0888889366
Tra cứu thông tin hợp đồng
timeline_post_file648a811884309-PHÁP-LUẬT-VỀ-HỢP-ĐỒNG-CHUYỂN-GIAO-QUYỀN-SỞ-HỮU-NHÃN-HIỆU.jpg.webp

PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG CHUYỂN GIAO QUYỀN SỞ HỮU NHÃN HIỆU


 

1.1.7. Phân loại hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu

Có thể nói, việc phân loại hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu có tác dụng rất lớn trong việc giúp các bên hiểu rõ và lựa chọn được dạng hợp đồng chuyển giao phù hợp với nhu cầu, điều kiện, hoàn cảnh của mình để ký kết. Các dạng hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu được phân loại dựa trên những tiêu chí khác nhau nhưng phổ biến nhất là dựa vào các tiêu chí sau:

Căn cứ vào phạm vi quyền: nếu căn cứ vào tiêu chí này chúng ta sẽ có:

i)  Hợp đồng độc quyền: là dạng hợp đồng mà theo đó, trong phạm vi và thời hạn chuyển giao, bên nhận chuyển giao quyền được độc quyền sử dụng nhãn hiệu. Trong thời gian hợp đồng còn hiệu lực, bên chuyển giao quyền không được ký kết hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu với bất kỳ bên thứ ba nào và chỉ được sử dụng nhãn hiệu nếu được phép của bên nhận chuyển giao.

ii)   Hợp đồng không độc quyền: là hợp đồng mà theo đó bên chuyển giao quyền vừa chuyển quyền sử dụng nhãn hiệu cho bên nhận chuyển giao trong phạm vi và thời hạn chuyển giao mà các bên đã thỏa thuận trong hợp đồng nhưng đồng thời vẫn có quyền sử dụng nhãn hiệu và còn có thể chuyển quyền sử dụng nhãn hiệu cho bên thứ ba. Trong trường hợp này, nhiều chủ thể có thể cùng nhau khai thác, sử dụng nhãn hiệu theo phạm vi, mức độ và cho những mục đích riêng khác nhau mà không làm ảnh hưởng đến lợi ích hợp pháp của chủ thể khác.

Nếu căn cứ vào chủ thể là bên chuyển quyền trong hợp đồng thì sẽ bao gồm:

i)  Hợp đồng cơ bản: Là hợp đồng trong đó bên chuyển quyền chính là chủ sở hữu nhãn hiệu. Căn cứ để chuyển giao quyền sử dụng trong hợp đồng là quyền sở hữu nhãn hiệu được xác lập theo văn bằng bảo hộ hoặc do được người khác chuyển quyền sở hữu nhãn hiệu hợp pháp.

ii)   Hợp đồng thứ cấp không căn bản: Là hợp đồng trong đó bên chuyển giao quyền không phải là chủ sở hữu nhãn hiệu mà là người nhận chuyển giao quyền sử dụng độc quyền theo hợp đồng khác và được phép chuyển quyền sử dụng cho bên thứ ba. Loại hợp đồng này luôn có tính chất phái sinh, nó chỉ phát sinh sau khi một hợp đồng sử dụng độc quyền nhãn hiệu được giao kết và phát sinh hiệu lực pháp lý. Căn cứ để chuyển giao quyền sử dụng trong trường hợp này là hợp đồng sử dụng độc quyền đã được giao kết với chủ sở hữu nhãn hiệu.

Khi quy định về các loại hợp đồng chuyển quyền sử dụng nhãn hiệu, theo pháp luật Hoa Kỳ, chủ sở hữu nhãn hiệu có thể chuyển quyền sử dụng nhãn hiệu của họ cho một hoặc nhiều bên trên cơ sở độc quyền hay không độc quyền. Người được chuyển quyền sử dụng nhãn hiệu độc quyền có thể được chuyển quyền sử dụng lại nhãn hiệu cho bên thứ ba, còn người được chuyển quyền sử dụng nhãn hiệu không độc quyền không có quyền ký hợp đồng chuyển quyền sử dụng lại nhãn hiệu đó cho bên thứ ba37. Còn theo pháp luật Trung Quốc, trong phần Giải thích một số câu hỏi về việc áp dụng pháp luật trong xét xử các vụ việc tranh chấp dân sự về nhãn hiệu do Tòa án tối cao của Trung Quốc ban hành đã phân loại các dạng chuyển quyền dựa trên phạm vi quyền sử dụng nhãn hiệu của người được cấp phép và vị thế của người được cấp phép trong các vụ kiện tụng. Theo đó có 03 dạng hợp đồng chuyển quyền sử dụng nhãn hiệu:

i)  Hợp đồng chuyển quyền sử dụng nhãn hiệu độc quyền (Exclusive license): chủ sở hữu nhãn hiệu chuyển quyền sử dụng nhãn hiệu độc quyền cho bên nhận quyền trong một thời hạn theo thỏa thuận, trong một lãnh thổ xác định và theo một cách thức thỏa thuận; chủ sở hữu nhãn hiệu không được sử dụng nhãn hiệu đó.

ii)  Hợp đồng chuyển quyền sử dụng nhãn hiệu duy nhất (sole license): chủ sở hữu nhãn hiệu chuyển quyền sử dụng nhãn hiệu duy nhất và độc quyền cho bên nhận chuyển quyền sử dụng nhãn hiệu đó trong một thời hạn theo thỏa thuận, trong một lãnh thổ xác định và theo một cách thức thỏa thuận; tuy nhiên chủ sở hữu nhãn hiệu có thể tiếp tục sử dụng nhãn hiệu đó nhưng không được chuyển quyền sử dụng nhãn hiệu đó cho một bên khác sử dụng.

iii)   Hợp đồng chuyển quyền sử dụng nhãn hiệu không độc quyền (Non - Exclusive license): chủ sở hữu nhãn hiệu chuyển quyền sử dụng nhãn hiệu cho bên thứ ba sử dụng trong một thời hạn theo thỏa thuận, trong một lãnh thổ xác định và theo một cách thức thỏa thuận; nhưng chủ sở hữu nhãn hiệu vẫn có thể sử dụng nhãn hiệu đó cũng như có quyền chuyển quyền sử dụng nhãn hiệu đó cho các bên khác.

1.1.8  Vai trò của hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu

Để xây dựng một nhãn hiệu thành công, chủ thể kinh doanh không những chỉ đơn thuần là gắn nó lên sản phẩm do mình làm ra mà phải có một chiến lược phát triển nhãn hiệu khôn khéo. Một trong những chiến lược tiêu biểu đó là thực hiện việc kí hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu cho một hoặc nhiều chủ thể khác. Thông qua hoạt động này, nhãn hiệu của doanh nghiệp sẽ được nhiều người tiêu dùng biết đến hơn và thậm chí trở thành những nhãn hiệu mang tầm cỡ toàn cầu. Thật vậy, khi mới thành lập năm 1891, Philips (hãng sản xuất đèn điện tử của Hà Lan) chuyên sản xuất đèn điện và các thiết bị điện tử khác, và đến những năm 1920, Philips mở rộng sang Mỹ, Pháp và Bỉ. Ngày nay, Philips không chỉ đơn thuần là một nhãn hiệu của Hà Lan mà được giới thiệu ra toàn thế giới. Bất cứ tại Áo, Ấn Độ, Úc, Mỹ… cũng có thể khẳng định điều này. Philips đã trở nên thân thuộc như “người một nhà” ở nhiều quốc gia. Câu chuyện thành công của Philips chỉ là một trong vô vàn các trường hợp tìm được sự thành công nhờ vào việc kí kết hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu, khiến cho việc kí kết hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu ngày càng trở nên phổ biến, được nhiều chủ thể kinh doanh sử dụng trong hoạt động kinh doanh để thỏa mãn nhu cầu cũng như thỏa mãn lợi ích của bên chuyển giao lẫn bên nhận chuyển giao và thậm chí là nền kinh tế lẫn người tiêu dùng cũng thu được không ít lợi ích từ loại hợp đồng này. Cụ thể:

i)   Đối với bên chuyển giao: Bên chuyển giao sẽ thu được khoản tiền (phí chuyển giao) từ việc chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu để có thêm lợi nhuận hoặc lợi ích vật chất khác mà không phải trực tiếp sử dụng nhãn hiệu. Điều này càng phát huy tính hữu ích của nó khi chủ sở hữu nhãn hiệu không hoạt động kinh doanh hoặc không có năng lực kinh doanh. Còn đối với những chủ thể kinh doanh đã tạo lập nhãn hiệu thành công thì việc chuyển giao nhãn hiệu cũng là phương thức hữu hiệu để họ mở rộng mạng lưới kinh doanh, quảng bá nhãn hiệu lẫn sản phẩm trong và ngoài nước, tăng doanh thu. Đặc biệt, việc chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu còn giúp các nhà sản xuất, kinh doanh có khả năng bảo vệ nhãn hiệu cho sản phẩm của mình tốt hơn trước các hành vi xâm phạm nhãn hiệu bởi bên nhận chuyển giao sẽ là “tai mắt” cho bên chuyển giao trong việc phát hiện và thu thập các thông tin liên quan đến việc xâm phạm nhãn hiệu.

ii)   Đối với bên nhận chuyển giao: Bên nhận chuyển giao lại muốn khai thác nhãn hiệu của người khác để gắn lên hàng hóa, dịch vụ của mình trong khi không cần phải mất thời gian tạo ra nhãn hiệu có “tên tuổi” cho hàng hóa, dịch vụ của mình nhưng vẫn được thụ hưởng lợi ích kinh tế từ việc khai thác nhãn hiệu đó (đặc biệt là nhận được quyền sử dụng các nhãn hiệu nổi tiếng).

iii)  Đối với nền kinh tế quốc gia: Một khi nhãn hiệu của một hàng hóa, dịch vụ nào đó đã trở nên nổi tiếng, được nhiều người biết đến không chỉ trong nước mà còn ở nước ngoài thì hoạt động xuất khẩu các sản phẩm đó sẽ được đẩy mạnh, nhà nước sẽ thu được lượng ngoại tệ nhiều hơn từ hoạt động xuất khẩu. Đồng thời, chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu còn xây dựng sức mạnh tiêu thụ nội địa và đóng góp nhiều hơn cho ngân sách nhà nước (thông qua việc thu thuế, kể cả việc có thể thu thuế trên thu nhập mà các chủ thể nhận được từ hoạt động chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu). Bên cạnh đó, một nhãn hiệu nổi tiếng còn có thể trở thành một thương hiệu quốc gia (National brand)39, trở thành một công cụ nhận diện quốc gia, mà khi nhắc đến nhãn hiệu đó người ta nghĩ ngay đến quốc gia mà chủ sở hữu nhãn hiệu đó mang quốc tịch và ngược lại, khi nhắc đến quốc gia đó người ta nghĩ ngay đến nhãn hiệu nổi tiếng đó ví dụ như: khi nhắc đến Microsoft, IBM, Apple, Google sẽ nghĩ ngay đến nước Hoa Kỳ; Rolex, Longin sẽ nghĩ ngay đến nước Thụy Sĩ,nBeerlao sẽ nghĩ ngay đến nước Lào;…

iv)  Đối với người tiêu dùng: Do việc chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu có thể mang lại cho các chủ thể kinh doanh những giá trị kinh tế lớn lao nên sẽ thúc đẩy họ xây dựng cho mình các nhãn hiệu nổi tiếng (nhãn hiệu càng nổi tiếng thì phí chuyển giao quyền sử dụng càng cao), nhưng để xây dựng được nhãn hiệu nổi tiếng có uy tín trong lòng khách hàng thì vấn đề tiên quyết mà doanh nghiệp buộc phải làm là không ngừng nâng cao chất lượng hàng hóa, phong cách phục vụ. Thông qua việc này, người tiêu dùng sẽ được thụ hưởng những sản phẩm có chất lượng tốt với phong cách phục vụ chu đáo và chuyên nghiệp hơn.

1.1.9  Phân biệt hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu với một số loại hợp đồng khác

1.1.9.1 Phân biệt hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu với hợp đồng chuyển nhượng nhãn hiệu

Hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu và hợp đồng chuyển nhượng nhãn hiệu do có những đặc điểm về chủ thể, hình thức, mục đích hợp đồng tương tự nhau nên rất dễ bị nhầm lẫn khi áp dụng trên thực tế, do đó cần phải có sự phân biệt để tránh những hậu quả đáng tiếc có thể xảy ra từ việc nhầm lẫn này. Trong hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu (hay còn gọi là li–xăng nhãn hiệu), bên chuyển giao (bên cấp li-xăng) vẫn tiếp tục sở hữu quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu, họ chỉ cho phép bên nhận chuyển giao (bên nhận li-xăng) được sử dụng nhãn hiệu trong giới hạn nhất định. Trong hợp đồng chuyển nhượng nhãn hiệu ((bán) quyền sở hữu nhãn hiệu), quyền sở hữu nhãn hiệu được chuyển từ bên nhượng quyền (người bán) sang bên tiếp nhận quyền (người mua), theo đó bên nhận chuyển nhượng sẽ có toàn quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt nhãn hiệu được chuyển nhượng. Đây là hình thức giao dịch một lần với mức giá thỏa thuận. Ví dụ: Công ty CocaCola là công ty kinh doanh đồ uống và là nhà sản xuất, bán lẻ, quảng bá các đồ uống và siro không cồn đa quốc gia của Hoa Kỳ (là chủ sở hữu của nhãn hiệu nước ngọt CocaCola). Giả sử tháng 1/2022, công ty này kí hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu CocaCola cho một công ty sản xuất và kinh doanh đồ uống tại Việt Nam. Theo đó, công ty mua lại quyền sử dụng nhãn hiệu này chỉ có quyền sử dụng nhãn hiệu này theo những thỏa thuận đã được quy định trong hợp đồng chứ không được bán đứt (chuyển quyền sở hữu) nhãn hiệu này cho người khác bởi chủ sở hữu nhãn hiệu CocaCola vẫn thuộc về công ty CocaCola. Tuy nhiên, nếu như cho công ty này kí hợp đồng để nhận chuyển nhượng quyền sở hữu nhãn hiệu CocaCola từ công ty CocaCola thì sau khi hợp đồng có hiệu lực, công ty này có thể tự mình sử dụng hoặc cho chủ thể khác cùng sử dụng nhãn hiệu thông qua hợp đồng li xăng nhãn hiệu không độc quyền hoặc cũng có thể bán quyền sở hữu nhãn hiệu này cho người khác.

Bên cạnh đó, đối với hợp đồng chuyển nhượng nhãn hiệu thì giới hạn về không gian và thời gian mà nhãn hiệu được chuyển nhượng trong hợp đồng phải được ghi theo không gian và thời gian bảo hộ nhãn hiệu được ghi trong văn bằng bảo hộ. Song đối với hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu, giới hạn về không gian và thời gian nhãn hiệu được chuyển giao quyền sử dụng trong hợp đồng còn có thể phụ thuộc vào sự thỏa thuận của các bên, miễn sao thỏa thuận giới hạn về không gian và thời gian đó phù hợp với không gian và thời gian mà nhãn hiệu đó được bảo hộ ghi trong văn bằng bảo hộ.

1.1.9.2 Phân biệt hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu với hợp đồng chuyển nhượng tên thương mại

Tên thương mại được hiểu là tên gọi của tổ chức, cá nhân dùng trong hoạt động kinh doanh để phân biệt chủ thể kinh doanh mang tên gọi đó với chủ thể kinh doanh khác trong cùng lĩnh vực và khu vực kinh doanh. Trong thực tế kinh doanh, rất nhiều doanh nghiệp đã lấy chính tên thương mại của mình để làm nhãn hiệu cho hàng hóa mà mình sản xuất ra hoặc dịch vụ do mình cung cấp. Trên thế giới cũng như ở Việt Nam, những trường hợp như vậy không phải là hiếm, điển hình như:

Công ty công nghiệp Samsung với các sản phẩm điện tử (tủ lạnh, ti vi…) mang nhãn hiệu Samsung; Công ty cổ phần cà phê Trung Nguyên với sản phẩm cà phê mang nhãn hiệu Trung Nguyên; công ty cổ phần sữa Việt Nam có tên viết tắt là Vinamilk với sản phẩm sữa tươi có nhãn hiệu là Vinamilk; công ty trách nhiệm hữu hạn Thiên Hương với sản phẩm mè xững mang nhãn hiệu Thiên Hương…Do đó, nhiều người không phân biệt được đâu là nhãn hiệu, đâu là tên thương mại, tên thương mại và nhãn hiệu có phải là một hay không? Chính vì vậy mà dẫn đến việc nhầm lẫn khi hiểu chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu cũng chính là chuyển nhượng tên thương mại.

Từ khái niệm về nhãn hiệu và tên thương mại đã được đề cập ở những phần trên, chúng ta có thể khẳng định rằng nhãn hiệu khác với tên thương mại. Bởi nhãn hiệu không chỉ đơn thuần là một cái tên được gắn lên sản phẩm mà còn bao gồm dấu hiệu hoặc tổ hợp dấu hiệu có thể nhìn thấy được hoặc cảm nhận được thông qua các giác quan của con người như chữ cái, từ ngữ, hình vẽ, hình ảnh, kể cả hình ba chiều hoặc sự kết hợp các yếu tố đó, được thể hiện bằng màu sắc, âm thanh, mùi, vị nhằm để phân biệt hàng hoá, dịch vụ của chủ sở hữu nhãn hiệu với hàng hoá, dịch vụ của chủ thể khác. Còn tên thương mại chỉ đơn thuần là tên gọi của chủ thể kinh doanh, gắn liền với chủ thể kinh doanh và được dùng để phân biệt chủ thể kinh doanh mang tên gọi đó với chủ thể kinh doanh khác. Tên thương mại phải là tập hợp các chữ (kể cả chữ số) và phát âm được. Tên thương mại bao gồm hai phần: Phần mô tả và phần phân biệt. Phần mô tả là một tập hợp các từ có nghĩa mô tả tóm tắt loại hình kinh doanh (và lĩnh vực kinh doanh). Phần phân biệt là tập hợp các chữ cái (kể cả chữ số) phát âm được, có thể có nghĩa hoặc không có nghĩa. Phần mô tả không có khả năng tạo nên tính phân biệt cho tên thương mại (hai doanh nghiệp có tên thương mại khác nhau có thể có phần mô tả giống nhau). Ví dụ: Với tên Công ty TNHH xây dựng Thắng Lợi. Phần mô tả là “Công ty TNHH xây dựng”, phần phân biệt là “Thắng Lợi”, phân biệt với “Hiếu Hằng” trong “Công ty TNHH xây dựng Hiếu Hằng”. Một điểm khác biệt nữa là tên thương mại thường được sử dụng lâu dài, liên tục trong suốt thời gian tồn tại chủ thể kinh doanh. Còn một số nhãn hiệu trong một số trường hợp chỉ được sử dụng cho một vài thế hệ hàng hoá, dịch vụ nhất định, nhà sản xuất có thể thay đổi cho phù hợp thị hiếu người tiêu dùng hoặc chiến lược kinh doanh của mình.

Từ những luận cứ nêu trên có thể cho thấy hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu khác với chuyển nhượng tên thương mại ở điểm cơ bản sau:

Một là, khi giao kết hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu thường không đòi hỏi chủ sở hữu nhãn hiệu phải chuyển giao đồng thời toàn bộ cơ sở sản xuất kinh doanh cho bên nhận chuyển giao, tức là nhãn hiệu có thể được chuyển giao quyền sử dụng một cách độc lập, không cần phải chuyển giao cùng với các loại tài sản khác của bên chuyển giao. Còn đối với tên thương mại, chủ sở hữu tên thương mại chỉ được phép chuyển nhượng tên thương mại cho người khác với điều kiện phải chuyển nhượng cùng với việc chuyển nhượng toàn bộ cơ sở kinh doanh và hoạt động kinh doanh dưới tên thương mại đó.

Hai là, việc chuyển giao quyền sử dụng đối với tên thương mại là hành vi bị cấm, tức là chủ sở hữu tên thương mại chỉ có thể chuyển nhượng (quyền sở hữu) tên thương mại chứ không được chuyển giao riêng quyền sử dụng tên thương mại cho chủ thể kinh doanh khác, trong khi đó nhãn hiệu thì có thể được chuyển giao quyền sử dụng mà không nhất thiết phải chuyển giao quyền sở hữu nhãn hiệu.

1.1.9.3 Phân biệt hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu với hợp đồng nhượng quyền thương mại

Để có thể phân biệt thấu đáo giữa hai loại hợp đồng này, trước hết chúng ta cần đề cập đến phương thức chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu. Qua nghiên cứu, tác giả nhận thấy có hai phương thức chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu phổ biến nhất đó là chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu một cách độc lập và chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu đi cùng với các đối tượng sở hữu công nghiệp khác. Cụ thể:

i)  Chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu độc lập là việc bên có quyền chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu chỉ chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu đó cho bên nhận chuyển giao mà việc chuyển giao đó không đi kèm với việc chuyển giao các đối tượng của quyền sở hữu công nghiệp khác hay là hoạt động nhượng quyền thương mại giữa hai bên. Tức là, chủ sở hữu nhãn hiệu A nào đó chỉ chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu đó cho bên nhận chuyển giao mà không có chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu đi cùng với việc chuyển giao các đối tượng sở hữu công nghiệp khác (ví như: tên thương mại, bí mật kinh doanh;…); đồng thời việc chuyển giao quyền sử dụng này cũng không là một bộ phận nằm trong một hợp đồng nhượng quyền thương mại cụ thể nào đó. Việc chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu trong trường hợp này hoàn toàn là một hợp đồng độc lập có một đối tượng hợp đồng duy nhất được chuyển giao là quyền sử dụng nhãn hiệu.

ii)   Chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu đi cùng với các đối tượng khác: Trong thực tiễn kinh doanh, chúng ta vẫn có thể thấy quyền sử dụng nhãn hiệu đôi khi đuợc chuyển giao cùng với việc chuyển nhượng tên thương mại, bí quyết kinh doanh, khẩu hiệu kinh doanh, biểu tượng kinh doanh, cách thức tổ chức kinh doanh,…Điều này thường xảy ra trong hợp đồng nhượng quyền thương mại giữa các bên.

Nhượng quyền thương mại được xem là hoạt động thương mại, theo đó bên nhượng quyền cho phép và yêu cầu bên nhận quyền tự mình tiến hành việc mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ theo các điều kiện như: việc mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ được tiến hành theo cách thức tổ chức kinh doanh do bên nhượng quyền quy định và được gắn với nhãn hiệu hàng hoá, tên thương mại, bí quyết kinh doanh, khẩu hiệu kinh doanh, biểu tượng kinh doanh, quảng cáo của bên nhượng quyền; Bên nhượng quyền có quyền kiểm soát và trợ giúp cho bên nhận quyền trong việc điều hành công việc kinh doanh. Theo đó đối tượng của nhượng quyền thương mại là quyền thương mại. Quyền thương mại được hiểu là quyền tiến hành kinh doanh hàng hóa, dịch vụ theo cách thức của bên nhượng quyền quy định, cùng với đó là việc được sử dụng nhãn hiệu, tên thương mại, bí quyết kinh doanh, khẩu hiệu kinh doanh, biểu tượng kinh doanh,…của bên nhượng quyền. Do đó, hợp đồng nhượng quyền thương mại thường không thuần túy là chỉ chuyển quyền sử dụng nhãn hiệu. Từ những phân tích ở trên, có thể thấy, trong hợp đồng đồng nhượng quyền thương mại thường có sự tồn tại của việc chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu từ bên nhượng quyền sang bên nhận quyền. Do đó, khi đề cập đến hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu, nhiều người vẫn thường nhầm lẫn chúng với hợp đồng nhượng quyền thương mại. Thế nhưng, giữa hai loại hợp đồng này vẫn có điểm khác biệt, cụ thể:

Một là, nếu như hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu chỉ dừng lại ở việc chuyển giao quyền sử dụng thì ở nhượng quyền thương mại quyền sử dụng các đối tượng sở hữu công nghiệp chỉ là một phần của việc chuyển giao, bên cạnh đó còn là sự chuyển giao về bí quyết kinh doanh, khẩu hiệu kinh doanh, biểu tượng kinh doanh, cách thức tổ chức kinh doanh,… Như vậy, phạm vi đối tượng chuyển giao của hợp đồng nhượng quyền thương mại là rộng hơn rất nhiều so với hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu.

Hai là, nếu như trong hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu nhãn hiệu, cái mà các bên nhận chuyển giao hướng tới là sử dụng nhãn hiệu hàng hoá, dịch vụ, thì trong hoạt động nhượng quyền thương mại, mục tiêu mà các bên hướng tới là nắm giữ và vận hành một hệ thống kinh doanh, trong đó sử dụng nhãn hiệu hàng hoá, dịch vụ cũng như các đối tượng khác chỉ là một bộ phận cấu thành giúp các bên đạt được mục đích của việc nhượng quyền thương mại.

Ba là, trách nhiệm của bên nhận chuyển quyền trong hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu trên thực tế có phần lỏng lẻo do bên nhận chuyển quyền thường không chịu sự kiểm tra, giám sát, hướng dẫn trong hoạt động kinh doanh từ bên chuyển quyền vì đây không phải là nội dung điều khoản bắt buộc phải có trong hợp đồng, thì trong hợp đồng nhượng quyền thương mại bên nhận chuyển quyền phải chịu sự kiểm tra, giám sát, hướng dẫn của bên nhượng quyền trong suốt quá trình tổ chức kinh doanh kể từ thời điểm nhận nhượng quyền. Thậm chí nếu như bên nhượng quyền thương mại thay đổi cách thức tổ chức kinh doanh thì bên nhận chuyển quyền thương mại cũng phải thay đổi theo.

Theo: Nguyễn Thanh Tùng

Link luận án: 

https://docs.google.com/document/d/1IqZZc23icSQ_cCwJk_Pur563yqc9Fq2n/edit

avatar
Đặng Quỳnh
914 ngày trước
PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG CHUYỂN GIAO QUYỀN SỞ HỮU NHÃN HIỆU
 1.1.7. Phân loại hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệuCó thể nói, việc phân loại hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu có tác dụng rất lớn trong việc giúp các bên hiểu rõ và lựa chọn được dạng hợp đồng chuyển giao phù hợp với nhu cầu, điều kiện, hoàn cảnh của mình để ký kết. Các dạng hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu được phân loại dựa trên những tiêu chí khác nhau nhưng phổ biến nhất là dựa vào các tiêu chí sau:Căn cứ vào phạm vi quyền: nếu căn cứ vào tiêu chí này chúng ta sẽ có:i)  Hợp đồng độc quyền: là dạng hợp đồng mà theo đó, trong phạm vi và thời hạn chuyển giao, bên nhận chuyển giao quyền được độc quyền sử dụng nhãn hiệu. Trong thời gian hợp đồng còn hiệu lực, bên chuyển giao quyền không được ký kết hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu với bất kỳ bên thứ ba nào và chỉ được sử dụng nhãn hiệu nếu được phép của bên nhận chuyển giao.ii)   Hợp đồng không độc quyền: là hợp đồng mà theo đó bên chuyển giao quyền vừa chuyển quyền sử dụng nhãn hiệu cho bên nhận chuyển giao trong phạm vi và thời hạn chuyển giao mà các bên đã thỏa thuận trong hợp đồng nhưng đồng thời vẫn có quyền sử dụng nhãn hiệu và còn có thể chuyển quyền sử dụng nhãn hiệu cho bên thứ ba. Trong trường hợp này, nhiều chủ thể có thể cùng nhau khai thác, sử dụng nhãn hiệu theo phạm vi, mức độ và cho những mục đích riêng khác nhau mà không làm ảnh hưởng đến lợi ích hợp pháp của chủ thể khác.Nếu căn cứ vào chủ thể là bên chuyển quyền trong hợp đồng thì sẽ bao gồm:i)  Hợp đồng cơ bản: Là hợp đồng trong đó bên chuyển quyền chính là chủ sở hữu nhãn hiệu. Căn cứ để chuyển giao quyền sử dụng trong hợp đồng là quyền sở hữu nhãn hiệu được xác lập theo văn bằng bảo hộ hoặc do được người khác chuyển quyền sở hữu nhãn hiệu hợp pháp.ii)   Hợp đồng thứ cấp không căn bản: Là hợp đồng trong đó bên chuyển giao quyền không phải là chủ sở hữu nhãn hiệu mà là người nhận chuyển giao quyền sử dụng độc quyền theo hợp đồng khác và được phép chuyển quyền sử dụng cho bên thứ ba. Loại hợp đồng này luôn có tính chất phái sinh, nó chỉ phát sinh sau khi một hợp đồng sử dụng độc quyền nhãn hiệu được giao kết và phát sinh hiệu lực pháp lý. Căn cứ để chuyển giao quyền sử dụng trong trường hợp này là hợp đồng sử dụng độc quyền đã được giao kết với chủ sở hữu nhãn hiệu.Khi quy định về các loại hợp đồng chuyển quyền sử dụng nhãn hiệu, theo pháp luật Hoa Kỳ, chủ sở hữu nhãn hiệu có thể chuyển quyền sử dụng nhãn hiệu của họ cho một hoặc nhiều bên trên cơ sở độc quyền hay không độc quyền. Người được chuyển quyền sử dụng nhãn hiệu độc quyền có thể được chuyển quyền sử dụng lại nhãn hiệu cho bên thứ ba, còn người được chuyển quyền sử dụng nhãn hiệu không độc quyền không có quyền ký hợp đồng chuyển quyền sử dụng lại nhãn hiệu đó cho bên thứ ba37. Còn theo pháp luật Trung Quốc, trong phần Giải thích một số câu hỏi về việc áp dụng pháp luật trong xét xử các vụ việc tranh chấp dân sự về nhãn hiệu do Tòa án tối cao của Trung Quốc ban hành đã phân loại các dạng chuyển quyền dựa trên phạm vi quyền sử dụng nhãn hiệu của người được cấp phép và vị thế của người được cấp phép trong các vụ kiện tụng. Theo đó có 03 dạng hợp đồng chuyển quyền sử dụng nhãn hiệu:i)  Hợp đồng chuyển quyền sử dụng nhãn hiệu độc quyền (Exclusive license): chủ sở hữu nhãn hiệu chuyển quyền sử dụng nhãn hiệu độc quyền cho bên nhận quyền trong một thời hạn theo thỏa thuận, trong một lãnh thổ xác định và theo một cách thức thỏa thuận; chủ sở hữu nhãn hiệu không được sử dụng nhãn hiệu đó.ii)  Hợp đồng chuyển quyền sử dụng nhãn hiệu duy nhất (sole license): chủ sở hữu nhãn hiệu chuyển quyền sử dụng nhãn hiệu duy nhất và độc quyền cho bên nhận chuyển quyền sử dụng nhãn hiệu đó trong một thời hạn theo thỏa thuận, trong một lãnh thổ xác định và theo một cách thức thỏa thuận; tuy nhiên chủ sở hữu nhãn hiệu có thể tiếp tục sử dụng nhãn hiệu đó nhưng không được chuyển quyền sử dụng nhãn hiệu đó cho một bên khác sử dụng.iii)   Hợp đồng chuyển quyền sử dụng nhãn hiệu không độc quyền (Non - Exclusive license): chủ sở hữu nhãn hiệu chuyển quyền sử dụng nhãn hiệu cho bên thứ ba sử dụng trong một thời hạn theo thỏa thuận, trong một lãnh thổ xác định và theo một cách thức thỏa thuận; nhưng chủ sở hữu nhãn hiệu vẫn có thể sử dụng nhãn hiệu đó cũng như có quyền chuyển quyền sử dụng nhãn hiệu đó cho các bên khác.1.1.8  Vai trò của hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệuĐể xây dựng một nhãn hiệu thành công, chủ thể kinh doanh không những chỉ đơn thuần là gắn nó lên sản phẩm do mình làm ra mà phải có một chiến lược phát triển nhãn hiệu khôn khéo. Một trong những chiến lược tiêu biểu đó là thực hiện việc kí hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu cho một hoặc nhiều chủ thể khác. Thông qua hoạt động này, nhãn hiệu của doanh nghiệp sẽ được nhiều người tiêu dùng biết đến hơn và thậm chí trở thành những nhãn hiệu mang tầm cỡ toàn cầu. Thật vậy, khi mới thành lập năm 1891, Philips (hãng sản xuất đèn điện tử của Hà Lan) chuyên sản xuất đèn điện và các thiết bị điện tử khác, và đến những năm 1920, Philips mở rộng sang Mỹ, Pháp và Bỉ. Ngày nay, Philips không chỉ đơn thuần là một nhãn hiệu của Hà Lan mà được giới thiệu ra toàn thế giới. Bất cứ tại Áo, Ấn Độ, Úc, Mỹ… cũng có thể khẳng định điều này. Philips đã trở nên thân thuộc như “người một nhà” ở nhiều quốc gia. Câu chuyện thành công của Philips chỉ là một trong vô vàn các trường hợp tìm được sự thành công nhờ vào việc kí kết hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu, khiến cho việc kí kết hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu ngày càng trở nên phổ biến, được nhiều chủ thể kinh doanh sử dụng trong hoạt động kinh doanh để thỏa mãn nhu cầu cũng như thỏa mãn lợi ích của bên chuyển giao lẫn bên nhận chuyển giao và thậm chí là nền kinh tế lẫn người tiêu dùng cũng thu được không ít lợi ích từ loại hợp đồng này. Cụ thể:i)   Đối với bên chuyển giao: Bên chuyển giao sẽ thu được khoản tiền (phí chuyển giao) từ việc chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu để có thêm lợi nhuận hoặc lợi ích vật chất khác mà không phải trực tiếp sử dụng nhãn hiệu. Điều này càng phát huy tính hữu ích của nó khi chủ sở hữu nhãn hiệu không hoạt động kinh doanh hoặc không có năng lực kinh doanh. Còn đối với những chủ thể kinh doanh đã tạo lập nhãn hiệu thành công thì việc chuyển giao nhãn hiệu cũng là phương thức hữu hiệu để họ mở rộng mạng lưới kinh doanh, quảng bá nhãn hiệu lẫn sản phẩm trong và ngoài nước, tăng doanh thu. Đặc biệt, việc chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu còn giúp các nhà sản xuất, kinh doanh có khả năng bảo vệ nhãn hiệu cho sản phẩm của mình tốt hơn trước các hành vi xâm phạm nhãn hiệu bởi bên nhận chuyển giao sẽ là “tai mắt” cho bên chuyển giao trong việc phát hiện và thu thập các thông tin liên quan đến việc xâm phạm nhãn hiệu.ii)   Đối với bên nhận chuyển giao: Bên nhận chuyển giao lại muốn khai thác nhãn hiệu của người khác để gắn lên hàng hóa, dịch vụ của mình trong khi không cần phải mất thời gian tạo ra nhãn hiệu có “tên tuổi” cho hàng hóa, dịch vụ của mình nhưng vẫn được thụ hưởng lợi ích kinh tế từ việc khai thác nhãn hiệu đó (đặc biệt là nhận được quyền sử dụng các nhãn hiệu nổi tiếng).iii)  Đối với nền kinh tế quốc gia: Một khi nhãn hiệu của một hàng hóa, dịch vụ nào đó đã trở nên nổi tiếng, được nhiều người biết đến không chỉ trong nước mà còn ở nước ngoài thì hoạt động xuất khẩu các sản phẩm đó sẽ được đẩy mạnh, nhà nước sẽ thu được lượng ngoại tệ nhiều hơn từ hoạt động xuất khẩu. Đồng thời, chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu còn xây dựng sức mạnh tiêu thụ nội địa và đóng góp nhiều hơn cho ngân sách nhà nước (thông qua việc thu thuế, kể cả việc có thể thu thuế trên thu nhập mà các chủ thể nhận được từ hoạt động chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu). Bên cạnh đó, một nhãn hiệu nổi tiếng còn có thể trở thành một thương hiệu quốc gia (National brand)39, trở thành một công cụ nhận diện quốc gia, mà khi nhắc đến nhãn hiệu đó người ta nghĩ ngay đến quốc gia mà chủ sở hữu nhãn hiệu đó mang quốc tịch và ngược lại, khi nhắc đến quốc gia đó người ta nghĩ ngay đến nhãn hiệu nổi tiếng đó ví dụ như: khi nhắc đến Microsoft, IBM, Apple, Google sẽ nghĩ ngay đến nước Hoa Kỳ; Rolex, Longin sẽ nghĩ ngay đến nước Thụy Sĩ,nBeerlao sẽ nghĩ ngay đến nước Lào;…iv)  Đối với người tiêu dùng: Do việc chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu có thể mang lại cho các chủ thể kinh doanh những giá trị kinh tế lớn lao nên sẽ thúc đẩy họ xây dựng cho mình các nhãn hiệu nổi tiếng (nhãn hiệu càng nổi tiếng thì phí chuyển giao quyền sử dụng càng cao), nhưng để xây dựng được nhãn hiệu nổi tiếng có uy tín trong lòng khách hàng thì vấn đề tiên quyết mà doanh nghiệp buộc phải làm là không ngừng nâng cao chất lượng hàng hóa, phong cách phục vụ. Thông qua việc này, người tiêu dùng sẽ được thụ hưởng những sản phẩm có chất lượng tốt với phong cách phục vụ chu đáo và chuyên nghiệp hơn.1.1.9  Phân biệt hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu với một số loại hợp đồng khác1.1.9.1 Phân biệt hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu với hợp đồng chuyển nhượng nhãn hiệuHợp đồng chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu và hợp đồng chuyển nhượng nhãn hiệu do có những đặc điểm về chủ thể, hình thức, mục đích hợp đồng tương tự nhau nên rất dễ bị nhầm lẫn khi áp dụng trên thực tế, do đó cần phải có sự phân biệt để tránh những hậu quả đáng tiếc có thể xảy ra từ việc nhầm lẫn này. Trong hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu (hay còn gọi là li–xăng nhãn hiệu), bên chuyển giao (bên cấp li-xăng) vẫn tiếp tục sở hữu quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu, họ chỉ cho phép bên nhận chuyển giao (bên nhận li-xăng) được sử dụng nhãn hiệu trong giới hạn nhất định. Trong hợp đồng chuyển nhượng nhãn hiệu ((bán) quyền sở hữu nhãn hiệu), quyền sở hữu nhãn hiệu được chuyển từ bên nhượng quyền (người bán) sang bên tiếp nhận quyền (người mua), theo đó bên nhận chuyển nhượng sẽ có toàn quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt nhãn hiệu được chuyển nhượng. Đây là hình thức giao dịch một lần với mức giá thỏa thuận. Ví dụ: Công ty CocaCola là công ty kinh doanh đồ uống và là nhà sản xuất, bán lẻ, quảng bá các đồ uống và siro không cồn đa quốc gia của Hoa Kỳ (là chủ sở hữu của nhãn hiệu nước ngọt CocaCola). Giả sử tháng 1/2022, công ty này kí hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu CocaCola cho một công ty sản xuất và kinh doanh đồ uống tại Việt Nam. Theo đó, công ty mua lại quyền sử dụng nhãn hiệu này chỉ có quyền sử dụng nhãn hiệu này theo những thỏa thuận đã được quy định trong hợp đồng chứ không được bán đứt (chuyển quyền sở hữu) nhãn hiệu này cho người khác bởi chủ sở hữu nhãn hiệu CocaCola vẫn thuộc về công ty CocaCola. Tuy nhiên, nếu như cho công ty này kí hợp đồng để nhận chuyển nhượng quyền sở hữu nhãn hiệu CocaCola từ công ty CocaCola thì sau khi hợp đồng có hiệu lực, công ty này có thể tự mình sử dụng hoặc cho chủ thể khác cùng sử dụng nhãn hiệu thông qua hợp đồng li xăng nhãn hiệu không độc quyền hoặc cũng có thể bán quyền sở hữu nhãn hiệu này cho người khác.Bên cạnh đó, đối với hợp đồng chuyển nhượng nhãn hiệu thì giới hạn về không gian và thời gian mà nhãn hiệu được chuyển nhượng trong hợp đồng phải được ghi theo không gian và thời gian bảo hộ nhãn hiệu được ghi trong văn bằng bảo hộ. Song đối với hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu, giới hạn về không gian và thời gian nhãn hiệu được chuyển giao quyền sử dụng trong hợp đồng còn có thể phụ thuộc vào sự thỏa thuận của các bên, miễn sao thỏa thuận giới hạn về không gian và thời gian đó phù hợp với không gian và thời gian mà nhãn hiệu đó được bảo hộ ghi trong văn bằng bảo hộ.1.1.9.2 Phân biệt hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu với hợp đồng chuyển nhượng tên thương mạiTên thương mại được hiểu là tên gọi của tổ chức, cá nhân dùng trong hoạt động kinh doanh để phân biệt chủ thể kinh doanh mang tên gọi đó với chủ thể kinh doanh khác trong cùng lĩnh vực và khu vực kinh doanh. Trong thực tế kinh doanh, rất nhiều doanh nghiệp đã lấy chính tên thương mại của mình để làm nhãn hiệu cho hàng hóa mà mình sản xuất ra hoặc dịch vụ do mình cung cấp. Trên thế giới cũng như ở Việt Nam, những trường hợp như vậy không phải là hiếm, điển hình như:Công ty công nghiệp Samsung với các sản phẩm điện tử (tủ lạnh, ti vi…) mang nhãn hiệu Samsung; Công ty cổ phần cà phê Trung Nguyên với sản phẩm cà phê mang nhãn hiệu Trung Nguyên; công ty cổ phần sữa Việt Nam có tên viết tắt là Vinamilk với sản phẩm sữa tươi có nhãn hiệu là Vinamilk; công ty trách nhiệm hữu hạn Thiên Hương với sản phẩm mè xững mang nhãn hiệu Thiên Hương…Do đó, nhiều người không phân biệt được đâu là nhãn hiệu, đâu là tên thương mại, tên thương mại và nhãn hiệu có phải là một hay không? Chính vì vậy mà dẫn đến việc nhầm lẫn khi hiểu chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu cũng chính là chuyển nhượng tên thương mại.Từ khái niệm về nhãn hiệu và tên thương mại đã được đề cập ở những phần trên, chúng ta có thể khẳng định rằng nhãn hiệu khác với tên thương mại. Bởi nhãn hiệu không chỉ đơn thuần là một cái tên được gắn lên sản phẩm mà còn bao gồm dấu hiệu hoặc tổ hợp dấu hiệu có thể nhìn thấy được hoặc cảm nhận được thông qua các giác quan của con người như chữ cái, từ ngữ, hình vẽ, hình ảnh, kể cả hình ba chiều hoặc sự kết hợp các yếu tố đó, được thể hiện bằng màu sắc, âm thanh, mùi, vị nhằm để phân biệt hàng hoá, dịch vụ của chủ sở hữu nhãn hiệu với hàng hoá, dịch vụ của chủ thể khác. Còn tên thương mại chỉ đơn thuần là tên gọi của chủ thể kinh doanh, gắn liền với chủ thể kinh doanh và được dùng để phân biệt chủ thể kinh doanh mang tên gọi đó với chủ thể kinh doanh khác. Tên thương mại phải là tập hợp các chữ (kể cả chữ số) và phát âm được. Tên thương mại bao gồm hai phần: Phần mô tả và phần phân biệt. Phần mô tả là một tập hợp các từ có nghĩa mô tả tóm tắt loại hình kinh doanh (và lĩnh vực kinh doanh). Phần phân biệt là tập hợp các chữ cái (kể cả chữ số) phát âm được, có thể có nghĩa hoặc không có nghĩa. Phần mô tả không có khả năng tạo nên tính phân biệt cho tên thương mại (hai doanh nghiệp có tên thương mại khác nhau có thể có phần mô tả giống nhau). Ví dụ: Với tên Công ty TNHH xây dựng Thắng Lợi. Phần mô tả là “Công ty TNHH xây dựng”, phần phân biệt là “Thắng Lợi”, phân biệt với “Hiếu Hằng” trong “Công ty TNHH xây dựng Hiếu Hằng”. Một điểm khác biệt nữa là tên thương mại thường được sử dụng lâu dài, liên tục trong suốt thời gian tồn tại chủ thể kinh doanh. Còn một số nhãn hiệu trong một số trường hợp chỉ được sử dụng cho một vài thế hệ hàng hoá, dịch vụ nhất định, nhà sản xuất có thể thay đổi cho phù hợp thị hiếu người tiêu dùng hoặc chiến lược kinh doanh của mình.Từ những luận cứ nêu trên có thể cho thấy hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu khác với chuyển nhượng tên thương mại ở điểm cơ bản sau:Một là, khi giao kết hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu thường không đòi hỏi chủ sở hữu nhãn hiệu phải chuyển giao đồng thời toàn bộ cơ sở sản xuất kinh doanh cho bên nhận chuyển giao, tức là nhãn hiệu có thể được chuyển giao quyền sử dụng một cách độc lập, không cần phải chuyển giao cùng với các loại tài sản khác của bên chuyển giao. Còn đối với tên thương mại, chủ sở hữu tên thương mại chỉ được phép chuyển nhượng tên thương mại cho người khác với điều kiện phải chuyển nhượng cùng với việc chuyển nhượng toàn bộ cơ sở kinh doanh và hoạt động kinh doanh dưới tên thương mại đó.Hai là, việc chuyển giao quyền sử dụng đối với tên thương mại là hành vi bị cấm, tức là chủ sở hữu tên thương mại chỉ có thể chuyển nhượng (quyền sở hữu) tên thương mại chứ không được chuyển giao riêng quyền sử dụng tên thương mại cho chủ thể kinh doanh khác, trong khi đó nhãn hiệu thì có thể được chuyển giao quyền sử dụng mà không nhất thiết phải chuyển giao quyền sở hữu nhãn hiệu.1.1.9.3 Phân biệt hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu với hợp đồng nhượng quyền thương mạiĐể có thể phân biệt thấu đáo giữa hai loại hợp đồng này, trước hết chúng ta cần đề cập đến phương thức chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu. Qua nghiên cứu, tác giả nhận thấy có hai phương thức chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu phổ biến nhất đó là chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu một cách độc lập và chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu đi cùng với các đối tượng sở hữu công nghiệp khác. Cụ thể:i)  Chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu độc lập là việc bên có quyền chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu chỉ chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu đó cho bên nhận chuyển giao mà việc chuyển giao đó không đi kèm với việc chuyển giao các đối tượng của quyền sở hữu công nghiệp khác hay là hoạt động nhượng quyền thương mại giữa hai bên. Tức là, chủ sở hữu nhãn hiệu A nào đó chỉ chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu đó cho bên nhận chuyển giao mà không có chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu đi cùng với việc chuyển giao các đối tượng sở hữu công nghiệp khác (ví như: tên thương mại, bí mật kinh doanh;…); đồng thời việc chuyển giao quyền sử dụng này cũng không là một bộ phận nằm trong một hợp đồng nhượng quyền thương mại cụ thể nào đó. Việc chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu trong trường hợp này hoàn toàn là một hợp đồng độc lập có một đối tượng hợp đồng duy nhất được chuyển giao là quyền sử dụng nhãn hiệu.ii)   Chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu đi cùng với các đối tượng khác: Trong thực tiễn kinh doanh, chúng ta vẫn có thể thấy quyền sử dụng nhãn hiệu đôi khi đuợc chuyển giao cùng với việc chuyển nhượng tên thương mại, bí quyết kinh doanh, khẩu hiệu kinh doanh, biểu tượng kinh doanh, cách thức tổ chức kinh doanh,…Điều này thường xảy ra trong hợp đồng nhượng quyền thương mại giữa các bên.Nhượng quyền thương mại được xem là hoạt động thương mại, theo đó bên nhượng quyền cho phép và yêu cầu bên nhận quyền tự mình tiến hành việc mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ theo các điều kiện như: việc mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ được tiến hành theo cách thức tổ chức kinh doanh do bên nhượng quyền quy định và được gắn với nhãn hiệu hàng hoá, tên thương mại, bí quyết kinh doanh, khẩu hiệu kinh doanh, biểu tượng kinh doanh, quảng cáo của bên nhượng quyền; Bên nhượng quyền có quyền kiểm soát và trợ giúp cho bên nhận quyền trong việc điều hành công việc kinh doanh. Theo đó đối tượng của nhượng quyền thương mại là quyền thương mại. Quyền thương mại được hiểu là quyền tiến hành kinh doanh hàng hóa, dịch vụ theo cách thức của bên nhượng quyền quy định, cùng với đó là việc được sử dụng nhãn hiệu, tên thương mại, bí quyết kinh doanh, khẩu hiệu kinh doanh, biểu tượng kinh doanh,…của bên nhượng quyền. Do đó, hợp đồng nhượng quyền thương mại thường không thuần túy là chỉ chuyển quyền sử dụng nhãn hiệu. Từ những phân tích ở trên, có thể thấy, trong hợp đồng đồng nhượng quyền thương mại thường có sự tồn tại của việc chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu từ bên nhượng quyền sang bên nhận quyền. Do đó, khi đề cập đến hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu, nhiều người vẫn thường nhầm lẫn chúng với hợp đồng nhượng quyền thương mại. Thế nhưng, giữa hai loại hợp đồng này vẫn có điểm khác biệt, cụ thể:Một là, nếu như hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu chỉ dừng lại ở việc chuyển giao quyền sử dụng thì ở nhượng quyền thương mại quyền sử dụng các đối tượng sở hữu công nghiệp chỉ là một phần của việc chuyển giao, bên cạnh đó còn là sự chuyển giao về bí quyết kinh doanh, khẩu hiệu kinh doanh, biểu tượng kinh doanh, cách thức tổ chức kinh doanh,… Như vậy, phạm vi đối tượng chuyển giao của hợp đồng nhượng quyền thương mại là rộng hơn rất nhiều so với hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu.Hai là, nếu như trong hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu nhãn hiệu, cái mà các bên nhận chuyển giao hướng tới là sử dụng nhãn hiệu hàng hoá, dịch vụ, thì trong hoạt động nhượng quyền thương mại, mục tiêu mà các bên hướng tới là nắm giữ và vận hành một hệ thống kinh doanh, trong đó sử dụng nhãn hiệu hàng hoá, dịch vụ cũng như các đối tượng khác chỉ là một bộ phận cấu thành giúp các bên đạt được mục đích của việc nhượng quyền thương mại.Ba là, trách nhiệm của bên nhận chuyển quyền trong hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu trên thực tế có phần lỏng lẻo do bên nhận chuyển quyền thường không chịu sự kiểm tra, giám sát, hướng dẫn trong hoạt động kinh doanh từ bên chuyển quyền vì đây không phải là nội dung điều khoản bắt buộc phải có trong hợp đồng, thì trong hợp đồng nhượng quyền thương mại bên nhận chuyển quyền phải chịu sự kiểm tra, giám sát, hướng dẫn của bên nhượng quyền trong suốt quá trình tổ chức kinh doanh kể từ thời điểm nhận nhượng quyền. Thậm chí nếu như bên nhượng quyền thương mại thay đổi cách thức tổ chức kinh doanh thì bên nhận chuyển quyền thương mại cũng phải thay đổi theo.Theo: Nguyễn Thanh TùngLink luận án: https://docs.google.com/document/d/1IqZZc23icSQ_cCwJk_Pur563yqc9Fq2n/edit