp cơ chế thanh toán dễ dàng và bảo mật. OECD là tổ chức có nhiều thành viên là các quốc gia phát triển, do đó hình thức thanh toán trực tuyến ở các quốc gia này là khá phổ biến và thông dụng. Đối với hình thức thanh toán trực tuyến, việc bảo mật thông tin là một trong những yếu tố quan trọng khiến người tiêu dùng đặt niềm tin vào các giao dịch sử dụng hình thức thanh toán này. Tuy nhiên, OECD cũng đã dự tính tới vấn đề thanh toán trực tuyến tại các quốc gia kém phát triển hơn khi đưa ra quy định về thanh toán đơn giản và thuận tiện.

-  Giải quyết tranh chấp và bồi thường: OECD rất chú trọng đến tính xuyên biên giới của hoạt động TMĐT, đây là điều cần lưu tâm trong việc bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong hoạt động này. Trước hết, khi xảy ra tranh chấp, các vấn đề về thẩm quyền tài phán và luật áp dụng cần được xác định rõ. Muốn vậy, trong pháp luật của từng quốc gia, những vấn đề này cần được quy định rõ ràng. Bản hướng dẫn của OECD nhấn mạnh rằng pháp luật của từng quốc gia cũng cần đưa ra những quy định công bằng để giải quyết tranh chấp giữa doanh nghiệp và người tiêu dùng. Ngoài ra, vấn đề này đòi hỏi phải có cơ chế hợp tác tốt giữa ba bên: doanh nghiệp – đại diện người tiêu dùng và Nhà nước.

1.2.4.3.   Pháp luật của Liên minh Châu Âu về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong thương mại điện tử

Trong lĩnh vực bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong TMĐT, EU đã ban hành khá nhiều văn bản và hầu hết đều ở dạng Chỉ thị (Directive). Chỉ thị của EU có đặc điểm là văn bản pháp lý mang tính bắt buộc chung với các quốc gia thành viên được xác định trong đó. Tuy nhiên, Chỉ thị chỉ đưa ra những quy định mang tính “khung” hoặc những mục tiêu cần thực hiện mà không áp đặt cách thức thực hiện. Do vậy, các quốc gia thành viên cần nội luật hóa những Chỉ thị này và được tự do lựa chọn hình thức cũng như phương thức áp dụng. Việc điều chỉnh các vấn đề về bảo vệ người tiêu dùng trong TMĐT vào các Chỉ thị là một quyết định rất đúng đắn của EU. TMĐT luôn biến đổi không ngừng và khó có thể lường trước được. Nếu EU áp đặt các quy định cho tất cả các quốc gia thì việc điều chỉnh hệ thống pháp luật ở từng nước sẽ kém linh hoạt và khó có thể bắt kịp với sự biến động của TMĐT. Hơn nữa, trong vấn đề này, mỗi quốc gia cần cân nhắc tình hình thực tế trong nước thì mới có thể đưa ra những quy định phù hợp.

Các văn bản quan trọng đề cập đến vấn đề này bao gồm: Chỉ thị 2011/83/EU về Quyền của NTD, Chỉ thị 2000/31/EC về TMĐT, Chỉ thị 2013/11/EU về các phương thức giải quyết tranh chấp thay thế ADR đối với người tiêu dùng, Quy định số 524/2013 về phương thức giải quyết tranh chấp trực tuyến ODR, bên cạnh đó Chỉ thị về Bảo mật và truyền thông điện tử 2002 và Quy định bảo vệ dữ liệu chung 2016 đang là hai trụ cột chính của khung pháp lý bảo vệ dữ liệu của EU.

* Chỉ thị về Quyền của NTD

Chỉ thị về Quyền của Người tiêu dùng thể hiện quy định nền tảng của các hợp đồng tiêu dùng liên quan đến thương mại điện tử. Đặc biệt, nó quy định nghĩa vụ thông tin trước hợp đồng và quyền của người tiêu dùng về việc rút khỏi hợp đồng từ xa. Hợp đồng từ xa được định nghĩa là ‘bất kỳ hợp đồng nào được ký kết giữa thương nhân và người tiêu dùng trong giao dịch từ xa với việc sử dụng một hoặc nhiều phương tiện liên lạc từ xa (như đặt hàng qua thư, internet, điện thoại hoặc fax), do đó theo Chỉ thị này, tất cả các hợp đồng được ký kết trực tuyến đều được coi là hợp đồng từ xa31. Phạm vi điều chỉnh của Chỉ thị về Quyền của NTD chỉ tập trung vào các giao dịch giữa doanh nghiệp và người tiêu dùng (B2C) nên có thể nói trong số các văn bản của EU về bảo vệ người tiêu dùng trong TMĐT thì đây là văn bản có tính “bảo vệ” trực tiếp nhất.

Liên quan đến vấn đề bảo vệ người tiêu dùng trong TMĐT, Chỉ thị đưa ra các quy định về nghĩa vụ cung cấp thông tin, quyền rút khỏi hợp đồng, việc thực hiện nghĩa vụ của bên cung cấp, vấn đề thanh toán, cơ chế khiếu nại… Trong số đó, những điểm đáng chú ý nhất nằm ở nghĩa vụ về thông tin và quyền rút khỏi hợp đồng của người tiêu dùng.

Về nghĩa vụ thông tin, khoản 1 Điều 6 của Chỉ thị quy định: trong một khoảng thời gian hợp lý trước khi giao kết hợp đồng, người tiêu dùng phải được cung cấp một số thông tin nhất định như: thông tin nhận diện về bên cung cấp; đặc tính chính của hàng hóa, dịch vụ; giá cả (bao gồm cả thuế); chi phí vận chuyển; thỏa thuận thanh toán và thực hiện nghĩa vụ, quyền rút khỏi hợp đồng; hiệu lực của chào hàng…

Về quyền rút khỏi hợp đồng, Điều 9 của Chỉ thị đã xác định rõ thời hạn đối với quyền này cũng như các cách tính thời hạn trong những trường hợp cụ 31 Điều 2(7) Chỉ thị số 2011/83/EU của Liên minh Châu Âu về Quyền của người tiêu dùng thể.  Quyền rút khỏi hợp đồng là một trong những “ưu ái” mà pháp luật dành cho người tiêu dùng để cân bằng ưu thế giữa họ với các doanh nghiệp cung cấp hàng hóa và cung ứng dịch vụ. Khi tham gia hợp đồng bán hàng từ xa nói chung và hợp đồng TMĐT nói riêng, người tiêu dùng không được trực tiếp tiếp xúc để đánh giá chất lượng cũng như độ phù hợp của hàng hóa, dịch vụ đối với mình trong thực tiễn. Do vậy, họ có quyền rút khỏi hợp đồng ngay cả khi đã nhận được hàng hóa, dịch vụ.

Chỉ thị quy định rằng người tiêu dùng có thể rút khỏi hợp đồng trong thời hạn là 14 ngày mà không cần đưa ra lý do và cũng không phải chịu bất kỳ chi phí nào. Thời hạn 14 ngày được bắt đầu tính từ ngày người tiêu dùng nhận hàng hóa (đối với hợp đồng về hàng hóa) hoặc từ ngày hợp đồng được ký kết (đối với hợp đồng cung ứng dịch vụ). Tuy nhiên, đối với một số loại hợp đồng như hợp đồng dịch vụ về trò chơi và xổ số, hợp đồng cung cấp báo và tạp chí, hợp đồng mà trong đó hàng hóa và dịch vụ bị chi phối bởi thị trường tài chính và không thuộc tầm kiểm soát của bên cung cấp… thì người tiêu dùng sẽ không có quyền rút khỏi hợp đồng.

Như vậy, có thể nhận định rằng Chỉ thị về Quyền của NTD đã trao cho người tiêu dùng một đặc quyền giúp họ bớt yếu thế hơn so với doanh nghiệp trong hoạt động TMĐT. Tuy nhiên, không phải vì thế mà quyền lợi của doanh nghiệp bị ảnh hưởng. Chỉ thị đã quy định rõ về các trường hợp rút khỏi hợp đồng cũng như chỉ rõ thời hạn của việc rút khỏi hợp đồng trong từng trường hợp cụ thể. Chính những quy định này đã phần nào tạo ra sự cân bằng về lợi ích, khi mà doanh nghiệp được quyền từ chối việc rút khỏi hợp đồng của người tiêu dùng trong một số trường hợp mà việc đó gây ra ảnh hưởng tới họ.

Chỉ thị Quyền của NTD đã tạo ra khung pháp lý đầu tiên đối với vấn đề bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong TMĐT ở châu Âu. Mặc dù chưa điều chỉnh toàn diện các vấn đề bảo vệ người tiêu dùng trong TMĐT cũng như chưa tập trung vào những đặc thù của TMĐT, tuy nhiên Chỉ thị này đã giúp các quốc gia thành viên của EU bước đầu hình dung được về việc bảo vệ người tiêu dùng trong hoạt động này.

Chỉ thị 2000/31/EC về TMĐT

Mặc dù không trực tiếp đề cập tới việc bảo vệ người tiêu dùng trong TMĐT nhưng Chỉ thị 2000/31/EC vẫn được đánh giá là một bước hoàn thiện về pháp luật của EU trong lĩnh vực này. Chỉ thị 2000/31/EC tập trung vào hai mục đích chính: thúc đẩy sự phát triển của TMĐT và củng cố lòng tin của người tiêu dùng khi tham gia các hoạt động của TMĐT.

Các nghĩa vụ được Chỉ thị 2000/31/EC chú trọng là nghĩa vụ về thông tin, vấn đề quản lý thư rác và các vấn đề liên quan đến hợp đồng điện tử.

Các Chỉ thị về bảo mật thông tin

Bảo mật thông tin luôn là một yếu tố quan trọng, đặc biệt là với TMĐT. Do vậy, EC cũng không thể bỏ qua vấn đề này khi quy định về bảo vệ người tiêu dùng trong TMĐT. Các Chỉ thị liên quan đến vấn đề này bao gồm: Chỉ thị 95/46/EC về Bảo vệ dữ liệu đã được thay thế bởi Quy định bảo vệ dữ liệu chung 2016 (General Data Protection Regulation – GDPR). GDPR được xây dựng dựa trên nền tảng của Chỉ thị Bảo vệ dữ liệu 1995, nhưng có cập nhật và hiện đại hóa hơn với mục đích đối phó với những thách thức đặt ra bởi nền kinh tế kỹ thuật số. Khác với GDPR, Chỉ thị về Bảo mật và truyền thông điện tử 2002 (được sửa đổi năm 2009) quy định các quy tắc về quyền riêng tư và thông tin liên lạc được mã hóa, với mục đích bảo vệ các quyền cơ bản và quyền tự do (đặc biệt là quyền riêng tư) đối với việc xử lý dữ liệu cá nhân trong lĩnh vực viễn thông trong mạng điện tử công cộng và đảm bảo sự di chuyển tự do của dữ liệu đó. Tuy nhiên, trên thực tế Chỉ thị này được thực thi kém hiệu quả do việc thực hiện phân tán của các quốc gia thành viên và không theo kịp với sự phát triển của công nghệ. Do đó, Ủy bản Châu Âu đã công bố một đề xuất lập pháp khác nhằm điều chỉnh các quy tắc hiện hành phù hợp với sự phát triển của công nghệ, đồng thời đề xuất dự định sẽ bãi bỏ Chỉ thị về Bảo mật và truyền thông điện tử 2002, thay vào đó sẽ cụ thể hóa và bổ sung cho GDPR.

*   Chỉ thị về phương thức giải quyết tranh chấp giữa NTD và thương nhân

Chỉ thị 2013/11/EU về các phương thức giải quyết tranh chấp thay thế ADR đối với người tiêu dùng. Giải quyết tranh chấp thay thế (ADR) cung cấp một giải pháp bên ngoài tòa án đơn giản, nhanh chóng và chi phí thấp để giải quyết tranh chấp giữa người tiêu dùng và thương nhân. Quy định số 524/2013 về phương thức giải quyết tranh chấp trực tuyến ODR bổ sung thêm cho Chỉ thị này các nền tảng và công cụ trực tuyến để giải quyết tranh chấp hữu hiệu hơn trong môi trường thương mại điện tử. Chỉ thị góp phần bảo vệ hữu hiệu quyền lợi của NTD trong thương mại truyền thống cũng như thương mại điện tử bằng cách quy định NTD có quyền gửi khiếu nại của mình tới các chủ thể ADR và đảm bảo các chủ thể này phải đáp ứng các yêu cầu về tính độc lập, vô tư, minh bạch, hiệu quả, nhanh chóng và công bằng trong giải quyết tranh chấp. Có thể nói, hệ thống các quy định của Liên minh Châu Âu về bảo vệ

NTD trong TMĐT được thiết lập bởi một loạt các Chỉ thị và Quy định điều chỉnh nhiều vấn đề liên quan đến NTD và TMĐT nói riêng. Tuy nhiên mục đích của các quy định này đều nhằm mục tiêu tăng cường sự đảm bảo cho NTD khi giao kết hợp đồng thông qua phương tiện điện tử. Hệ thống pháp luật của EU được đánh giá là đa dạng, bao quát hầu hết các vấn đề phát sinh trong sự tăng trưởng nhanh chóng của TMĐT trong thời

Theo: Nguyễn Ngọc Quyên

Link luận án: 

https://docs.google.com/document/d/1ogQOOGL1pXDZfSUNkdQ6ztG4GbkMmxMo/edit?usp=drive_web&ouid=102249775144483111159&rtpof=true

avatar
Đặng Quỳnh
585 ngày trước
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƯỜI TIÊU DÙNG TRONG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ
1.Khái quát chung về quyền lợi của người tiêu dùng trong thương mại điện tử1.2.1.   Khái niệm pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong thương mại điện tửCó nhiều lý do cho sự ra đời của pháp luật bảo vệ NTD, đặc biệt nhấn mạnh tới vị trí yếu thế của người tiêu dùng trong các giao dịch thương mại. Người tiêu dùng cần được trao thêm quyền để đưa ra lựa chọn sáng suốt về hàng hóa và dịch vụ mà họ mua. Lợi ích của họ cần được thúc đẩy và bảo vệ, đặc biệt khi thị trường mà họ tham gia có nhiều sự phức tạp và rủi ro như TMĐT.Để đáp ứng các nhu cầu cơ bản, loài người luôn phải mua, bán hàng hóa và cung cấp dịch vụ. Vì lý do này, mối quan hệ của người tiêu dùng với thương nhân luôn tồn tại. Nhưng mối quan hệ giữa người tiêu dùng với thương nhân không phải lúc nào cũng được bảo vệ bởi các hệ thống pháp luật khác nhau trên thế giới.Trong Luật La Mã, là nguồn chính của phần lớn các hệ thống luật dân sự hiện hành, người mua đã có một số hành động pháp lý chống lại người bán trong các trường hợp cụ thể, bao gồm:(i)   hoàn trả giá đã thanh toán khi hàng hóa bán ra không phù hợp với chất lượng khai báo (Actio Redhibitoria);(ii)  giảm giá (Quanti Minoris) và;(Iii) đòi bồi thường từ người bán khi bên thứ ba tuyên bố quyền sở hữu đối với hàng hóa được bán (Eviction)Trong những thế kỷ tiếp theo, không có sự bảo vệ cụ thể nào cho người tiêu dùng. Hợp đồng mua bán hàng hóa hoặc dịch vụ theo nguyên tắc tự do hợp đồng và Nhà nước không can thiệp vào thỏa thuận hoặc hợp đồng giữa các chủ thể.Mục đích chính của việc ban hành Luật Bảo vệ người tiêu dùng là ngăn chặn sự lạm dụng khả năng thương lượng vượt trội của người bán, đồng thời điều chỉnh sự bất bình đẳng về khả năng thương lượng giữa họ và người tiêu dùng. Vấn đề này dựa trên việc bảo vệ người tiêu dùng chống lại các hành vi không lành mạnh của người bán trong tất cả các giai đoạn sản xuất, cung cấp và phân phối.Nói chung, Internet đang phát triển hàng ngày và trở thành một thị trường đa dạng cho người tiêu dùng. Do đó, sẽ không thật sự hợp lý khi cố gắng phát triển thương mại điện tử mà không đặt các giao dịch của người tiêu dùng trong một khung pháp lý cụ thể. Lý giải cho điều này là người tiêu dùng đại diện cho bên yếu hơn trong hợp đồng và điểm yếu của họ có thể tăng lên đáng kể trong môi trường điện tử do sự vắng mặt của các bên. Đây là lý do tại sao, trong vài thập kỷ qua, nhiều quốc gia, đặc biệt là các quốc gia phát triển, đã quan tâm nghiêm túc về bảo vệ người tiêu dùng và đặc biệt là bảo vệ người tiêu dùng trong thương mại điện tử. Ví dụ điển hình như tại Châu Âu, số lượng các văn bản pháp luật điều chỉnh các vấn đề của người tiêu dùng trong cả môi trường ngoại tuyến và trực tuyến tương đối nhiều và cụ thể.Pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng là lĩnh vực pháp luật điều chỉnh các quan hệ giữa người tiêu dùng với các thương nhân khi người tiêu dùng mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ của thương nhân đó; quy định những quyền của người tiêu dùng và trách nhiệm của thương nhân trong các giao dịch. Trong đó, pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng trong thương mại điện tử là một bộ phận của pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng, vì vậy có thể định nghĩa như sau: “Pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong thương mại điện tử là một lĩnh vực pháp luật bao gồm hệ thống các nguyên tắc và quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành, quy định các biện pháp nhằm đảm bảo quyền lợi của người tiêu dùng khi tham gia các hoạt động thương mại điện tử với tổ chức, cá nhân kinh doanh”.Pháp luật bảo vệ quyền lợi NTD trong TMĐT được đặt ra nhằm quy định quyền và nghĩa vụ của người tiêu dùng cũng như thương nhân trong thương mại điện tử và cách thức thực thi những quy định đó, đồng thời cân bằng lại vị trí yếu thế của người tiêu dùng trong mối quan hệ với thương nhân trong môi trường điện tử.1.2.2. Đặc điểm pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong thương mại điện tửPháp luật BVQLNTD trong TMĐT là một bộ phận trong Pháp luật BVQLNTD nói chung nên nó vẫn mang những đặc điểm của lĩnh vực pháp luật này, tuy nhiên nó vẫn có những đặc điểm riêng biệt gắn liền với bản chất của TMĐT, đó là:·    Pháp luật BVQLNTD trong TMĐT trao thêm quyền cho người tiêu dùng, đồng thời bổ sung các trách nhiệm đặc thù cho tổ chức, cá nhân kinh doanh nhằm bảo vệ người tiêu dùng khỏi các rủi ro mà thương mại điện tử mang lại trong khi vẫn được hưởng đầy đủ các lợi ích của thương mại điện tử.Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng có ý nghĩa và vai trò quan trọng trong việc áp dụng các biện pháp nhằm cân bằng quyền lợi giữa NTD với thương nhân trong TMĐT và bảo đảm khả năng thực thi các quy định này. Đồng thời cho phép nhà nước kiểm soát các thương nhân tham gia thị trường thông qua thủ tục đăng ký và cấp phép nhằm tăng mức độ bảo vệ cho người tiêu dùng.Về lý thuyết, pháp luật bảo vệ người tiêu dùng trong TMĐT phải đảm bảo điều chỉnh hầu hết các khía cạnh của mối quan hệ giữa người tiêu dùng với thương nhân, cụ thể là giai đoạn trước khi mua hàng (bao gồm trách nhiệm cung cấp thông tin, hành vi thương mại lành mạnh v.v.), giai đoạn mua hàng bao gồm các điều khoản hợp đồng không công bằng, bảo mật thanh toán trực tuyến, v.v.) và giai đoạn sau khi mua hàng (bao gồm giải quyết tranh chấp, yêu cầu bồi thường, v.v.) để khắc phục vị trí thương lượng yếu thế và sự bất cân xứng thông tin của NTD so với tổ chức, cá nhân kinh doanh.· Pháp luật BVQLNTD trong TMĐT gắn liền với quy định về công nghệ và sự mở rộng, phát triển của TMĐT.Chuyển đổi kỹ thuật số đang tác động sâu sắc đến nền kinh tế và xã hội của chúng ta, thay đổi cách thức người tiêu dùng tương tác với nhau và cách thức thị trường trực tuyến hoạt động. Dữ liệu người tiêu dùng, trong bối cảnh này, đã trở thành một tài sản kinh tế thiết yếu cung cấp cho một loạt các mô hình kinh doanh, công nghệ đồng thời xuất hiện nhiều dạng giao dịch mới và sáng tạo.Người tiêu dùng trên toàn cầu đang trải qua thời kỳ thay đổi nhanh chóng khi chuyển đổi kỹ thuật số mang đến các công nghệ mới, mô hình kinh doanh, giao dịch, cũng như một loạt các hàng hóa và dịch vụ sáng tạo ví dụ như Internet Vạn vật (Internet of Things - IoT), trí tuệ nhân tạo (AI) và các nền tảng trực tuyến mới như thị trường nền tảng ngang hàng (PPM). Các công nghệ mới mang lại nhiều lợi ích và trải nghiệm tốt hơn cho người tiêu dùng nhưng đồng thời cũng đặt ra nhiều thách thức mà cơ quan nhà nước và các bên liên quan khác phải đối mặt và giải quyết nhằm đảm bảo quyền lợi cho người tiêu dùng.Cơ quan có thẩm quyền cần xem xét làm thế nào để thích ứng và thực hiện các chính sách về bảo vệ người tiêu dùng trong thời đại tiến bộ công nghệ nhanh chóng này. Mặc dù chính sách bảo vệ người tiêu dùng thường trung lập về công nghệ và đủ rộng để bao quát các công nghệ và mô hình kinh doanh mới, các cơ quan xây dựng pháp luật nên liên tục theo dõi và phân tích sự phát triển trên thị trường thương mại điện tử để đảm bảo rằng người tiêu dùng được bảo vệ đầy đủ và có thể hưởng lợi từ các thị trường đó.· Pháp luật BVQLNTD trong TMĐT mở rộng phạm vi đối tượng áp dụng thêm cả các bên trung gian, hỗ trợ giao dịch điện tử giữa NTD và tổ chức, cá nhân kinh doanh.Quan hệ trong TMĐT thông thường bao gồm ít nhất ba chủ thể: người tiêu dùng, nhà cung cấp sản phẩm và bên thứ ba, là nhà cung cấp dịch vụ mạng, các cơ quan chứng thực giao dịch TMĐT. Bên thứ ba này đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra môi trường cho các giao dịch TMĐT; giữ nhiệm vụ chuyển và lưu giữ thông tin giữa các bên tham gia giao dịch TMĐT đồng thời họ cũng xác nhận độ tin cậy của các thông tin trong giao dịch TMĐT. Do đó, họ cũng là những chủ thể phải chịu trách nhiệm trong việc bảo vệ người tiêu dùng cùng với nhà cung cấp sản phẩm.Ngoài ra, trong một số trường hợp, NTD mua hàng hoá, dịch vụ từ sàn giao dịch TMĐT (ví dụ như Lazada, Tiki…) thì bên cạnh người bán, là người trực tiếp cung cấp sản phẩm cho NTD, còn có sự tham gia của thương nhân cung cấp dịch vụ TMĐT. Đồng thời, trong giao dịch TMĐT hiện nay có sự tham gia của rất nhiều bên hỗ trợ cho giao dịch đó như bên trung gian thanh toán không dùng tiền mặt (ví điện tử, thẻ tín dụng,…) hay các bên cung cấp dịch vụ giao hàng, kho vận… Vì lẽ đó, Pháp luật BVQLNTD trong TMĐT cần bao quát hết tất cả các chủ thể có tham gia vào mối quan hệ giữa NTD với thương nhân khi mua bán hàng hoá, cung cấp dịch vụ thông qua phương tiện điện tử nhằm bảo vệ tối ưu cho NTD.· Pháp luật BVQLNTD trong TMĐT hỗ trợ sự tăng trưởng hơn nữa của thị trường thương mại điện tử, vì lợi ích của người tiêu dùng và doanh nghiệp.Bảo vệ người tiêu dùng có thể được coi là một yếu tố quan trọng trong các cơ sở pháp lý để phát triển thương mại điện tử. Khung pháp lý điều chỉnh các vấn đề của thương mại điện tử gồm rất nhiều quy định khác nhau như các quy định về hình thành hợp đồng, quyền tài phán, thanh toán điện tử, chữ ký điện tử, ký kết hợp đồng, bảo mật dữ liệu…. Với một môi trường tiềm ẩn nhiều rủi ro cho người tiêu dùng như thương mại điện tử, việc tạo dựng lòng tin với NTD thường khó khăn hơn do đây là môi trường mua sắm với các yếu tố đặc thù như: tính bất định, tính ẩn danh, sự phức tạp và rủi ro tiềm tàng từ các yếu tố công nghệ. Và để TMĐT thật sự phát triển đúng tiềm năng của nó đòi hỏi người tiêu dùng khi tham gia giao dịch phải có sự tin tưởng, tin tưởng rằng quyền lợi của mình được tôn trọng và đảm bảo bởi pháp luật, có thế NTD mới đẩy mạnh việc sử dụng phương tiện điện tử cho mục đích mua bán hàng hoá, dịch vụ.1.2.3.   Cấu trúc nội dung và cấu trúc hình thức của pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong thương mại điện tử ở Việt Nam1.2.3.1.   Cấu trúc hình thức của pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong thương mại điện tử ở Việt NamViệt Nam là một trong nhưng nước đi đầu trong việc xây dựng pháp luật bảo vệ quyền lợi NTD ở khu vực Đông Nam Á. Mặc dù chưa có một văn bản cụ thể bảo vệ quyền lợi NTD trong TMĐT nhưng hiện tại cũng có khá nhiều các văn bản điều chỉnh nội dung này. Hệ thống văn bản điều chính bao gồm các văn bản về pháp luật bảo vệ quyền lợi NTD và các văn bản điều chỉnh về TMĐT.i. Hệ thống văn bản pháp luật bảo vệ quyền lợi NTD· Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng 2010:Đầu tiên phải kể đến là Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010 được Quốc hội thông qua tại kì họp thứ VIII, ngày 17 tháng 11 năm 2010. Ngày Luật ra đời thay thế cho Pháp lệnh Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 1999 đã đánh dấu một bước ngoặt lớn trong công cuộc bảo vệ quyền lợi NTD và thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước ta đối với vấn đề cấp thiết này. Luật quy định về quyền và nghĩa vụ của NTD, trách nhiệm của tố chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa dịch vụ đối với NTD, trách nhiệm của các tổ chức xã hội trong việc tham gia bảo vệ quyền lợi NTD. Bên cạnh đó Luật còn quy định về hướng giải quyết các tranh chấp giữa NTD với tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa dịch vụ, các biện pháp để NTD tự bảo vệ quyền lợi của mình và trách nhiệm quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi NTD.Luật Bảo vệ quyền lợi NTD ra đời đã cụ thể hóa và bổ sung thêm nhiều các quyền cũng như nghĩa vụ của NTD. Bên cạnh đó, để bảo đảm cho những quyền của NTD được thực hiện, Luật đã quy định cụ thể trách nhiệm của cá nhân, tổ chức kinh doanh cũng như các cơ quan, tổ chức trong việc bảo vệ quyền lợi NTD. Đối với riêng lĩnh vực TMĐT thì tại Điều 13 và 14 Luật đã có đề cập. Cụ thể, tại Điều 13 Luật đưa quy định về vấn đề cung cấp thông tin cho NTD thông qua phương tiện điện tử. Theo đó, khi sử dụng phương tiện điện tử để cung cấp thông tin, chủ thể kinh doanh phải đáp ứng một số yêu cầu luật định. Tại Điều 14 Luật quy định chủ thể kinh doanh phải tạo điều kiện để NTD xem xét toàn bộ hợp đồng trước khi giao kết. Như vậy, dù chưa chi tiết và đầy đủ nhưng có thể nói Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng 2010 đã quan tâm tới vấn đề bảo vệ NTD trong TMĐT.· Các văn bản hướng dẫn Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng 2010Trong số những văn bản này, trước tiên phải kể đến Nghị định 99/2011/NĐ – CP của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Nghị định này quy định về bảo vệ quyền lợi NTD trong giao dịch với cá nhân hoạt động thương mại độc lập, thường xuyên không phải đăng ký kinh doanh; hợp đồng giao kết với NTD và điều kiện giao dịch chung; giải quyết yêu cầu bảo vệ quyền lợi NTD; tổ chức xã hội tham gia hoạt động bảo vệ quyền lợi NTD; tổ chức hòa giải các tranh chấp giữa NTD và tổ chức, cá nhân kinh doanh và quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi NTD.Liên quan đến việc bảo vệ quyền lợi NTD trong TMĐT, Điều 17 của Nghị định có quy định về giao kết hợp đồng từ xa – hợp đồng được ký kết giữa NTD và tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa dịch vụ thông qua phương tiện điện tử hoặc điện thoại.30 Theo đó khi giao kết với NTD tổ chức cá nhân phải cung cấp cho người tiêu dùng một số thông tin bắt buộc quy định tại khoản 1, Điều 17. Ngoài ra, Điều luật này còn quy định nếu như thương nhân không cung cấp đầy đủ những thông tin đã yêu cầu thì NTD có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày giao kết hợp đồng (nếu như các bên không có thỏa thuận khác).Từ các Điều 7 đến 16, Nghị định quy định các vấn đề liên quan đến hợp đồng mẫu và điều kiện giao dịch chung, như: yêu cầu về hình thức của hợp đồng; trách nhiệm đăng ký hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch chung…Bên cạnh đó, không thể không nhắc tới Nghị định 185/2013/NĐ-CP ngày 15/11/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và được sửa đổi bởi Nghị định 124/2015/NĐ-CP ngày 19/11/2015 của Chính phủ sửa đổi Nghị định 185/2013/NĐ-CP: Nghị định này quy định về hành vi vi phạm, hình thức, mức xử phạt và thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Liên quan đến vấn đề bảo vệ quyền lợi NTD trong TMĐT có các quy định như Điều 65 quy định về hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ thông tin cá nhân người tiêu dùng, Điều 72 quy định về xử phạt vi phạm trong giao kết hợp đồng từ xa, Điều 77 quy định về việc xử phạt hành vi vi phạm về cung cấp bằng chứng giao dịch. Bên cạnh đó, Nghị định này còn dành riêng mục 11 quy định về các hành vi vi phạm về thương mại điện tử.ii. Hệ thống các văn bản pháp luật về thương mại điện tử· Luật Giao dịch điện tử năm 2005 và Luật Công nghệ thông tin Trong bối cảnh TMĐT ngày càng trở nên phổ biến và phát triển tại ViệtNam, Luật Giao dịch điện tử 2005 ra đời là một hành lang pháp lý quan trọng tạo điều kiện để các giao dịch điện tử, trong đó có TMĐT, được thực hiện một cách thuận lợi. Luật Giao dịch điện tử đã cho mọi người thấy rõ hơn về khái niệm như thế nào là giao dịch điện tử (Điều 4). Ngoài ra, các điều từ Điều 10 đến Điều 20 đưa ra những quy định các vấn đề liên quan đến thông điệp dữ liệu – những thông tin được tạo ra, gửi đi, nhận và lưu trữ bằng phương tiện điện tử, cùng những quy định liên quan đến giá trị của thông điệp dữ liệu, hình thức gửi, nhận thông điệp Đây là cơ sở để các bên thiết lập các giao dịch và khicó tranh chấp, thông điệp dữ liệu sẽ là chứng cứ để bảo vệ quyền lợi của các bên, đặc biệt là NTD.Luật còn quy định một vấn đề rất quan trọng, liên quan trực tiếp tới vấn đề bảo vệ quyền lợi NTD trong TMĐT, đó là những quy định về chữ ký số. Với khả năng xác nhận người ký thông điệp dữ liệu và xác nhận sự chấp thuận của người đó đối với nội dung thông điệp dữ liệu được ký thì các quy định về giá trị pháp lý, điều kiện để bảo đảm an toàn cho chữ ký điện tử và chứng thực chữ ký điện tử là những quy định hết sức quan trọng để có thể bảo vệ quyền lợi của NTD. Bên cạnh đó là các quy định liên quan đến giao kết hợp đồng điện tử mà theo đó, hợp đồng điện tử phải tuân thủ đầy đủ các quy định của pháp luật về hợp đồng thông thường, bên cạnh đó nó còn phải đáp ứng các điều kiện riêng để có thể đảm bảo quyền lợi của các bên khi tiến hành giao dịch.Như đã trình bày ở mục 1.1, trong hoạt động TMĐT luôn có sự tham gia của một bên thứ ba – nhà cung cấp mạng, tổ chức chứng thực chữ ký số, các chủ thể này cũng đóng một vai trò quan trọng trong việc bảo đảm cho các giao dịch giữa các bên diễn ra thuận lợi. Vì vậy những quy định của Luật Công nghệ thông tin đối với nhóm chủ thể này là vô cùng cần thiết.Luật Công nghệ thông tin năm 2006 quy định về hoạt động ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin, các biện pháp bảo đảm ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin, quyền và nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân (sau đây gọi chung là tổ chức, cá nhân) tham gia hoạt động ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin. Tại Điều 9 Luật có quy định trách nhiệm và nghĩa vụ của các chủ thể ứng dụng công nghệ thông tin, theo đó thì các chủ thể này sẽ phải chịu trách nhiệm về những nội dung của mình trên môi trường mạng. Những chủ thể kinh doanh trên môi trường này cũng phải đảm bảo một số thông tin cho NTD khi tham gia kinh doanh. Theo đó họ phải đăng tải một số thông tin tối thiểu cần thiết được quy định tại Điều 9. Từ Điều 29 đến Điều 33 Luật Công nghệ thông tin quy định về việc ứng dụng công nghệ thông tin trong thương mại. Ngoài ra, Luật còn đề cấp đến một số vấn đề như nguyên tắc ứng dụng công nghệ thông tin, trang thông tin bán hàng trên mạng, cung cấp thông tin cho việc giao kết hợp đồng trên mạng, giải quyết hậu quả do lỗi nhập sai thông tin thương mại trên môi trường mạng và cả vấn đề thanh toán trên môi trường mạng. Những quy định này sẽ góp phần bảo vệ quyền lợi của NTD khi tiến hành những giao dịch trên mạng. Tại Điều 70, 71 và 72 của Luật còn quy định về việc chống thư rác, chống virus và bảo mật thông tin của người sử dụng dịch vụ, đây đều là những quy định quan trọng liên quan trực tiếp đến quyền lợi NTD.· Các văn bản hướng dẫn Luật Giao dịch điện tử 2005 và Luật Công nghệ thông tin 2006Luật Giao dịch dịch điện tử năm 2005 và Luật Công nghệ thông tin năm 2006 được hướng dẫn bởi các văn bản dưới luật sau đây:Nghị định số 52/2013/NĐ-CP ngày 16 tháng 5 năm 2013 của Chính phủ về thương mại điện tử, có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2013, được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Nghị định 85/2021/NĐ-CP ngày 25 tháng 09 năm 2021. Sự ra đời của nghị định được coi là bước tiến đột phá trong việc tạo ra môi trường pháp lý riêng biệt dành cho hoạt động thương mại điện tử. Nghị định không chỉ điều chỉnh các vấn đề mang tính nguyên tắc trong giao dịch thương mại điện tử mà còn mở rộng các hoạt động thực tiễn về ứng dụng thương mại điện tử, trong đó tập trung và những vấn đề mang tính đặc thù được phát sinh trong môi trường điện tử. Bên cạnh đó, Nghị định còn quy định chi tiết về hoạt động quản lý nhà nước đối với thương mại điện tử như thủ tục thông báo hay đăng ký, đồng thời công bố danh sách các website TMĐT mà người tiêu dùng nên thận trọng. Đồng thời, Nghị định đã dành một chương quy định về an ninh, an toàn trong thương mại điện tử, nêu lên trách nhiệm bảo vệ thông tin cá nhân người tiêu dùng của các tổ chức, cá nhân thu thập thông tin người tiêu dùng, chính sách bảo vệ thông tin đã thu thập, các nguyên tắc sử dụng thông tin, bảo đảm an toàn, an ninh thông tin cá nhân, cũng như quy định về an toàn thanh toán trong giao dịch thương mại điện tử. Những quy định của Nghị định đã tạo ra hành lang pháp lý tương đối vững chắc và đầy đủ đối với hoạt động thương mại điện tử, và một phần nhỏ quy định có thể giúp bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng.Trong khi đó, Nghị định số 77/2012/ NĐ–CP là nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 90/2008/NĐ–CP về chống thư rác. Nghị định này quy định về việc gửi thư điện tử (email), tin nhắn quảng cáo; quy định về biện pháp quản lý các nhà cung cấp dịch vụ quảng cáo qua email và tin nhắn. Nghị định 15/2020/NĐ-CP của Chính phủ có hiệu lực từ ngày 15/04/2020 quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bưu chính, viễn thông, công nghệ thông tin và giao dịch điện tử. Nghị định này quy định về việc xử phạt vi phạm hành chính đối với các hành vi vi phạm trong các lĩnh vực có liên quan mật thiệt đến quyền lợi người tiêu dùng như việc thu thập, sửdụng thông tin cá nhân, chống thư rác,….Liên quan đến vấn đề thanh toán điện tử có các quy định của Nghị định 101/2012/ NĐ–CP của Chính phủ về thanh toán không dùng tiền mặt. Nghị định này điều chỉnh các hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt; đối tượng tham gia và điều kiện để triển khai cung ứng các dịch vụ thanh toán, dịch vụ trung gian thanh toán. Bên cạnh đó, Nghị định còn hoàn thiện và bổ sung thêm các quy định về giải quyết tranh chấp trong hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt.Bên cạnh đó, còn có các quy định trong Luật An toàn thông tin mạng 2015 và Luật An ninh mạng 2018 điều chỉnh một cách tương đối chi tiết vấn đề bảo vệ an toàn thông tin trên mạng nói chung, đã trở thành cơ sở quan trọng trong thực thi việc bảo vệ thông tin cá nhân người tiêu dùng trong thương mại điện tử.Trên đây là khái quát về nội dung của những văn bản pháp luật quan trọng và có vai trò chủ yếu trong hoạt động bảo vệ quyền lợi NTD trong TMĐT ở Việt Nam. Có thể thấy những quy định về vấn đề này nhằm rải rác trong nhiều văn bản, điều đó cũng phần nào cho thấy tính đa dạng và phức tạp của việc bảo vệ NTD trong TMĐT.1.2.3.2. Cấu trúc nội dung của pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong thương mại điện tử ở Việt NamTùy quan niệm của từng nước mà pháp luật về bảo vệ NTD trong giao dịch điện tử có nội dung và cách quy định khác nhau. Tuy nhiên về cơ bản thì pháp luật bảo vệ NTD trong giao dịch điện tử tập trung quy định các vấn đề sau:· Quyền và nghĩa vụ của người tiêu dùng trong thương mại điện tửĐây được coi là một trong những nội dung quan trọng nhất của pháp luật bảo vệ NTD nói chung và bảo vệ quyền lợi NTD trong giao dịch điện tử nói riêng. Các quyền và nghĩa vụ cơ bản của NTD theo Quốc tế NTD (CI) và Bản hướng dẫn của Liên Hợp Quốc về bảo vệ NTD là: Quyền được an toàn; Quyền được thông tin; Quyền được lựa chọn; Quyền được lắng nghe ý kiến; Quyền được thỏa mãn những nhu cầu cơ bản; Quyền được đền bù; Quyền được giáo dục và Quyền được sống trong môi trường trong lành. Điều 8 và Điều 9 Luật bảo vệ quyền lợi NTD năm 2010 của Việt Nam đã quy định các quyền và nghĩa vụ của NTD, đây cũng là những quyền và nghĩa vụ cơ bản của NTD khi tiến hành giao dịch truyền thống cũng như giao dịch điện tử. Các quy định về quyền và nghĩa vụ của NTD là những nguyên tắc góp phần xây dựng khuôn mẫu về bảo vệ quyền lợi NTD cho các văn bản pháp luật khác, nhằm giúp cho việc bảo vệ NTD của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền được phối hợp nhịp nhàng, đồng bộ nhất.· Trách nhiệm của tổ chức, cá nhân kinh doanh đối với người tiêu dùng trong thương mại điện tửTrách nhiệm của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ đối với NTD là nội dung đặc thù của pháp luật bảo vệ quyền lợi NTD, đặc biệt là trong lĩnh vực giao dịch điện tử. Đối với giao dịch giữa NTD với tổ chức, cá nhân kinh doanh thông qua phương tiện điện tử thì những loại trách nhiệm sau đây được đặc biệt chú ý, đó là:-  Trách nhiệm bảo vệ thông tin của NTD;-  Trách nhiệm cung cấp thông tin cho NTD;-  Trách nhiệm cung cấp bằng chứng giao dịch cho NTD;-  Trách nhiệm đối với các điều khoản giao dịch không công bằng;-  Trách nhiệm đảm bảo chất lượng của vật mua, bán.·  Hệ thống cơ quan, tổ chức về bảo vệ người tiêu dùng trong thương mại điện tử tại Việt NamVấn đề BVQLNTD trong TMĐT đòi hỏi sự kết hợp, tham gia của nhiều cơ quan, tổ chức khác nhau do các giao dịch tiêu dùng cũng đa dạng, trải dài trên nhiều lĩnh vực và khoảng cách địa lý. Các thiết chế chính tham gia bảo vệ quyền lợi NTD bao gồm có : Các cơ quan quản lý nhà nước gồm các cơ quan chuyên trách về bảo vệ NTD và các cơ quan điều tiết ngành; Các tổ chức xã hội tham gia vào việc bảo vệ NTD ở trung ương và địa phương. Có sự phối hợp nhuần nhuyễn và tích cực giữa các cơ quan, tổ chức này thì việc bảo vệ NTD mới đạt được hiệu quả cao nhất, giúp phát triển TMĐT và tăng cường niềm tin cho NTD.· Phương thức giải quyết tranh chấp giữa tổ chức, cá nhân kinh doanh và người tiêu dùng trong thương mại điện tửTrong giải quyết tranh chấp giữa NTD với tổ chức, cá nhân kinh doanh trong giao dịch điện tử, pháp luật các nước đề cao vai trò của các phương thức giải quyết tranh chấp thay thế cho tòa án đó là thương lượng, hòa giải. Các phương thức giải quyết tranh chấp thay thế khiến cho việc giải quyết được đảm bảo bí mật, không công khai, không có bản án bất lợi cho tổ chức, cá nhân kinh doanh còn đối với NTD thì không phải chịu những bất cập của thủ tục tố tụng dân sự như chậm chạp, tốn kém và phức tạp. Đặc biệt là trong giao dịch điện tử, các bên tranh chấp có thể ở những quốc gia khác nhau nên việc khởi kiện vụ án dân sự là rất khó khăn cho NTD. Luật bảo vệ quyền lợi NTD 2010 của Việt Nam cũng đã quy định tranh chấp giữa NTD với tổ chức cá nhân kinh doanh có thể được giải quyết thông qua: thương lượng, hòa giải, trọng tài và tòa án.· Xử lý vi phạm pháp luật bảo vệ người tiêu dùng trong thương mại điện tửKhi quyền lợi của NTD bị xâm phạm, tổ chức, cá nhân vi phạm sẽ phải chịu những biện pháp chế tài như chế tài dân sự (bồi thường thiệt hại) hay chế tài hành chính (phạt tiền, cảnh cáo, tước quyền kinh doanh…) và nếu gây nguy hiểm cho xã hội đến mức bị coi là tội phạm thì còn phải chịu chế tài nghiêm khắc nhất là chế tài hình sự.Luật bảo vệ quyền lợi NTD 2010 cũng quy định hệ thống chế tài đối với các hành vi vi phạm Luật bảo vệ quyền lợi NTD tại điều 11:-  Cá nhân vi phạm pháp luật về bảo vệ quyền lợi NTD thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.-  Tổ chức vi phạm pháp luật về bảo vệ quyền lợi NTD thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử phạt vi phạm hành chính, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.1.2.4.   Pháp luật quốc tế và pháp luật một số nước trên thế giới về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong thương mại điện tử1.2.4.1. Quy định của Liên Hợp Quốc về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong thương mại điện tửHướng dẫn của Liên Hợp Quốc về bảo vệ người tiêu dùng (UNGCP) đã được đại Hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua trong nghị quyết 39/248 ngày 16/04/1985. Hướng dẫn được ban hành sau một chiến dịch dài được tiến hành bởi các hiệp hội người tiêu dùng ở nhiều nước với sự đứng đầu của Người tiêu dùng Quốc tế (trước đây là Tổ chức quốc tế của hiệp hội người tiêu dung) đã kêu gọi Liên Hợp Quốc soạn thảo một hướng dẫn chung về bảo vệ người tiêu dùng tại đại hội thế giới ở Sydney năm 1975. Vào năm 1977 Hội đồng kinh tế và xã hội của Liên Hợp Quốc (ECOSOC) chỉ đạo chuẩn bị một cuộc khảo sát về pháp luật trong lĩnh vực bảo vệ người tiêu dùng với quan điểm xây dựng một bộ hướng dẫn chung cho bảo vệ người tiêu dung, đặc biệt tính đến nhu cầu của các nước đang phát triển. Dự thảo hướng dẫn đã được gửi tới các quốc gia thành viên để lấy ý kiến vào năm 1982 và Hướng dẫn này đã được soạn thảo trên nhiều nguồn bao gồm OECD, Tuyên ngôn nhân quyền về người tiêu dùng của Hoa Kỳ và tài liệu từ các cơ quan bảo vệ người tiêu dùng quốc gia và các hiệp hội bảo vệ người tiêu dùng. Cuối cùng những hướng dẫn này đã được thông qua bởi Đại hội đồng vào năm 1985. Mười bốn năm sau, Hướng dẫn này được bổ sung thêm một phần mới về tiêu dùng bền vững tại Nghị quyết E/1999/INF/2/Add.2 ngày 26/7/1999.Hướng dẫn sửa đổi của Liên hợp quốc về bảo vệ người tiêu dùng (UNGCP), được thông qua năm 2015, đưa ra các đặc điểm chính của pháp luật bảo vệ người tiêu dùng một cách hiệu quả, các tổ chức thực thi và hệ thống yêu cầu bồi thường. Hướng dẫn này bao gồm một phần cụ thể về thương mại điện tử, trong đó nêu bật một số hướng dẫn chính để đảm bảo rằng người tiêu dùng được bảo vệ trong môi trường thương mại điện tử giống như trong các loại hình thương mại khác. Đồng thời Hướng dẫn 64 yêu cầu các quốc gia thành viên “đáp ứng các tính năng đặc biệt của thương mại điện tử”, và nhấn mạnh nhận thức về quyền và nghĩa vụ của người tiêu dùng và thương nhân trong môi trường kỹ thuật số. Hướng dẫn số 65 kêu gọi về việc hợp tác xuyên quốc gia và đề nghị các quốc gia thành viên nghiên cứu cũng như học tập các hướng dẫn của OECD về Bảo vệ người tiêu dùng trong thương mại điện tử. Mặc dù không ràng buộc về mặt pháp lý, Hướng dẫn này được chấp nhận rộng rãi như là chuẩn mực quốc tế về những hành vi chuẩn mực trong bảo vệ người tiêu dùng.1.2.4.2.   Hướng dẫn của OECD về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong thương mại điện tửTổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) là một diễn đàn kinh tế quốc tế, được thành lập vào năm 1961 với mục đích thúc đẩy và phát triển kinh tế và thương mại trên phạm vi toàn cầu. OECD thực hiện mục tiêu của mình thông qua việc trao đổi kinh nghiệm giữa các quốc gia, cùng tìm cách giải quyết các vấn đề chung, nhận diện và giới thiệu các mô hình thực tiễn đạt kết quả tốt cũng như tăng cường hợp tác và phối hợp chính sách quốc nội và quốc tế. Hiện tại OECD có 34 thành viên, chủ yếu là các quốc gia có nền kinh tế phát triển.Không lâu sau sự bùng nổ của internet vào giữa những thập niên 90 của thế kỷ XX, OECD đã nhận ra tiềm năng và tầm ảnh hưởng của công cụ này đối với sự phát triển của nền kinh tế thế giới. Tuy nhiên, điều này cũng tiềm ẩn những nguy cơ nhất định, mà một trong số đó chính là đe dọa tới quyền lợi của người tiêu dùng. Giao dịch qua internet tạo ra sự thuận lợi, nhưng cũng chính điều này sẽ khiến cho người tiêu dùng dễ bị lừa dối nếu không được bảo vệ hợp lý và không có những kiến thức cần thiết. Do đó, OECD đã cùng bàn bạc để hình thành nên một bản hướng dẫn nhằm giúp các quốc gia định hướng cho pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng của mình sao cho phù hợp với sự phát triển của internet nói chung và TMĐT nói riêng.Sau 18 tháng nghiên cứu và làm việc, vào ngày 9 tháng 12 năm 1999, OECD đã thông qua “Bản hướng dẫn về Bảo vệ Người tiêu dùng trong Bối cảnh TMĐT” (gọi tắt là Bản hướng dẫn của OECD). Nguyên tắc chung xuyên suốt Bản hướng dẫn này là người tiêu dùng tham gia TMĐT sẽ nhận được sự bảo vệ không kém hơn so với khi tham gia các hoạt động thương mại thông thường. Bản hướng dẫn được chia làm 4 phần lớn: Phạm vi điều chỉnh, các nguyên tắc chung, hướng dẫn thực thi và hợp tác quốc tế. Trong đó, nội dung chính của Bản hướng dẫn tập trung ở phần các nguyên tắc chung trong từng hoạt động bảo vệ người tiêu dùng trong TMĐT:-  Bảo vệ một cách minh bạch và hiệu quả: Như đã nêu trên, đây là nguyên tắc chủ đạo của Bản hướng dẫn, do đó được đặt ở vị trí đầu tiên trong số các nguyên tắc chung. Theo đó, khi tham gia hoạt động TMĐT, người tiêu dùng được bảo vệ không kém hơn khi tham gia bất kỳ hoạt động thương mại thông thường nào khác.-  Tiếp thị, quảng cáo và thương mại công bằng: Trong hoạt động TMĐT, doanh nghiệp phải thực hiện việc quảng cáo và tiếp thị rõ ràng và nhất quán; không được lừa dối hay che giấu danh tính, địa điểm kinh doanh của mình. Các thông tin đưa ra phải rõ ràng và chính xác, đồng thời người tiêu dùng có thể dễ dàng tiếp cận những thông tin đó. Ngoài ra, khi tham gia giao kết hợp đồng, doanh nghiệp không được phép đưa ra những điều khoản không công bằng, gây bất lợi cho người tiêu dùng. Quyết định của người tiêu dùng khi tham gia các hoạt động TMĐT như giao kết hợp đồng, lựa chọn nhận hoặc không nhận email quảng cáo, tiếp thị… cũng phải được tôn trọng.Nếu như nguyên tắc bảo vệ một cách minh bạch và hiệu quả là nguyên tắc gốc của Bản hướng dẫn thì nguyên tắc tiếp thị, quảng cáo và thương mại công bằng có thể coi là nội dung cụ thể hóa của nguyên tắc trên. Tính công bằng là mấu chốt trong việc bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, khi mà trong hoạt động TMĐT, họ là bên yếu thế hơn rất nhiều. Đảm bảo được tính công bằng là một điều rất khó, nhưng lại là nền tảng để hoạt động bảo vệ người tiêu dùng đạt được hiệu quả.-   Về vấn đề thông tin trong TMĐT, OECD phân chia thành ba nhóm nguyên tắc: thông tin về doanh nghiệp; thông tin về hàng hóa, dịch vụ và thông tin về giao dịch. Yêu cầu bao trùm toàn bộ việc cung cấp thông tin là tính chính xác và dễ tiếp cận đối với người tiêu dùng.+ Thông tin về doanh nghiệp: Khi tham gia hoạt động TMĐT, doanh nghiệp nhất thiết phải cung cấp các thông tin nhận diện (như tên doanh nghiệp, địa chỉ của doanh nghiệp, các thông tin liên hệ…). Những thông tin này giúp cho người tiêu dùng có thể liên lạc một cách nhanh chóng, dễ dàng và hiệu quả với doanh nghiệp khi phát sinh các vấn đề có liên quan. Bên cạnh đó, đáng chú ý là các doanh nghiệp còn cần đưa ra những biện pháp giải quyết tranh chấp phù hợp và hiệu quả.+ Thông tin về hàng hóa, dịch vụ: Người tiêu dùng đưa ra quyết định có tham gia giao dịch hay không chủ yếu dựa vào những thông tin về hàng hóa, dịch vụ mà họ được cung cấp khi tham gia TMĐT. Do đó, người tiêu dùng có quyền được tiếp cận với những thông tin một cách nhanh chóng, thuận tiện và dễ dàng nhất.+ Thông tin về giao dịch: Trước hết, các thông tin về giao dịch cần được thể hiện rõ ràng, minh bạch và dễ hiểu. Những thông tin có liên quan cũng phải đáp ứng yêu cầu này. Trong khi giao dịch, những điều kiện và điều khoản liên quan cần được cung cấp một cách đầy đủ và rõ ràng. Người tiêu dùng cũng có quyền được xem xét lại các thông tin trước khi thực hiện giao dịch. Khi giao dịch được thực hiện bằng nhiều thứ tiếng thì các thông tin liên quan cũng phải được dịch đầy đủ ra những thứ tiếng này. Ngoài ra, sau khi giao dịch, các thông tin này cần được lưu trữ lại như một dạng bằng chứng giao dịch nhằm phục vụ cho việc giải quyết các tranh chấp có thể phát sinh sau này.-  Xác nhận giao dịch: Khi tham gia các giao dịch TMĐT, người tiêu dùng rất dễ mắc phải những sai lầm do sự phức tạp của công nghệ thông tin. Do đó, việc xác nhận giao dịch có vai trò quan trọng trong việc xác định sự đồng ý tham gia giao dịch của người tiêu dùng. Trước khi thực hiện việc xác nhận giao dịch, người tiêu dùng có các quyền sau:+ Nhận diện chính xác hàng hóa, dịch vụ mà mình định mua.+ Phát hiện và sửa các lỗi mắc phải trong quá trình thực hiện giao dịch.+ Lưu lại các thông tin về giao dịch.+ Hủy bỏ giao dịch.Theo như Bản hướng dẫn của OECD, người tiêu dùng có thể hủy bỏ giao dịch khi chưa xác nhận giao dịch. Tuy nhiên, OECD không đề cập tới quyền hủy bỏ giao dịch sau khi đã xác nhận. Trên thực tế, có những trường hợp người tiêu dùng xác nhận giao dịch do thao tác nhầm hoặc do nhầm lẫn. Đối với những trường hợp này, quyền hủy bỏ giao dịch vẫn có thể được trao cho người tiêu dùng, nhưng cần kèm theo một số nghĩa vụ như thông báo ngay cho doanh nghiệp hoặc giải thích về những nhầm lẫn của mình khi thực hiện giao dịch. Như vậy tính công bằng sẽ được đảm bảo hơn, người tiêu dùng sẽ không phải chịu những thiệt thòi không đáng có trong quá trình giao dịch.-  Thanh toán: Bản hướng dẫn của OECD nêu rõ: Khi tham gia giao dịch TMĐT, người tiêu dùng cần được cung cấp cơ chế thanh toán dễ dàng và bảo mật. OECD là tổ chức có nhiều thành viên là các quốc gia phát triển, do đó hình thức thanh toán trực tuyến ở các quốc gia này là khá phổ biến và thông dụng. Đối với hình thức thanh toán trực tuyến, việc bảo mật thông tin là một trong những yếu tố quan trọng khiến người tiêu dùng đặt niềm tin vào các giao dịch sử dụng hình thức thanh toán này. Tuy nhiên, OECD cũng đã dự tính tới vấn đề thanh toán trực tuyến tại các quốc gia kém phát triển hơn khi đưa ra quy định về thanh toán đơn giản và thuận tiện.-  Giải quyết tranh chấp và bồi thường: OECD rất chú trọng đến tính xuyên biên giới của hoạt động TMĐT, đây là điều cần lưu tâm trong việc bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong hoạt động này. Trước hết, khi xảy ra tranh chấp, các vấn đề về thẩm quyền tài phán và luật áp dụng cần được xác định rõ. Muốn vậy, trong pháp luật của từng quốc gia, những vấn đề này cần được quy định rõ ràng. Bản hướng dẫn của OECD nhấn mạnh rằng pháp luật của từng quốc gia cũng cần đưa ra những quy định công bằng để giải quyết tranh chấp giữa doanh nghiệp và người tiêu dùng. Ngoài ra, vấn đề này đòi hỏi phải có cơ chế hợp tác tốt giữa ba bên: doanh nghiệp – đại diện người tiêu dùng và Nhà nước.1.2.4.3.   Pháp luật của Liên minh Châu Âu về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong thương mại điện tửTrong lĩnh vực bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong TMĐT, EU đã ban hành khá nhiều văn bản và hầu hết đều ở dạng Chỉ thị (Directive). Chỉ thị của EU có đặc điểm là văn bản pháp lý mang tính bắt buộc chung với các quốc gia thành viên được xác định trong đó. Tuy nhiên, Chỉ thị chỉ đưa ra những quy định mang tính “khung” hoặc những mục tiêu cần thực hiện mà không áp đặt cách thức thực hiện. Do vậy, các quốc gia thành viên cần nội luật hóa những Chỉ thị này và được tự do lựa chọn hình thức cũng như phương thức áp dụng. Việc điều chỉnh các vấn đề về bảo vệ người tiêu dùng trong TMĐT vào các Chỉ thị là một quyết định rất đúng đắn của EU. TMĐT luôn biến đổi không ngừng và khó có thể lường trước được. Nếu EU áp đặt các quy định cho tất cả các quốc gia thì việc điều chỉnh hệ thống pháp luật ở từng nước sẽ kém linh hoạt và khó có thể bắt kịp với sự biến động của TMĐT. Hơn nữa, trong vấn đề này, mỗi quốc gia cần cân nhắc tình hình thực tế trong nước thì mới có thể đưa ra những quy định phù hợp.Các văn bản quan trọng đề cập đến vấn đề này bao gồm: Chỉ thị 2011/83/EU về Quyền của NTD, Chỉ thị 2000/31/EC về TMĐT, Chỉ thị 2013/11/EU về các phương thức giải quyết tranh chấp thay thế ADR đối với người tiêu dùng, Quy định số 524/2013 về phương thức giải quyết tranh chấp trực tuyến ODR, bên cạnh đó Chỉ thị về Bảo mật và truyền thông điện tử 2002 và Quy định bảo vệ dữ liệu chung 2016 đang là hai trụ cột chính của khung pháp lý bảo vệ dữ liệu của EU.* Chỉ thị về Quyền của NTDChỉ thị về Quyền của Người tiêu dùng thể hiện quy định nền tảng của các hợp đồng tiêu dùng liên quan đến thương mại điện tử. Đặc biệt, nó quy định nghĩa vụ thông tin trước hợp đồng và quyền của người tiêu dùng về việc rút khỏi hợp đồng từ xa. Hợp đồng từ xa được định nghĩa là ‘bất kỳ hợp đồng nào được ký kết giữa thương nhân và người tiêu dùng trong giao dịch từ xa với việc sử dụng một hoặc nhiều phương tiện liên lạc từ xa (như đặt hàng qua thư, internet, điện thoại hoặc fax), do đó theo Chỉ thị này, tất cả các hợp đồng được ký kết trực tuyến đều được coi là hợp đồng từ xa31. Phạm vi điều chỉnh của Chỉ thị về Quyền của NTD chỉ tập trung vào các giao dịch giữa doanh nghiệp và người tiêu dùng (B2C) nên có thể nói trong số các văn bản của EU về bảo vệ người tiêu dùng trong TMĐT thì đây là văn bản có tính “bảo vệ” trực tiếp nhất.Liên quan đến vấn đề bảo vệ người tiêu dùng trong TMĐT, Chỉ thị đưa ra các quy định về nghĩa vụ cung cấp thông tin, quyền rút khỏi hợp đồng, việc thực hiện nghĩa vụ của bên cung cấp, vấn đề thanh toán, cơ chế khiếu nại… Trong số đó, những điểm đáng chú ý nhất nằm ở nghĩa vụ về thông tin và quyền rút khỏi hợp đồng của người tiêu dùng.Về nghĩa vụ thông tin, khoản 1 Điều 6 của Chỉ thị quy định: trong một khoảng thời gian hợp lý trước khi giao kết hợp đồng, người tiêu dùng phải được cung cấp một số thông tin nhất định như: thông tin nhận diện về bên cung cấp; đặc tính chính của hàng hóa, dịch vụ; giá cả (bao gồm cả thuế); chi phí vận chuyển; thỏa thuận thanh toán và thực hiện nghĩa vụ, quyền rút khỏi hợp đồng; hiệu lực của chào hàng…Về quyền rút khỏi hợp đồng, Điều 9 của Chỉ thị đã xác định rõ thời hạn đối với quyền này cũng như các cách tính thời hạn trong những trường hợp cụ 31 Điều 2(7) Chỉ thị số 2011/83/EU của Liên minh Châu Âu về Quyền của người tiêu dùng thể.  Quyền rút khỏi hợp đồng là một trong những “ưu ái” mà pháp luật dành cho người tiêu dùng để cân bằng ưu thế giữa họ với các doanh nghiệp cung cấp hàng hóa và cung ứng dịch vụ. Khi tham gia hợp đồng bán hàng từ xa nói chung và hợp đồng TMĐT nói riêng, người tiêu dùng không được trực tiếp tiếp xúc để đánh giá chất lượng cũng như độ phù hợp của hàng hóa, dịch vụ đối với mình trong thực tiễn. Do vậy, họ có quyền rút khỏi hợp đồng ngay cả khi đã nhận được hàng hóa, dịch vụ.Chỉ thị quy định rằng người tiêu dùng có thể rút khỏi hợp đồng trong thời hạn là 14 ngày mà không cần đưa ra lý do và cũng không phải chịu bất kỳ chi phí nào. Thời hạn 14 ngày được bắt đầu tính từ ngày người tiêu dùng nhận hàng hóa (đối với hợp đồng về hàng hóa) hoặc từ ngày hợp đồng được ký kết (đối với hợp đồng cung ứng dịch vụ). Tuy nhiên, đối với một số loại hợp đồng như hợp đồng dịch vụ về trò chơi và xổ số, hợp đồng cung cấp báo và tạp chí, hợp đồng mà trong đó hàng hóa và dịch vụ bị chi phối bởi thị trường tài chính và không thuộc tầm kiểm soát của bên cung cấp… thì người tiêu dùng sẽ không có quyền rút khỏi hợp đồng.Như vậy, có thể nhận định rằng Chỉ thị về Quyền của NTD đã trao cho người tiêu dùng một đặc quyền giúp họ bớt yếu thế hơn so với doanh nghiệp trong hoạt động TMĐT. Tuy nhiên, không phải vì thế mà quyền lợi của doanh nghiệp bị ảnh hưởng. Chỉ thị đã quy định rõ về các trường hợp rút khỏi hợp đồng cũng như chỉ rõ thời hạn của việc rút khỏi hợp đồng trong từng trường hợp cụ thể. Chính những quy định này đã phần nào tạo ra sự cân bằng về lợi ích, khi mà doanh nghiệp được quyền từ chối việc rút khỏi hợp đồng của người tiêu dùng trong một số trường hợp mà việc đó gây ra ảnh hưởng tới họ.Chỉ thị Quyền của NTD đã tạo ra khung pháp lý đầu tiên đối với vấn đề bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong TMĐT ở châu Âu. Mặc dù chưa điều chỉnh toàn diện các vấn đề bảo vệ người tiêu dùng trong TMĐT cũng như chưa tập trung vào những đặc thù của TMĐT, tuy nhiên Chỉ thị này đã giúp các quốc gia thành viên của EU bước đầu hình dung được về việc bảo vệ người tiêu dùng trong hoạt động này.*  Chỉ thị 2000/31/EC về TMĐTMặc dù không trực tiếp đề cập tới việc bảo vệ người tiêu dùng trong TMĐT nhưng Chỉ thị 2000/31/EC vẫn được đánh giá là một bước hoàn thiện về pháp luật của EU trong lĩnh vực này. Chỉ thị 2000/31/EC tập trung vào hai mục đích chính: thúc đẩy sự phát triển của TMĐT và củng cố lòng tin của người tiêu dùng khi tham gia các hoạt động của TMĐT.Các nghĩa vụ được Chỉ thị 2000/31/EC chú trọng là nghĩa vụ về thông tin, vấn đề quản lý thư rác và các vấn đề liên quan đến hợp đồng điện tử.*  Các Chỉ thị về bảo mật thông tinBảo mật thông tin luôn là một yếu tố quan trọng, đặc biệt là với TMĐT. Do vậy, EC cũng không thể bỏ qua vấn đề này khi quy định về bảo vệ người tiêu dùng trong TMĐT. Các Chỉ thị liên quan đến vấn đề này bao gồm: Chỉ thị 95/46/EC về Bảo vệ dữ liệu đã được thay thế bởi Quy định bảo vệ dữ liệu chung 2016 (General Data Protection Regulation – GDPR). GDPR được xây dựng dựa trên nền tảng của Chỉ thị Bảo vệ dữ liệu 1995, nhưng có cập nhật và hiện đại hóa hơn với mục đích đối phó với những thách thức đặt ra bởi nền kinh tế kỹ thuật số. Khác với GDPR, Chỉ thị về Bảo mật và truyền thông điện tử 2002 (được sửa đổi năm 2009) quy định các quy tắc về quyền riêng tư và thông tin liên lạc được mã hóa, với mục đích bảo vệ các quyền cơ bản và quyền tự do (đặc biệt là quyền riêng tư) đối với việc xử lý dữ liệu cá nhân trong lĩnh vực viễn thông trong mạng điện tử công cộng và đảm bảo sự di chuyển tự do của dữ liệu đó. Tuy nhiên, trên thực tế Chỉ thị này được thực thi kém hiệu quả do việc thực hiện phân tán của các quốc gia thành viên và không theo kịp với sự phát triển của công nghệ. Do đó, Ủy bản Châu Âu đã công bố một đề xuất lập pháp khác nhằm điều chỉnh các quy tắc hiện hành phù hợp với sự phát triển của công nghệ, đồng thời đề xuất dự định sẽ bãi bỏ Chỉ thị về Bảo mật và truyền thông điện tử 2002, thay vào đó sẽ cụ thể hóa và bổ sung cho GDPR.*   Chỉ thị về phương thức giải quyết tranh chấp giữa NTD và thương nhânChỉ thị 2013/11/EU về các phương thức giải quyết tranh chấp thay thế ADR đối với người tiêu dùng. Giải quyết tranh chấp thay thế (ADR) cung cấp một giải pháp bên ngoài tòa án đơn giản, nhanh chóng và chi phí thấp để giải quyết tranh chấp giữa người tiêu dùng và thương nhân. Quy định số 524/2013 về phương thức giải quyết tranh chấp trực tuyến ODR bổ sung thêm cho Chỉ thị này các nền tảng và công cụ trực tuyến để giải quyết tranh chấp hữu hiệu hơn trong môi trường thương mại điện tử. Chỉ thị góp phần bảo vệ hữu hiệu quyền lợi của NTD trong thương mại truyền thống cũng như thương mại điện tử bằng cách quy định NTD có quyền gửi khiếu nại của mình tới các chủ thể ADR và đảm bảo các chủ thể này phải đáp ứng các yêu cầu về tính độc lập, vô tư, minh bạch, hiệu quả, nhanh chóng và công bằng trong giải quyết tranh chấp. Có thể nói, hệ thống các quy định của Liên minh Châu Âu về bảo vệNTD trong TMĐT được thiết lập bởi một loạt các Chỉ thị và Quy định điều chỉnh nhiều vấn đề liên quan đến NTD và TMĐT nói riêng. Tuy nhiên mục đích của các quy định này đều nhằm mục tiêu tăng cường sự đảm bảo cho NTD khi giao kết hợp đồng thông qua phương tiện điện tử. Hệ thống pháp luật của EU được đánh giá là đa dạng, bao quát hầu hết các vấn đề phát sinh trong sự tăng trưởng nhanh chóng của TMĐT trong thờiTheo: Nguyễn Ngọc QuyênLink luận án: https://docs.google.com/document/d/1ogQOOGL1pXDZfSUNkdQ6ztG4GbkMmxMo/edit?usp=drive_web&ouid=102249775144483111159&rtpof=true