0888889366
Tra cứu thông tin hợp đồng
timeline_post_file6489894f297fe-GIẢI-PHÁP-N-NG-CAO-HIỆU-QUẢ-THỰC-THI-PHÁP-LUẬT-BẢO-VỆ-NGƯỜI-TIÊU-DÙNG-TRONG-THƯƠNG-MẠI-ĐIỆN-TỬ.jpg.webp

GIẢI PHÁP N NG CAO HIỆU QUẢ THỰC THI PHÁP LUẬT BẢO VỆ NGƯỜI TIÊU DÙNG TRONG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ

 

3.3.  Giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong thương mại điện tử

“Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong các giao dịch thương mại điện tử với mức độ không thấp hơn trong các phương thức khác” là một trong những nguyên tắc mới của hoạt động bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng được Liên hợp quốc bổ sung vào Bản hướng dẫn về Bảo vệ người tiêu dùng (được ban hành lần đầu vào ngày 09 tháng 4 năm 1985 bởi Nghị quyết số 39/248 của Đại hội đồng Liên hợp quốc) năm 2015. 

Nguyên tắc này được Liên hợp quốc bổ sung trong Bản hướng dẫn của mình về Bảo vệ người tiêu dùng để nhằm xem xét được những vấn đề mới phát sinh trong các giao dịch thương mại điện tử của người tiêu dùng. 

Để bắt kịp xu thế chung của thế giới, cũng như nhằm kiểm soát được các hành vi xâm phạm đến quyền lợi người tiêu dùng thông qua môi trường mạng, pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng của Việt Nam nên bổ sung thêm các quy định cụ thể đảm bảo thực hiện được nguyên tắc nêu trên. Đặc biệt, cần bổ sung trách nhiệm liên đới của các sàn thương mại điện tử, các đơn vị trung gian cung cấp dịch vụ thanh toán, dịch vụ vận chuyển và các tổ chức, cá nhân khác có liên quan đến việc cung cấp hàng hóa, dịch vụ trực tuyến cho người tiêu dùng nhằm tránh việc câu kết né tránh trách nhiệm với người tiêu dùng của các chủ thể nêu trên.

Khung pháp lý về bảo vệ quyền lợi NTD trong TMĐT đã bước đầu được hình thành. Tuy nhiên, giao dịch điện tử vẫn là lĩnh vực mới mẻ đối với các cơ quan chức năng, tổ chức, cá nhân kinh doanh cũng như NTD, giao dịch điện tử lại dựa trên nền tảng công nghệ cao, cho nên để các văn bản pháp luật về bảo vệ NTD trong giao dịch điện tử thực sự đi vào đời sống, tạo ra môi trường pháp lý và hỗ trợ cho việc bảo vệ NTD, các cơ quan chức năng cần nỗ lực hơn nữa trong việc triển khai thực hiện các văn bản pháp luật đã ban hành. Trong khi triển khai, cần chú trọng tới hoạt động hướng dẫn, phổ biến nội dung pháp luật để tổ chức, cá nhân kinh doanh, người tiêu dùng hiểu và thực hiện đúng các quy định đã ban hành. Nội dung tuyên truyền cần đi sâu vào trách nhiệm của tổ chức, cá nhân kinh doanh đối với NTD và quyền, nghĩa vụ của NTD trong giao dịch điện tử, các phương thức giải quyết tranh chấp…. Đây là khâu then chốt giúp triển khai và hoàn thiện môi trường pháp lý về bảo vệ NTD trong giao dịch điện tử.

3.3.1.   Giáo dục và nâng cao nhận thức của người tiêu dùng về thương mại điện tử

Việc NTD được thông tin, hướng dẫn về TMĐT sẽ giúp cho họ nâng cao được quyền lợi của mình và khắc phục sự mất cân bằng quyền lực giữa họ và thương nhân.

Điều cần thiết là người tiêu dùng phải nhận thức được các quyền của họ và những rủi ro mà TMĐT đem tới, đồng thời họ sẽ thiếu cơ hội để khắc phục hiệu quả khi mua sắm hàng hoá, dịch vụ thông qua các giao dịch điện tử. Một trung tâm thông tin chuyên hỗ trợ NTD khi giao kết hợp đồng trực tuyến với việc đưa ra các lời khuyên, gợi ý NTD nên làm gì để tự bảo vệ bản thân sẽ rất có giá trị cho NTD trong ngắn hạn cho đến khi các quy định pháp luật bao trùm được toàn bộ các hoạt động TMĐT, đảm bảo NTD được bảo vệ toàn diện.

Trung tâm này cũng có thể cung cấp lời khuyên cho người tiêu dùng về các bước thực tế mà họ có thể thực hiện để tự bảo vệ mình khi mua sắm trực tuyến. Ví dụ: bằng cách đảm bảo rằng các thiết bị được sử dụng để truy cập các trang web thương mại điện tử (ví dụ: máy tính xách tay, máy tính bảng và điện thoại thông minh) được thiết lập an toàn.

Người tiêu dùng cũng cần thông tin tốt hơn về các trang web lừa đảo và giả mạo để họ có thể tránh được các trang web bị liệt vào danh sách đen. Các cơ quan nhà nước xử lý các khiếu nại của NTD trong TMĐT có thể tổng hợp các danh sách đó dựa trên dữ liệu được báo cáo và các trường hợp được xử lý. Ở Việt Nam cũng có trang web chonghanggia.gov.vn, có mục cho NTD cung cấp thông tin về trang web giả mạo…

3.3.2.   Nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng trong thương mại điện tử của tổ chức, cá nhân kinh doanh.

Giao dịch điện tử giữa tổ chức, cá nhân kinh doanh với người tiêu dùng ngày càng phát triển mạnh mẽ. Hệ thống pháp luật liên quan tới giao dịch điện tử và bảo vệ NTD về cơ bản đã được xác lập và đang liên tục được bổ sung nhằm hoàn thiện hơn. Do đó, để có thể nắm bắt kịp thời các quy định của pháp luật, tổ chức, cá nhân kinh doanh cần phải thường xuyên tìm hiểu và thực hiện tốt quy định của pháp luật điều chỉnh các vấn đề có liên quan tới hoạt động kinh doanh bằng phương tiện điện tử của mình như trình tự giao kết hợp đồng điện tử với NTD, trách nhiệm bảo vệ thông tin cá nhân của NTD, các phương thức giải quyết tranh chấp…. Chỉ khi nào tổ chức, cá nhân kinh doanh ý thức được trách nhiệm của mình trong giao dịch điện tử với NTD, lúc đó NTD mới thực sự được bảo vệ. Tổ chức, cá nhân kinh doanh càng tuân thủ pháp luật, NTD càng yên tâm khi giao dịch điện tử với tổ chức, cá nhân kinh doanh, từ đó thúc đẩy giao dịch điện tử phát triển hơn nữa, mang lại lợi ích không chỉ cho NTD mà còn cho tổ chức, cá nhân kinh doanh. Các cơ quan quản lý nhà nước nên tập trung hỗ trợ cho các doanh nghiệp xây dựng mô hình giao dịch điện tử với NTD, đáp ứng các tiêu chuẩn mà pháp luật đề ra, đồng thời tích cực tuyên truyền, phổ biến pháp luật tới tổ chức, cá nhân kinh doanh, có thể thông qua cách gửi thư điện tử đến tổ chức, cá nhân kinh doanh hoặc đăng tải trên website của cơ quan quản lý nhà nước. Phương thức này giúp cho tổ chức, cá nhân kinh doanh kịp thời cập nhật các văn bản pháp luật liên quan đến TMĐT nói chung và bảo vệ NTD trong TMĐT nói riêng.

3.3.3.   Tăng cường năng lực cho các cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng

Đối với các cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi NTD cấp huyện, cần phải có các văn bản hướng dẫn cụ thể về nhiệm vụ quyền hạn và cách thức tổ chức thực hiện những nhiệm vụ quyền hạn đó, góp phần thực thi luật bảo vệ quyền lợi NTD một cách thống nhất. Tránh tình trạng, mặc dù trong Luật quy định rõ quyền khiếu nại của NTD đến Uỷ ban nhân dân cấp huyện nhưng NTD lại không biết khiếu nại tới phòng nào, ban nào của Uỷ ban nhân dân cấp huyện để bảo vệ quyền và lợi ích cho mình. Tiếp theo, đối với Sở Công thương là đơn vị giúp Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện chức năng về bảo vệ quyền lợi NTD. Sở Công thương là đơn vị giúp Uỷ ban nhân dân thực hiện chức năng bảo vệ quyền lợi NTD và phải thực hiện triển khai nhiệm vụ một cách nghiêm túc, phải có chuyên viên chuyên trách về công tác bảo vệ quyền lợi NTD để đẩy mạnh việc đảm bảo các công tác bảo vệ NTD nói chung và những khiếu nại , tranh chấp giữa NTD và thương nhân trong lĩnh vực giao dịch thương mại điện tử nói riêng. Cuối cùng, Cục Cạnh tranh và bảo vệ NTD và cụ thể là phòng bảo vệ NTD - Cục Cạnh tranh và bảo vệ NTD phải đóng vai trò chỉ đạo, triển khai thực hiện các chính sách về bảo vệ quyền lợi NTD một cách nhất quán đối với các địa phương. Tóm lại, cần phải một gắn kết và tạo thành sức mạnh một khối đồng bộ trong các thiết chế thực thi pháp luật bảo vệ quyền lợi NTD.

Cuối cùng, kiện toàn bộ máy quản lí nhà nước về bảo vệ quyền lợi NTD theo hướng tăng cường nguồn nhân lực để giám sát các thương nhân trong lĩnh vực giao dịch thương mại điện tử đồng thời có những phương thức cụ thể để xử lí trường hợp thương nhân không thực hiện đúng trách nhiệm của mình trong lĩnh vực giao dịch thương mại điện tử để đảm bảo đầy đủ quyền lợi của NTD. Để công tác bảo vệ quyền lợi NTD thật sự có hiệu quả, Nhà nước cần tăng cường nguồn ngân sách dành cho việc kiểm tra, giám sát việc thực hiện trách nhiệm trong lĩnh vực giao dịch thương mại điện tử của tổ chức, cá nhân kinh doanh cũng như bảo đảm hoạt động của các cơ quan thực thi pháp luật có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp

3.3.4.   Cơ quan quản lý nhà nước cần tăng cường kiểm tra, giám sát việc thực thi pháp luật bảo vệ người tiêu dùng trong thương mại điện tử.

Cục Thương mại điện tử và Kinh tế số cần phối hợp chặt chẽ với Cục Cạnh tranh & Bảo vệ người tiêu dùng (Bộ Công Thương) nhằm tiến hành các cuộc thanh tra, kiểm tra các tổ chức, cá nhân kinh doanh giao dịch với NTD bằng phương tiện điện tử. Tăng cường kiểm tra, giám sát giúp phát hiện các hành vi vi phạm pháp luật bảo vệ NTD trong giao dịch điện tử của tổ chức, cá nhân kinh doanh, từ đó có những biện pháp xử lý thích hợp nhằm ngăn chặn, không để gây thiệt hại cho NTD. Đồng thời, trong quá trình kiểm tra, các cơ quan này có thể phổ biến, giáo dục cho tổ chức, cá nhân kinh doanh tuân thủ pháp luật.

3.3.5.  Tăng cường hợp tác quốc tế

* Tham gia vào mạng lưới các cơ quan bảo vệ người tiêu dùng trên thế giới 

Cơ quan bảo vệ người tiêu dùng Việt Nam là một cơ quan trẻ, việc tiếp thu kinh nghiệm từ các cơ quan bảo vệ người tiêu dùng tại các quốc gia khác là rất cần thiết. Tham gia tích cực vào hệ thống/mạng lưới giúp Việt Nam trao đổi, học hỏi kinh nghiệm và nâng cao nghiệm vụ rất hiệu quả.  Hiện nay, Việt Nam đã là thành viên của một số mạng lưới bảo vệ người tiêu dùng như ICPEN, ACCP (Ủy ban Bảo vệ người tiêu dùng ASEAN –

ASEAN Committee on Consumer Protection), econsumer.gov. Cơ quan bảo vệ người tiêu dùng Việt Nam cần phát huy việc tham gia vào các mạng lưới một cách triệt để cả về số lượng (tham gia nhiều hơn nữa các mạng lưới) và chất lượng (tăng cường các hoạt động trao đổi, chia sẻ và nâng cao nghiệp vụ trong mạng lưới).

Để bảo vệ người tiêu dùng trong TMĐT hiệu quả, hầu hết các cơ quan bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trên thế giới đều tích cực phát triển và thúc đẩy các chính sách và thực tiễn theo định hướng thị trường với các đối tác nước ngoài, các tổ chức và các mạng lưới quốc tế. Ngoài các mạng lưới chính thức đã được kể đến nêu trên, cơ quan bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng Việt Nam cũng cần cân nhắc, nghiên cứu nhằm tham gia vào các mạng lưới riêng biệt khác như:

-  Hệ thống quy tắc trong trao đổi dữ liệu cá nhân xuyên biên giới (Cross Border Privacy Rules System – CBPR), theo đó, hệ thống đã được 6 nước thành viên APEC áp dụng là Hoa Kỳ, Mexico, Nhật Bản, Ca-na-đa, Singapore và Hàn Quốc tham gia. Chỉ tính riêng trong năm 2017, Hội nghị SOM3 đã dành riêng một ngày để nghe báo cáo của Tiểu nhóm ECSG-DPS thảo luận về Hệ thống quy tắc bảo mật xuyên biên giới (CBPR) và Thỏa thuận thực thi bảo vệ sự riêng tư xuyên biên giới (CPEA). Như vậy có thể thấy quyết tâm của các nước thành viên APEC trong việc hiện thực hóa và tiến đến ký kết văn kiện cho việc bảo mật thông tin cá nhân của người tiêu dùng trong toàn khối.

- Mạng lưới thực thi quyền riêng tư toàn cầu (The Global Privacy Enforcement Network – GPEN) được Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế (Organization for Economic Cooperation and Development - OECD) thành lập vào năm 2010 và Hệ thống GPEN Alert – một hệ thống chia sẻ thông tin mới cho phép các bên phối hợp tốt hơn các nỗ lực quốc tế trong việc bảo vệ quyền riêng tư của người tiêu dùng. Các bên đã ký vào biên bản ghi nhớ về việc tăng cường sự phối hợp bằng cách cho phép các bên tham gia chia sẻ thông tin một cách bí mật về các cuộc điều tra.

Việc tham gia vào các mạng lưới bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trên thế giới không chỉ đem đến hiệu quả trong quá trình giải quyết khiếu nại của người tiêu dùng, mà còn là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến việc đánh giá xem liệu một quốc gia có phải là địa điểm lý tưởng cho một tranh chấp bao gồm khung pháp lý của quốc gia đó (pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, tỷ lệ công nhận thỏa thuận, hòa giải), vị trí địa lý, cơ sở hạ tầng nói chung, trung tâm tư vấn, hỗ trợ giải quyết khiếu nại, ảnh hưởng từ các bên ...

Ngoài ra, việc giải quyết khiếu nại xuyên biên giới cần phải căn cứ trên các nguyên tắc chung mà khi Cơ quan bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng Việt Nam tham gia cần tôn trọng như nguyên tắc tôn trọng thỏa thuận của các bên, tính độc lập của cơ quan bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng (giữa người tiêu dùng và tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa dịch vụ bất kể là bên nào và thuộc quốc gia nào), nguyên tắc tố tụng công bằng và nguyên tắc bảo mật.

Về lý thuyết, những nguyên tắc cơ bản nhất này đảm bảo hoạt động tư vấn, hỗ trợ và giải quyết khiếu nại tại Việt Nam hoàn toàn phù hợp với thực tiễn trong quá trình giải quyết khiếu nại của người tiêu dùng trên thế giới và quan trọng hơn là thực sự đưa việc phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trở thành cầu nối giữa người tiêu dùng, doanh nghiệp và là một phương thức giải quyết tranh chấp hiệu quả, công bằng cho các bên.

* Ký các văn kiện pháp lý về hợp tác với cơ quan bảo vệ người tiêu dùng của các nước

Bên cạnh việc tham gia mạng lưới/hệ thống/tổ chức là một tập thể bao gồm nhiều cơ quan bảo vệ người tiêu dùng trên thế giới, việc ký cam kết, mà điển hình là MoU giữa 02 cơ quan bảo vệ người tiêu dùng thuộc 02 quốc gia sẽ hỗ trợ Việt Nam rất nhiều trong công tác giải quyết khiếu nại xuyên biên giới. MoU cho phép 02 nước tham gia đạt được nhiều thỏa thuận hơn cũng như sát sao hơn trong quá trình thực hiện.

Hiện nay, Việt Nam đã ký MoU với Hàn Quốc trong lĩnh vực này (được thực hiện giữa Cục CT&BVNTD Việt Nam và Cơ quan Bảo vệ người tiêu dùng Hàn Quốc). Trên thực tế, các khiếu nại xuyên biên giới phát sinh giữa 02 quốc gia đã được giải quyết khá hiệu quả. Vì vậy, trong thời gian tới, Việt Nam cần phát triển hình thức hợp tác này hơn nữa bằng cách ký MoU với nhiều quốc gia, trong đó nên bao gồm các quốc gia có khả năng phát sinh nhiều giao dịch xuyên biên giới với Việt Nam như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản, ...

Ngoài ra, việc ký kết MoU giữa các bên cũng tạo tiền đề cơ sở pháp lý cho việc hỗ trợ, giải quyết khiếu nại người tiêu dùng Việt Nam tại nước ngoài và ngược lại. Theo đó, các yêu cầu giải quyết của người tiêu dùng sẽ được cụ thể hóa, tiến đến giải quyết khiếu nại, yêu cầu của người tiêu dùng xuyên biên giới.

3.3.6.  Đa dạng hóa các tổ chức xã hội bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng

Thực tế cho thấy, mô hình tổ chức của các tổ chức BVNTD ở Việt Nam hiện nay là còn nghèo nàn, chưa phù hợp với sự phong phú, đa dạng của công tác BVNTD cũng như chưa phát huy được sức mạnh của xã hội trong hoạt động này. Cần có các nghiên cứu trong việc xây dựng cơ cấu, đồng bộ hóa hệ thống và đổi mới phương pháp hoạt động của các tổ chức xã hội tại Việt Nam để tiến đến tư vấn, hỗ trợ và giải quyết khiếu nại của người tiêu dùng xuyên biên giới. Kinh nghiệm của nhiều quốc gia trên thế giới như Pháp, Hàn Quốc, Đài Loan...cho thấy tổ chức BVNTD được tổ chức dưới rất nhiều loại hình khác nhau như: Hội BVNTD (Consumer Protection Associations), Nhóm BVNTD (Consumer Protection Team), Câu lạc bộ BVNTD (Consumer Protection Club)...Vấn đề ở đây không chỉ là tên gọi của các tổ chức này mà là mục tiêu, đối tượng hướng đến cũng như phương pháp hoạt động của các tổ chức này là

khác nhau, ngoài ra, bản thân các chủ thể này cũng có sự chủ động nhất định và trực tiếp tham gia giải quyết khiếu nại người tiêu dùng xuyên biên giới.

Bên cạnh đó, các tổ chức BVNTD cũng cần có sự hỗ trợ tích cực của các cơ quan, tổ chức trong xã hội. Thực tiễn vừa qua cho thấy, các tổ chức BVNTD không thực sự có mối liên hệ chặt chẽ với các cơ quan, đoàn thể trong xã hội, chưa tận dụng được sự ủng hộ của các tổ chức chính trị - xã hội, xã hội – nghề nghiệp đặc biệt là một số tổ chức có vai trò rất quan trọng trong công tác BVNTD như: Hội Nông dân Việt Nam, Hội Phụ nữ Việt Nam, Tổng liên đoàn Lao động, Hội các nhà doanh nghiệp trẻ, Hội Luật gia Việt Nam. Các tổ chức BVNTD có thể phối hợp với các đơn vị này để thực hiện những hoạt động BVNTD một cách có hiệu quả. Kinh nghiệm ở Pháp cho thấy, Hội BVNTD làm công ăn lương (Indecosa) hoạt động rất có hiệu quả là nhờ sự bảo trợ, giúp đỡ của Tổng liên đoàn lao động (CGT). Do đó, Nhà nước cần khuyến khích các cơ quan, đoàn thể trong hoạt động phối hợp, hỗ trợ các tổ chức BVNTD trong quá trình hoạt động.

Theo: Nguyễn Ngọc Quyên

Link luận án:

https://docs.google.com/document/d/1ogQOOGL1pXDZfSUNkdQ6ztG4GbkMmxMo/edit

avatar
Đặng Quỳnh
584 ngày trước
GIẢI PHÁP N NG CAO HIỆU QUẢ THỰC THI PHÁP LUẬT BẢO VỆ NGƯỜI TIÊU DÙNG TRONG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ
 3.3.  Giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong thương mại điện tử“Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong các giao dịch thương mại điện tử với mức độ không thấp hơn trong các phương thức khác” là một trong những nguyên tắc mới của hoạt động bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng được Liên hợp quốc bổ sung vào Bản hướng dẫn về Bảo vệ người tiêu dùng (được ban hành lần đầu vào ngày 09 tháng 4 năm 1985 bởi Nghị quyết số 39/248 của Đại hội đồng Liên hợp quốc) năm 2015. Nguyên tắc này được Liên hợp quốc bổ sung trong Bản hướng dẫn của mình về Bảo vệ người tiêu dùng để nhằm xem xét được những vấn đề mới phát sinh trong các giao dịch thương mại điện tử của người tiêu dùng. Để bắt kịp xu thế chung của thế giới, cũng như nhằm kiểm soát được các hành vi xâm phạm đến quyền lợi người tiêu dùng thông qua môi trường mạng, pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng của Việt Nam nên bổ sung thêm các quy định cụ thể đảm bảo thực hiện được nguyên tắc nêu trên. Đặc biệt, cần bổ sung trách nhiệm liên đới của các sàn thương mại điện tử, các đơn vị trung gian cung cấp dịch vụ thanh toán, dịch vụ vận chuyển và các tổ chức, cá nhân khác có liên quan đến việc cung cấp hàng hóa, dịch vụ trực tuyến cho người tiêu dùng nhằm tránh việc câu kết né tránh trách nhiệm với người tiêu dùng của các chủ thể nêu trên.Khung pháp lý về bảo vệ quyền lợi NTD trong TMĐT đã bước đầu được hình thành. Tuy nhiên, giao dịch điện tử vẫn là lĩnh vực mới mẻ đối với các cơ quan chức năng, tổ chức, cá nhân kinh doanh cũng như NTD, giao dịch điện tử lại dựa trên nền tảng công nghệ cao, cho nên để các văn bản pháp luật về bảo vệ NTD trong giao dịch điện tử thực sự đi vào đời sống, tạo ra môi trường pháp lý và hỗ trợ cho việc bảo vệ NTD, các cơ quan chức năng cần nỗ lực hơn nữa trong việc triển khai thực hiện các văn bản pháp luật đã ban hành. Trong khi triển khai, cần chú trọng tới hoạt động hướng dẫn, phổ biến nội dung pháp luật để tổ chức, cá nhân kinh doanh, người tiêu dùng hiểu và thực hiện đúng các quy định đã ban hành. Nội dung tuyên truyền cần đi sâu vào trách nhiệm của tổ chức, cá nhân kinh doanh đối với NTD và quyền, nghĩa vụ của NTD trong giao dịch điện tử, các phương thức giải quyết tranh chấp…. Đây là khâu then chốt giúp triển khai và hoàn thiện môi trường pháp lý về bảo vệ NTD trong giao dịch điện tử.3.3.1.   Giáo dục và nâng cao nhận thức của người tiêu dùng về thương mại điện tửViệc NTD được thông tin, hướng dẫn về TMĐT sẽ giúp cho họ nâng cao được quyền lợi của mình và khắc phục sự mất cân bằng quyền lực giữa họ và thương nhân.Điều cần thiết là người tiêu dùng phải nhận thức được các quyền của họ và những rủi ro mà TMĐT đem tới, đồng thời họ sẽ thiếu cơ hội để khắc phục hiệu quả khi mua sắm hàng hoá, dịch vụ thông qua các giao dịch điện tử. Một trung tâm thông tin chuyên hỗ trợ NTD khi giao kết hợp đồng trực tuyến với việc đưa ra các lời khuyên, gợi ý NTD nên làm gì để tự bảo vệ bản thân sẽ rất có giá trị cho NTD trong ngắn hạn cho đến khi các quy định pháp luật bao trùm được toàn bộ các hoạt động TMĐT, đảm bảo NTD được bảo vệ toàn diện.Trung tâm này cũng có thể cung cấp lời khuyên cho người tiêu dùng về các bước thực tế mà họ có thể thực hiện để tự bảo vệ mình khi mua sắm trực tuyến. Ví dụ: bằng cách đảm bảo rằng các thiết bị được sử dụng để truy cập các trang web thương mại điện tử (ví dụ: máy tính xách tay, máy tính bảng và điện thoại thông minh) được thiết lập an toàn.Người tiêu dùng cũng cần thông tin tốt hơn về các trang web lừa đảo và giả mạo để họ có thể tránh được các trang web bị liệt vào danh sách đen. Các cơ quan nhà nước xử lý các khiếu nại của NTD trong TMĐT có thể tổng hợp các danh sách đó dựa trên dữ liệu được báo cáo và các trường hợp được xử lý. Ở Việt Nam cũng có trang web chonghanggia.gov.vn, có mục cho NTD cung cấp thông tin về trang web giả mạo…3.3.2.   Nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng trong thương mại điện tử của tổ chức, cá nhân kinh doanh.Giao dịch điện tử giữa tổ chức, cá nhân kinh doanh với người tiêu dùng ngày càng phát triển mạnh mẽ. Hệ thống pháp luật liên quan tới giao dịch điện tử và bảo vệ NTD về cơ bản đã được xác lập và đang liên tục được bổ sung nhằm hoàn thiện hơn. Do đó, để có thể nắm bắt kịp thời các quy định của pháp luật, tổ chức, cá nhân kinh doanh cần phải thường xuyên tìm hiểu và thực hiện tốt quy định của pháp luật điều chỉnh các vấn đề có liên quan tới hoạt động kinh doanh bằng phương tiện điện tử của mình như trình tự giao kết hợp đồng điện tử với NTD, trách nhiệm bảo vệ thông tin cá nhân của NTD, các phương thức giải quyết tranh chấp…. Chỉ khi nào tổ chức, cá nhân kinh doanh ý thức được trách nhiệm của mình trong giao dịch điện tử với NTD, lúc đó NTD mới thực sự được bảo vệ. Tổ chức, cá nhân kinh doanh càng tuân thủ pháp luật, NTD càng yên tâm khi giao dịch điện tử với tổ chức, cá nhân kinh doanh, từ đó thúc đẩy giao dịch điện tử phát triển hơn nữa, mang lại lợi ích không chỉ cho NTD mà còn cho tổ chức, cá nhân kinh doanh. Các cơ quan quản lý nhà nước nên tập trung hỗ trợ cho các doanh nghiệp xây dựng mô hình giao dịch điện tử với NTD, đáp ứng các tiêu chuẩn mà pháp luật đề ra, đồng thời tích cực tuyên truyền, phổ biến pháp luật tới tổ chức, cá nhân kinh doanh, có thể thông qua cách gửi thư điện tử đến tổ chức, cá nhân kinh doanh hoặc đăng tải trên website của cơ quan quản lý nhà nước. Phương thức này giúp cho tổ chức, cá nhân kinh doanh kịp thời cập nhật các văn bản pháp luật liên quan đến TMĐT nói chung và bảo vệ NTD trong TMĐT nói riêng.3.3.3.   Tăng cường năng lực cho các cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùngĐối với các cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi NTD cấp huyện, cần phải có các văn bản hướng dẫn cụ thể về nhiệm vụ quyền hạn và cách thức tổ chức thực hiện những nhiệm vụ quyền hạn đó, góp phần thực thi luật bảo vệ quyền lợi NTD một cách thống nhất. Tránh tình trạng, mặc dù trong Luật quy định rõ quyền khiếu nại của NTD đến Uỷ ban nhân dân cấp huyện nhưng NTD lại không biết khiếu nại tới phòng nào, ban nào của Uỷ ban nhân dân cấp huyện để bảo vệ quyền và lợi ích cho mình. Tiếp theo, đối với Sở Công thương là đơn vị giúp Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện chức năng về bảo vệ quyền lợi NTD. Sở Công thương là đơn vị giúp Uỷ ban nhân dân thực hiện chức năng bảo vệ quyền lợi NTD và phải thực hiện triển khai nhiệm vụ một cách nghiêm túc, phải có chuyên viên chuyên trách về công tác bảo vệ quyền lợi NTD để đẩy mạnh việc đảm bảo các công tác bảo vệ NTD nói chung và những khiếu nại , tranh chấp giữa NTD và thương nhân trong lĩnh vực giao dịch thương mại điện tử nói riêng. Cuối cùng, Cục Cạnh tranh và bảo vệ NTD và cụ thể là phòng bảo vệ NTD - Cục Cạnh tranh và bảo vệ NTD phải đóng vai trò chỉ đạo, triển khai thực hiện các chính sách về bảo vệ quyền lợi NTD một cách nhất quán đối với các địa phương. Tóm lại, cần phải một gắn kết và tạo thành sức mạnh một khối đồng bộ trong các thiết chế thực thi pháp luật bảo vệ quyền lợi NTD.Cuối cùng, kiện toàn bộ máy quản lí nhà nước về bảo vệ quyền lợi NTD theo hướng tăng cường nguồn nhân lực để giám sát các thương nhân trong lĩnh vực giao dịch thương mại điện tử đồng thời có những phương thức cụ thể để xử lí trường hợp thương nhân không thực hiện đúng trách nhiệm của mình trong lĩnh vực giao dịch thương mại điện tử để đảm bảo đầy đủ quyền lợi của NTD. Để công tác bảo vệ quyền lợi NTD thật sự có hiệu quả, Nhà nước cần tăng cường nguồn ngân sách dành cho việc kiểm tra, giám sát việc thực hiện trách nhiệm trong lĩnh vực giao dịch thương mại điện tử của tổ chức, cá nhân kinh doanh cũng như bảo đảm hoạt động của các cơ quan thực thi pháp luật có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp3.3.4.   Cơ quan quản lý nhà nước cần tăng cường kiểm tra, giám sát việc thực thi pháp luật bảo vệ người tiêu dùng trong thương mại điện tử.Cục Thương mại điện tử và Kinh tế số cần phối hợp chặt chẽ với Cục Cạnh tranh & Bảo vệ người tiêu dùng (Bộ Công Thương) nhằm tiến hành các cuộc thanh tra, kiểm tra các tổ chức, cá nhân kinh doanh giao dịch với NTD bằng phương tiện điện tử. Tăng cường kiểm tra, giám sát giúp phát hiện các hành vi vi phạm pháp luật bảo vệ NTD trong giao dịch điện tử của tổ chức, cá nhân kinh doanh, từ đó có những biện pháp xử lý thích hợp nhằm ngăn chặn, không để gây thiệt hại cho NTD. Đồng thời, trong quá trình kiểm tra, các cơ quan này có thể phổ biến, giáo dục cho tổ chức, cá nhân kinh doanh tuân thủ pháp luật.3.3.5.  Tăng cường hợp tác quốc tế* Tham gia vào mạng lưới các cơ quan bảo vệ người tiêu dùng trên thế giới Cơ quan bảo vệ người tiêu dùng Việt Nam là một cơ quan trẻ, việc tiếp thu kinh nghiệm từ các cơ quan bảo vệ người tiêu dùng tại các quốc gia khác là rất cần thiết. Tham gia tích cực vào hệ thống/mạng lưới giúp Việt Nam trao đổi, học hỏi kinh nghiệm và nâng cao nghiệm vụ rất hiệu quả.  Hiện nay, Việt Nam đã là thành viên của một số mạng lưới bảo vệ người tiêu dùng như ICPEN, ACCP (Ủy ban Bảo vệ người tiêu dùng ASEAN –ASEAN Committee on Consumer Protection), econsumer.gov. Cơ quan bảo vệ người tiêu dùng Việt Nam cần phát huy việc tham gia vào các mạng lưới một cách triệt để cả về số lượng (tham gia nhiều hơn nữa các mạng lưới) và chất lượng (tăng cường các hoạt động trao đổi, chia sẻ và nâng cao nghiệp vụ trong mạng lưới).Để bảo vệ người tiêu dùng trong TMĐT hiệu quả, hầu hết các cơ quan bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trên thế giới đều tích cực phát triển và thúc đẩy các chính sách và thực tiễn theo định hướng thị trường với các đối tác nước ngoài, các tổ chức và các mạng lưới quốc tế. Ngoài các mạng lưới chính thức đã được kể đến nêu trên, cơ quan bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng Việt Nam cũng cần cân nhắc, nghiên cứu nhằm tham gia vào các mạng lưới riêng biệt khác như:-  Hệ thống quy tắc trong trao đổi dữ liệu cá nhân xuyên biên giới (Cross Border Privacy Rules System – CBPR), theo đó, hệ thống đã được 6 nước thành viên APEC áp dụng là Hoa Kỳ, Mexico, Nhật Bản, Ca-na-đa, Singapore và Hàn Quốc tham gia. Chỉ tính riêng trong năm 2017, Hội nghị SOM3 đã dành riêng một ngày để nghe báo cáo của Tiểu nhóm ECSG-DPS thảo luận về Hệ thống quy tắc bảo mật xuyên biên giới (CBPR) và Thỏa thuận thực thi bảo vệ sự riêng tư xuyên biên giới (CPEA). Như vậy có thể thấy quyết tâm của các nước thành viên APEC trong việc hiện thực hóa và tiến đến ký kết văn kiện cho việc bảo mật thông tin cá nhân của người tiêu dùng trong toàn khối.- Mạng lưới thực thi quyền riêng tư toàn cầu (The Global Privacy Enforcement Network – GPEN) được Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế (Organization for Economic Cooperation and Development - OECD) thành lập vào năm 2010 và Hệ thống GPEN Alert – một hệ thống chia sẻ thông tin mới cho phép các bên phối hợp tốt hơn các nỗ lực quốc tế trong việc bảo vệ quyền riêng tư của người tiêu dùng. Các bên đã ký vào biên bản ghi nhớ về việc tăng cường sự phối hợp bằng cách cho phép các bên tham gia chia sẻ thông tin một cách bí mật về các cuộc điều tra.Việc tham gia vào các mạng lưới bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trên thế giới không chỉ đem đến hiệu quả trong quá trình giải quyết khiếu nại của người tiêu dùng, mà còn là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến việc đánh giá xem liệu một quốc gia có phải là địa điểm lý tưởng cho một tranh chấp bao gồm khung pháp lý của quốc gia đó (pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, tỷ lệ công nhận thỏa thuận, hòa giải), vị trí địa lý, cơ sở hạ tầng nói chung, trung tâm tư vấn, hỗ trợ giải quyết khiếu nại, ảnh hưởng từ các bên ...Ngoài ra, việc giải quyết khiếu nại xuyên biên giới cần phải căn cứ trên các nguyên tắc chung mà khi Cơ quan bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng Việt Nam tham gia cần tôn trọng như nguyên tắc tôn trọng thỏa thuận của các bên, tính độc lập của cơ quan bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng (giữa người tiêu dùng và tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa dịch vụ bất kể là bên nào và thuộc quốc gia nào), nguyên tắc tố tụng công bằng và nguyên tắc bảo mật.Về lý thuyết, những nguyên tắc cơ bản nhất này đảm bảo hoạt động tư vấn, hỗ trợ và giải quyết khiếu nại tại Việt Nam hoàn toàn phù hợp với thực tiễn trong quá trình giải quyết khiếu nại của người tiêu dùng trên thế giới và quan trọng hơn là thực sự đưa việc phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trở thành cầu nối giữa người tiêu dùng, doanh nghiệp và là một phương thức giải quyết tranh chấp hiệu quả, công bằng cho các bên.* Ký các văn kiện pháp lý về hợp tác với cơ quan bảo vệ người tiêu dùng của các nướcBên cạnh việc tham gia mạng lưới/hệ thống/tổ chức là một tập thể bao gồm nhiều cơ quan bảo vệ người tiêu dùng trên thế giới, việc ký cam kết, mà điển hình là MoU giữa 02 cơ quan bảo vệ người tiêu dùng thuộc 02 quốc gia sẽ hỗ trợ Việt Nam rất nhiều trong công tác giải quyết khiếu nại xuyên biên giới. MoU cho phép 02 nước tham gia đạt được nhiều thỏa thuận hơn cũng như sát sao hơn trong quá trình thực hiện.Hiện nay, Việt Nam đã ký MoU với Hàn Quốc trong lĩnh vực này (được thực hiện giữa Cục CT&BVNTD Việt Nam và Cơ quan Bảo vệ người tiêu dùng Hàn Quốc). Trên thực tế, các khiếu nại xuyên biên giới phát sinh giữa 02 quốc gia đã được giải quyết khá hiệu quả. Vì vậy, trong thời gian tới, Việt Nam cần phát triển hình thức hợp tác này hơn nữa bằng cách ký MoU với nhiều quốc gia, trong đó nên bao gồm các quốc gia có khả năng phát sinh nhiều giao dịch xuyên biên giới với Việt Nam như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản, ...Ngoài ra, việc ký kết MoU giữa các bên cũng tạo tiền đề cơ sở pháp lý cho việc hỗ trợ, giải quyết khiếu nại người tiêu dùng Việt Nam tại nước ngoài và ngược lại. Theo đó, các yêu cầu giải quyết của người tiêu dùng sẽ được cụ thể hóa, tiến đến giải quyết khiếu nại, yêu cầu của người tiêu dùng xuyên biên giới.3.3.6.  Đa dạng hóa các tổ chức xã hội bảo vệ quyền lợi người tiêu dùngThực tế cho thấy, mô hình tổ chức của các tổ chức BVNTD ở Việt Nam hiện nay là còn nghèo nàn, chưa phù hợp với sự phong phú, đa dạng của công tác BVNTD cũng như chưa phát huy được sức mạnh của xã hội trong hoạt động này. Cần có các nghiên cứu trong việc xây dựng cơ cấu, đồng bộ hóa hệ thống và đổi mới phương pháp hoạt động của các tổ chức xã hội tại Việt Nam để tiến đến tư vấn, hỗ trợ và giải quyết khiếu nại của người tiêu dùng xuyên biên giới. Kinh nghiệm của nhiều quốc gia trên thế giới như Pháp, Hàn Quốc, Đài Loan...cho thấy tổ chức BVNTD được tổ chức dưới rất nhiều loại hình khác nhau như: Hội BVNTD (Consumer Protection Associations), Nhóm BVNTD (Consumer Protection Team), Câu lạc bộ BVNTD (Consumer Protection Club)...Vấn đề ở đây không chỉ là tên gọi của các tổ chức này mà là mục tiêu, đối tượng hướng đến cũng như phương pháp hoạt động của các tổ chức này làkhác nhau, ngoài ra, bản thân các chủ thể này cũng có sự chủ động nhất định và trực tiếp tham gia giải quyết khiếu nại người tiêu dùng xuyên biên giới.Bên cạnh đó, các tổ chức BVNTD cũng cần có sự hỗ trợ tích cực của các cơ quan, tổ chức trong xã hội. Thực tiễn vừa qua cho thấy, các tổ chức BVNTD không thực sự có mối liên hệ chặt chẽ với các cơ quan, đoàn thể trong xã hội, chưa tận dụng được sự ủng hộ của các tổ chức chính trị - xã hội, xã hội – nghề nghiệp đặc biệt là một số tổ chức có vai trò rất quan trọng trong công tác BVNTD như: Hội Nông dân Việt Nam, Hội Phụ nữ Việt Nam, Tổng liên đoàn Lao động, Hội các nhà doanh nghiệp trẻ, Hội Luật gia Việt Nam. Các tổ chức BVNTD có thể phối hợp với các đơn vị này để thực hiện những hoạt động BVNTD một cách có hiệu quả. Kinh nghiệm ở Pháp cho thấy, Hội BVNTD làm công ăn lương (Indecosa) hoạt động rất có hiệu quả là nhờ sự bảo trợ, giúp đỡ của Tổng liên đoàn lao động (CGT). Do đó, Nhà nước cần khuyến khích các cơ quan, đoàn thể trong hoạt động phối hợp, hỗ trợ các tổ chức BVNTD trong quá trình hoạt động.Theo: Nguyễn Ngọc QuyênLink luận án:https://docs.google.com/document/d/1ogQOOGL1pXDZfSUNkdQ6ztG4GbkMmxMo/edit